Trong năm 2009, cả nước có 194 bệnh nhân sốt rét ác tính, gây 27 trường hợp tử vong. Riêng khu vực miền Trung-Tây nguyên, vùng trọng điểm sốt rét, số sốt rét ác tính chiếm 58,25% (113/194) và số tử vong chiếm 59,26% (16/27) so với toàn quốc. Trong 3 tháng đầu năm 2010, miền Trung-Tây Nguyên cũng đã có 22 sốt rét ác tính gây nên 1 trường hợp bị tử vong. Vậy để hạn chế tử vong, sốt rét ác tính phải được điều trị ở tuyến nào để có hiệu quả ?
Trong hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh sốt rét, Bộ Y tế quy định sốt rét ác tính phải được điều trị tại tuyến bệnh viện huyện, thị xã, thành phố, công-nông-lâm trường, xí nghiệp; bệnh viện tỉnh và trung ương. Theo đó, trạm y tế xã, phường, thị trấn; y tế thôn bản, cơ sở y tế tư nhân không được điều trị sốt rét ác tính; khi phát hiện người bệnh có các dấu hiệu dự báo sốt rét ác tính phải xử trí ban đầu và chuyển ngay bệnh nhân lên tuyến trên.
Các dấu hiệu dự báo sốt rét ác tính
Dấu hiệu dự báo sốt rét ác tính được phát hiện khi người bệnh có rối loạn ý thức nhẹ thoáng qua như li bì, cuồng sảng, vật vả ... Bị sốt cao liên tục. Có rối loạn tiêu hóa như nôn nhiều lần trong ngày, tiêu chảy mất nước, đau bụng cấp. Nhức đầu dữ dội. Thiếu máu nặng như da xanh, niêm mạc nhợt nhạt. Xét nghiệm máu thấy mật độ ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum cao, thường có ký hiệu ++++ hoặc ³ 100.000 ký sinh trùng trên 1 micro-lít máu.
Sốt rét ác tính là trường hợp sốt rét nặng thường gặp do nhiễm ký sinh trùng Plasmodium falciparum hoặc nhiễm phối hợp có Plasmodium falciparum, có một hay nhiều biến chứng trầm trọng có thể đe dọa đến tính mạng của người bệnh. Vì vậy cần phải được phát hiện, chẩn đoán sớm; điều trị kịp thời, hồi sức tích cực để giúp bệnh nhân thoát khỏi tình trạng nguy kịch, không để bị tử vong.
Y tế thôn bản xử trí ban đầu như thế nào ?
Y tế thôn bản khi đối diện với bệnh nhân sốt rét cần phải theo dõi người bệnh một cách chặt chẽ. Nếu phát hiện thấy một trong các dấu hiệu dự báo sốt rét ác tính như đã nêu ở trên, cần cho người bệnh uống ngay liều đầu tiên bằng thuốc Arterakine hoặc CV Artecan (Dihydroartemisinine-Piperaquine) theo nhóm tuổi quy định: dưới 3 tuổi, uống nửa viên; từ 3 đến dưới 8 tuổi, uống 1 viên; từ 8 đến dưới 15 tuổi, uống 1,5 viên và từ 15 tuổi trở lên, uống 2 viên. Sau đó tìm mọi cách chuyển ngay bệnh nhân lên tuyến trên. Thuốc viên phải được nghiền nhỏ và pha trong nước cho tan hoàn toàn. Trước khi uống thuốc, phải cho người bệnh uống thử một ít nước, nếu không bị sặc mới uống tiếp thuốc đã pha theo liều lượng quy định đã chuẩn bị sẵn. Y tế thôn bản sau khi tập huấn chuyên môn nghiệp vụ, được trang cấp, hướng dẫn sử dụng cụ thể 2 loại thuốc gồm CV Artecan hoặc Arterakine (Dihyroartemisinine-Piperaquine) và Chloroquine.
Y tế xã, phường, thị trấn và y tế tư nhân xử trí ban đầu như thế nào ?
Y tế xã, phường, thị trấn và y tế tư nhân đã được trang bị thuốc tiêm để xử trí ban đầu khi gặp phải những trường hợp người bệnh có các dấu hiệu dự báo sốt rét ác tính như đã nêu ở trên. Khi đối diện với bệnh nhân có một trong các dấu hiệu dự báo sốt rét ác tính, y tế xã, phường, thị trấn và y tế tư nhân cần tiêm ngay cho bệnh nhân liều đầu tiên bằng thuốc Artesunate ống 60mg với liều 2,4 mg/kg cân nặng; nếu thời gian vận chuyển người bệnh lên tuyến trên dài quá 8 giờ thì cần tiêm liều tiếp theo 1,2 mg/kg cân nặng. Nếu không cân được, dùng liều thuốc đầu tiên theo nhóm tuổi: dưới 1 tuổi, 2 ml; từ 1 đến dưới 5 tuổi, 4 ml; từ 5 đến dưới 12 tuổi, 8 ml; từ 12 đến dưới 15 tuổi, 10 ml; từ 15 tuổi trở lên 12 ml (2 lọ). Nếu thời gian vận chuyển bệnh nhân lên tuyến trên dài quá 8 giờ thì tiêm liều tiếp theo bằng nửa liều sử dụng đầu tiên. Bất cứ trường hợp nào, sau khi xử trí ban đầu với liều thuốc đầu tiên, phải tìm mọi phương tiện chuyển ngay bệnh nhân lên tuyến trên càng sớm càng tốt. Mọi sự chậm trễ sẽ làm ảnh hưởng đến tính mạng của người bệnh khi các biến chứng trầm trọng có thể xảy ra bất cứ lúc nào mà không có đủ các phương tiện hồi sức cấp cứu.
|
Hai dạng thuốc artesunat đang dùng hiện nay |
Cần chú ý không dùng Artesunate tiêm cho phụ nữ có thai trong 3 tháng đầu bị mắc sốt rét, trừ trường hợp sốt rét ác tính mà không có Quinine. Việc pha thêm 5 ml Natri chlorure 0,9% là để chia liều lượng chính xác cho bệnh nhân trẻ em. Trường hợp không tiêm được tĩnh mạch thì có thể tiêm bắp. Chỉ cần pha bột thuốc với 1 ml Natri bicarbonate 5% kèm theo, lắc kỹ cho bột Artesunate tan hoàn toàn rồi tiêm bắp. Nên thận trọng trong việc pha bình thuốc bột với dung môi 1 ml Natri bicarbonate 5%, bảo đảm thuốc hòa tan đầy đủ mới được sử dụng để tiêm.
Đối với phụ nữ có thai dưới 3 tháng tuổi có các dấu hiệu dự báo sốt rét ác tính, nên sử dụng thuốc Quinine hydrochloride hoặc Quinine dihydrochloride tiêm nếu có. Thuốc Quinine hydrochloride ống 500 mg, dùng liều 30 mg/kg cân nặng/24 giờ, tiêm bắp thịt 3 lần, cách nhau 8 giờ. Nếu không cân được, dùng liều lượng theo nhóm tuổi: dưới 1 tuổi, 1/10 ống; từ 1 đến dưới 5 tuổi, 1/6 – 1/3 ống; 5 đến dưới 12 tuổi, 1/2 ống; từ 12 đến dưới 15 tuổi, 2/3 ống; từ 15 tuổi trở lên, 1 ống và lẽ dĩ nhiên cũng dùng 3 lần trong ngày cách nhau 8 giờ. Quinine hydrochloride tiêm bắp thịt dễ gây nên áp xe nên cần được tiêm bắp thịt sâu và bảo đảm vô trùng. Thuốc Quinine dihydrochloride ống 500 mg, được pha trong Natri chlorure 0,9% hoặc Glucose 5% để truyền tĩnh mạch. Nếu trước đó người bệnh chưa được điều trị bằng Quinine thì truyền tĩnh mạch lần đầu tiên với liều 20 mg/kg cân nặng, sau đó có thể truyền thêm 10 mg/kg cân nặng nếu thời gian vận chuyển bệnh nhân lên tuyến trên dài quá 8 giờ. Truyền với tốc độ 40 giọt/ phút. Chú ý khi dùng Quinine, đề phòng hạ đường huyết và trụy tim mạch do truyền nhanh. Phụ nữ có thai mắc sốt rét thường hay bị hạ đường huyết, nhất là khi điều trị bằng Quinine; vì vậy nên truyền Glucose 10% và theo dõi Glucose máu.
|
Cán bộ y tế đang khám cho bệnh nhân sốt rét tại thôn bản |
Khi chuyển bệnh nhân lên tuyến trên, bắt buộc tuyến dưới phải ghi đầy đủ chẩn đoán, các diễn biến lâm sàng, chủng loại thuốc, liều thuốc đã sử dụng ... để tuyến trên theo dõi và tiếp tục điều trị cho có hiệu quả. Không chuyển ngay những người bệnh đang ở trong tình trạng sốc như mạch nhanh, nhỏ, khó bắt, chân tay lạnh, vã mồ hôi, tụt huyết áp; có triệu chứng phù phổi cấp, co giật ... Trường hợp không thể chuyển bệnh nhân lên tuyến trên được, cần đề nghị tuyến trên tới tăng cường bằng phương tiện nhanh nhất; đồng thời tiếp tục điều trị tích cực trong thời gian chờ đợi.
Như vậy để hạn chế tử vong do sốt rét, các trường hợp sốt rét ác tính phải được điều trị từ tuyến bệnh viện huyện, thị xã, thành phố trở lên. Các trạm y tế xã, phường, thị trấn; y tế thôn bản và cơ sở hành nghề y tế tư nhân khi gặp phải những người bệnh sốt rét có một trong các dấu hiệu dự báo sốt rét ác tính như đã nêu ở trên chỉ được phép xử trí ban đầu và tìm mọi cách chuyển ngay người bệnh lên tuyến trên; mọi sự chậm trễ sẽ làm cho bệnh nhân xuất hiện các biến chứng trầm trọng, dẫn đến hậu quả tử vong. Các cơ sở y tế tuyến đầu cần phát hiện, chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời những bệnh nhân sốt rét thể thông thường; không nên để phải đối diện với người bệnh có dấu hiệu dự báo sốt rét ác tính hoặc sốt rét ác tính; việc xử trí sẽ gặp rất nhiều khó khăn, tính mạng người bệnh sẽ khó lường. Nên thực hiện khẩu hiệu hành động “Không có sốt rét ác tính, không có tử vong” để bảo đảm mục tiêu giảm chết do sốt rét trong năm 2010 và các năm tiếp theo theo chỉ đạo của Bộ Y tế.