Ngày 24/12/2010: Công tác dân số thủ đô - Đối mặt thách thức mới; Lập 6 đoàn kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm dịp tết nguyên đán; Tiêu hủy gia vị lẩu, phụ gia không rõ nguồn gốc; Những vướng mắc trong điều trị bệnh vô sinh; Công đoàn Y tế Việt Nam - Thực hiện quy tắc ứng xử trong cán bộ Y tế; Suy giảm giống nòi vì hôn nhân cận huyết.
Ngày 25/12/2010: Công điện khẩn của Bộ Y tế: Chủ động ứng phó với thời tiết nguy hiểm; Bổ nhiệm Cục trưởng Cục Y tế dự phòng và Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm y tế; Công tác phòng chống dịch được kiểm soát chặt chẽ; Nâng cao năng lực kiểm nghiệm thuốc .
Hà Nội mới, Phụ nữ Việt Nam
Công tác dân số thủ đô - Đối mặt thách thức mới
Qua 5 năm thực hiện Nghị quyết 47 (ngày 22/3/2005) của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ), công tác DS Hà Nội đã trải qua những thăng trầm, từ "thất bại" do hai năm không đạt chỉ tiêu giảm sinh, đến sự xáo trộn do hai lần "tách nhập"... đến nay hệ thống DS đã dần ổn định, đi đúng định hướng, các chỉ tiêu giảm sinh, sinh con thứ 3 đều đạt và vượt chỉ tiêu.
Điểm lại 5 năm qua, bắt đầu từ mốc thời gian Hà Nội mở rộng, công tác DS-KHHGĐ Thủ đô đã vượt qua được nhiều khó khăn, nhất là thách thức về tỷ lệ gia tăng DS, tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên của tỉnh Hà Tây cũ, huyện Mê Linh rất cao (tăng từ 0,81-1,44%/năm), đặc biệt là tổ chức bộ máy làm công tác DS bị mất ổn định… Nhưng qua thời gian, những vướng mắc của công tác DS-KHHGĐ đã lần lượt được tháo gỡ, có thêm nhiều kết quả đáng mừng. Ví như, năm 2009, tỷ suất sinh thô giảm 0,29%o/năm, tỷ lệ con thứ 3 trở lên giảm 0,85%. Năm 2010, các chỉ tiêu về tỷ lệ sinh và sinh con thứ 3 trở lên đều giảm so với năm 2009. Các chỉ tiêu về nâng cao chất lượng DS cũng tăng đáng kể: tuổi thọ bình quân đạt 74,9 tuổi (cả nước 72,8); tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm thấp nhất trong cả nước (13,5%).
Nhiều mô hình, đề án được xây dựng, thực hiện mang lại hiệu quả cao, như: ngăn ngừa và giảm thiểu tác động của tệ nạn xã hội đến gia đình trên địa bàn; đề án hỗ trợ trẻ em khuyết tật ở Hà Nội giai đoạn 2006-2010; dự án phòng chống HIV/AIDS cho thanh niên ở Hà Nội giai đoạn 2007-2011 tại Ba Đình, Đông Anh, Chương Mỹ, Sơn Tây...
Đạt được những thành công đó, vấn đề tiên quyết chính là nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và ngành DS-KHHGĐ. Có thể thấy rõ, ở đâu có sự vào cuộc quyết liệt thì ở đó sẽ thu lượm kết quả tốt, Phó Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy Nguyễn Khả Hùng khẳng định. Sự vào cuộc đó đã được cụ thể hóa trong Chỉ thị số 02 ngày 2/10/2008 của Thành ủy về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS-KHHGĐ; Nghị quyết số 05, ngày 17/7/2009 của Hội đồng nhân dân TP và Đề án số 98/ĐA-UBND ngày 22/7/2009 của UBND TP về: "Một số giải pháp tăng cường công tác DS-KHHGĐ Hà Nội đến năm 2015". Đó là những tiền đề quan trọng cho các hoạt động DS-KHHGĐ từ năm 2010 trở đi với các giải pháp đồng bộ mà quan trọng vẫn là tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương.
Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại, công tác DS Hà Nội tiếp tục mở ra nhiều yêu cầu, thách thức mới. Trước tiên là vấn đề "nóng" và cũng là mục tiêu mũi nhọn phải được ưu tiên giải quyết, đó là tình trạng chênh lệch tỷ số giới tính khi sinh (120 trẻ gái/100 trẻ trai). Nếu như giai đoạn 2001-2005, tỷ số này chưa vượt ngưỡng trung bình thì từ năm 2006 đến nay đã tăng vượt ngưỡng: Hà Nội cũ 112/100 (năm 2006) tăng lên 116/100 (năm 2008); Hà Tây cũ 115/100 (năm 2007) tăng lên 124/100 (năm 2008). Năm 2009, tỷ số này của Hà Nội là 113,2/100 và nằm trong tốp báo động cao nhất của cả nước vào năm nay, với tỷ số lên tới 120/100.
Theo kết quả Tổng điều tra dân số năm 2009, lao động có bằng cấp chuyên môn, kỹ thuật của Hà Nội chiếm 26,9% số dân, đạt 40% DS trong độ tuổi lao động, thấp hơn TP Hồ Chí Minh (30% và 41%). Như vậy, có nghĩa là đa số lao động của Hà Nội vẫn thuộc tốp lao động giản đơn. Tỷ lệ người khuyết tật ở Hà Nội là 6,5%, với gần 42 vạn người khuyết tật ở mức độ khác nhau, cao hơn TP Hồ Chí Minh (5,5%). Bên cạnh đó, Hà Nội đã bước vào "cơ cấu DS vàng" từ năm 2005 và thách thức không nhỏ khi cơ cấu DS già cũng đã đến từ năm 2009 với tỷ lệ người cao tuổi (NCT) chiếm 10,4% (khoảng 65.000 người). Trong đó 25% NCT bị tàn tật và sức khỏe yếu, đa số thuộc nhóm nghèo và cận nghèo. Tỷ lệ nạo phá thai trong lứa tuổi vị thành niên và thanh niên trẻ khá cao, chiếm tới gần 30%... Tất cả những vấn đề trên đang là một thách thức không nhỏ đối với Thủ đô, mà muốn giải quyết vấn đề đó, công tác DS-KHHGĐ rất cần sự quan tâm đầu tư cả về kinh phí cũng như phương hướng hành động của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương.
Mục tiêu phấn đấu đến năm 2015
- Giảm tỷ lệ sinh bình quân 0,02%/năm; giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi xuống còn dưới 11%; tỷ lệ trẻ em được tiêm chủng mở rộng đạt trên 99,5%...
- Nâng cao chất lượng DS, phấn đấu đến năm 2015 có 90% số thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ THPT và tương đương; tỷ lệ lao động qua đào tạo là 55%; 100% các xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế và 100% số hộ dân nông thôn được sử dụng nước bảo đảm vệ sinh.
Hà Nội mới
Lập 6 đoàn kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm dịp tết nguyên đán
Chiều ngày 23/12, Sở Y tế Hà Nội đã triển khai kế hoạch kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP) phục vụ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng và Tết Nguyên đán.
Theo đó, 6 đoàn thanh tra liên ngành (y tế, nông nghiệp và phát triển nông thôn, công thương, công an, thông tin truyền thông, khoa học và công nghệ) sẽ xuống 29 quận, huyện, thị xã tăng cường giám sát các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ ăn uống từ ngày hôm nay (24/12). Các đoàn sẽ tập trung kiểm tra giấy tờ, thủ tục pháp lý, điều kiện ATVSTP, đồng thời lấy các mẫu thực phẩm để xét nghiệm. Sở Y tế sẽ thành lập 2-4 đội cơ động trực 24/24h để kịp thời ứng cứu khi có vụ ngộ độc xảy ra.
Cùng ngày, Sở Y tế cũng đã có công văn chỉ đạo các ban, ngành liên quan tiến hành kiểm tra việc thực hiện những quy định về ATVSTP các cơ sở chế biến, kinh doanh mặt hàng gia vị (gia vị nấu lẩu, gia vị lẩu Tứ Xuyên, sa tế, ớt bột…) trên địa bàn.
Tuổi trẻ, An ninh Thủ đô, Thanh niên, Lao động, Phụ nữ Việt Nam
Tiêu hủy gia vị lẩu, phụ gia không rõ nguồn gốc
Ngày 23/12, cục trưởng Cục An toàn vệ sinh thực phẩm Nguyễn Công Khẩn đã có văn bản gửi sở y tế các tỉnh thành yêu cầu tịch thu, tiêu hủy ngay các loại gia vị lẩu, phụ gia thực phẩm không rõ nguồn gốc xuất xứ, không cần chờ kết quả kiểm nghiệm.
Ông Khẩn cho biết Bộ Y tế, Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Khoa học công nghệ đang cử 12 đoàn kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm ở 24 địa phương trọng điểm. Cùng ngày, Phó chủ tịch UBND TP Hà Nội Ngô Thị Thanh Hằng có văn bản thông báo Hà Nội đã thành lập sáu đoàn kiểm tra thực phẩm Tết Nguyên đán Tân Mão và công tác chuẩn bị phục vụ Đại hội Đảng tại tất cả khách sạn có đại biểu nghỉ.
Pháp luật TP. HCM, An ninh Thủ đô, Lao động
Những vướng mắc trong điều trị bệnh vô sinh
Đó là chủ đề của hội thảo được tổ chức ngày 23/12 tại BV Phụ sản trung ương nhằm mang đến những thông tin hữu ích trong điều trị vô sinh và những hy vọng cho các cặp vợ chồng.
Các chuyên gia hội thảo sẽ trình bày các tham luận về lĩnh vực vô sinh, giải đáp thắc mắc của các bác sĩ trong điều trị; giải pháp cho nhóm bệnh nhân đáp ứng buồng trứng kém và kinh nghiệm điều trị nội khoa trong vô sinh nam.
Đặc biệt, GS.TSKH Hoàng Tích Huyền và các chuyên gia tại hội thảo đã đưa ra những giải pháp hỗ trợ hiệu quả trong điều trị vô sinh. Trong đó, ghi nhận tính ưu việt phương pháp hỗ trợ của y học cổ truyền. Sự hỗ trợ đắc lực của phương pháp này sẽ giúp tăng cường chức năng sinh sản của cơ thể, chất lượng trứng, tăng khả năng phóng noãn và trên hết là làm tăng số lượng cũng như chất lượng tinh trùng, đồng thời tạo môi trường thuận lợi cho phôi làm tổ và phát triển. Phương pháp y học cổ truyền còn giúp cho cơ thể cảm giác nhẹ nhàng, thư thái, không căng thẳng tâm lý cho người được điều trị.
Lao động
Công đoàn Y tế Việt Nam - Thực hiện quy tắc ứng xử trong cán bộ Y tế
Ngày 23/12, Công đoàn Y tế Việt Nam (CĐYTVN) tổ chức Hội nghị tổng kết hoạt động CĐ y tế toàn quốc năm 2010 và kỷ niệm 53 năm Ngày thành lập CĐ ngành y tế (23/12/1957 - 23/12/2010).
Dự hội nghị có Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Bá Thủy; Uỷ viên Đoàn Chủ tịch, Chủ nhiệm UBKT Tổng LĐLĐVN Đỗ Xuân Học...
Nâng tầm chất lượng công đoàn cơ sở
Theo bà Phạm Thị Luyên, Chủ tịch CĐYTVN, ngành y tế hiện có khoảng 35.000 cán bộ CNVCLĐ, trong đó tỉ lệ nữ chiếm khoảng 63%. Tính đến tháng 12/2010, toàn ngành có 13.506 cơ sở bệnh viện công lập và 100 bệnh viện tư. CĐYTVN hiện chỉ đạo trực tiếp 87 CĐ cấp trên cơ sở và CĐ cơ sở (CS) trên địa bàn cả nước và phối hợp với các LĐLĐ tỉnh, thành phố chỉ đạo hoạt động theo ngành nghề 63 CĐ ngành y tế địa phương và 32 CĐCS trực thuộc Bộ Y tế.
Tổng số đoàn viên do CĐ ngành trực tiếp quản lý là 25.716 người, trong đó có 18 CĐCS thuộc các đơn vị ngoài công lập với 4.913 đoàn viên. Trong năm 2010, đời sống của CBCNVC ngành y tế giữ được ổn định, các chế độ chính sách tiền lương, tiền công, các chế độ phụ cấp, BHXH, BHYT đối với NLĐ được các đơn vị thực hiện nghiêm túc, đầy đủ và kịp thời. Điều kiện làm việc tại các đơn vị cơ sở đã được quan tâm từng bước để đầu tư cơ sở vật chất, trang bị các phương tiện làm việc đảm bảo tốt hơn cho NLĐ.
Hoạt động của các cấp CĐ ngành y tế năm 2010 đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, nhất là việc nâng cao chất lượng của CĐCS, chăm lo lợi ích của đoàn viên, CNVCLĐ. Năm 2010, CĐYTVN đã thành lập mới 5 CĐCS, tiếp nhận CĐ BV Đa khoa Trung ương Quảng Nam và thành lập mới 2 CĐCS khu vực y tế tư nhân. Để nâng tầm chất lượng CĐCS và đội ngũ cán bộ CĐ, công tác phát triển đoàn viên và xây dựng tổ chức CĐCS toàn ngành được duy trì đều đặn. 70 CĐCS trực thuộc CĐYTVN đã tổ chức thành công đại hội nhiệm kỳ 2010-2013; CĐYTVN tổ chức 29 lớp tập huấn nghiệp vụ CĐ cho 2.078 cán bộ CĐCS là các đồng chí ủy viên ban chấp hành, ủy ban kiểm tra CĐCS, chủ tịch CĐ bộ phận và tổ trưởng CĐ thuộc các CĐCS trực thuộc CĐYTVN...
Thi đua xây dựng bệnh viện xuất sắc
Xác định 2011 là năm có những sự kiện trọng đại của đất nước như Đại hội XI Đảng CSVN; là năm đánh giá nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội X CĐVN, CĐYTVN đã lên kế hoạch tổ chức các phong trào thi đua yêu nước trong CNVCLĐ toàn ngành y tế, trong đó chú trọng thi đua làm theo lời Bác “Người thầy thuốc giỏi đồng thời phải như người mẹ hiền”; thực hiện có hiệu quả Đề án 1816 và quy tắc ứng xử trong cán bộ viên chức ngành y tế; thi đua xây dựng bệnh viện xuất sắc toàn diện... CĐ ngành cũng sẽ phối hợp với Bộ Y tế triển khai có hiệu quả Đề án chống quá tải tại bệnh viện và tổ chức hội thi “Điều dưỡng, kỹ thuật viên giỏi, thanh lịch” lần thứ ba từ cấp cơ sở đến cấp ngành toàn quốc. CĐ YTVN còn tham gia tổ chức cuộc vận động “Người Việt Nam dùng thuốc sản xuất tại Việt Nam”.
Về thực hiện chức năng chăm lo đời sống, đại diện, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của CNVCLĐ trong năm 2011, CĐ YTVN sẽ chỉ đạo các cấp CĐ trong ngành tiếp tục đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ cơ sở và các hoạt động xã hội; phối hợp với chính quyền đồng cấp tổ chức hội nghị cán bộ công chức, đại hội CNVC, hội nghị người lao động và ký TƯLĐTT, ký HĐLĐ, đảm bảo đúng quy định của pháp luật. CĐ ngành sẽ tăng cường giám sát việc thực hiện chế độ chính sách cho NLĐ, tham gia với Bộ Y tế trong việc xây dựng các chế độ chính sách cho NLĐ, phấn đấu đảm bảo sự công bằng giữa cống hiến và đãi ngộ cho cán bộ, nhân viên y tế.
Suy giảm giống nòi vì hôn nhân cận huyết
Anh em họ làm thông gia, thậm chí mình là thông gia cho chính mình hay chưa đến 30 tuổi đã lên ông, lên bà. Đó không phải là chuyện hiếm ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tảo hôn và hôn nhân cận huyết đang thực sự làm suy giảm chất lượng dân số của một bộ phận cộng đồng trong một số dân tộc thiểu số ở miền núi, trong khi cán bộ dân số đau đầu mà không thể can thiệp.
Tự mình là thông gia cho chính mình
Vài năm trước đây, cán bộ dân số ở một xã của huyện Nguyên Bình (Cao Bằng) đã được chứng kiến đám cưới có một không hai: Anh trai lấy em gái. 15 năm trước, khi sinh đôi hai đứa con 1 trai, 1 gái, người mẹ đã đem cô con gái làm con nuôi, theo quan điểm duy tâm của gia đình, điều đó sẽ tránh những điều không hay xảy đến với hai đứa bé. Đến khi con đến tuổi dựng vợ gả chồng, chị lại đưa con gái gả cho con trai. Theo quan niệm của người Mông, chỉ cần khác ma – khác họ là lấy được nhau. Khi đến UBND xã làm thủ tục đăng ký kết hôn, chỉ điền vào tờ khai theo mẫu in sẵn, mỗi người lại mang một họ khác nhau nên chính quyền xã cũng không thể biết họ có quan hệ họ hàng gần gũi. Đến nay, đã gần 5 năm sau đám cưới, hai vợ chồng đã sinh được 2 đứa con. Hai đứa cháu tuy chưa có biểu hiện bệnh, ngoài tầm vóc còi cọc hơn trẻ cùng trang lứa, nhưng vì cha mẹ cùng dòng máu, không ai có thể chắc chắn sẽ không có bất thường gì xảy ra trong tương lai.
BS Dương Thị Minh Hiền, Phó Chi cục trưởng Chi cục Dân số - Kế hoạch hoá gia đình (DS-KHHGĐ) Cao Bằng - nhận định: “Bên cạnh các giá trị văn hoá mang đậm bản sắc dân tộc, vẫn còn nhiều tập tục lạc hậu cùng song hành. Nặng nề nhất là các tập quán về hôn nhân và sinh đẻ: tảo hôn, sinh con sớm, sinh đẻ nhiều; anh em họ lấy nhau. Tảo hôn gặp nhiều nhất ở dân tộc Dao, Mông; ít lấy vợ lấy chồng sớm nhất như các dân tộc Tày, tỉ lệ tảo hôn cũng lên tới hơn 20%. Từ tháng 9.2009 đến nay, cùng với 4 tỉnh khác, Cao Bằng bắt tay thí điểm mô hình can thiệp giảm thiểu tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống. Khi mùa cưới bắt đầu, cũng là lúc các cán bộ Chi cục DS-KHHGĐ Cao Bằng rà soát và để mắt tới những cô bé, cậu bé trên 10 tuổi.
Theo BS Hiền cho biết, nhiều kết quả khảo sát liên tục những năm qua đã chứng tỏ hôn nhân cận huyết, tảo hôn là những vấn đề rất nóng ở Cao Bằng. Kết quả khảo sát ở 9 xã thuộc 3 huyện Bảo Lạc, Nguyên Bình và Thông Nông cho thấy, tỉ lệ tảo hôn ở 9 xã này là 45%. Tảo hôn cao nhất là ở dân tộc Dao 64% và Mông 61%. Ít nhất là dân tộc Tày cũng là 23%. Số cặp vợ chồng có ra UBND xã đăng ký kết hôn chỉ tập trung ở các cặp Tày - Nùng. Còn ở các dân tộc khác chỉ đăng ký kết hôn sau khi có quy định của Chính phủ về thực hiện đăng ký kết hôn lại cho các cặp vợ chồng từ trước tới nay đã chung sống với nhau.
Khảo sát trên quy mô toàn tỉnh thì số hộ có người tảo hôn là 629 hộ gia đình. Hộ có người tảo hôn có ở hầu hết các huyện, trong đó huyện Nguyên Bình - huyện cư trú của đồng bào dân tộc Dao - có tới 30% hộ gia đình có người tảo hôn. Đó là những cặp mà chồng 10 tuổi và vợ mới 13, 14 tuổi. Từ trước tới nay, đến tuổi đó ai cũng muốn việc dựng vợ gả chồng đã như vậy. Khi cán bộ dân số đến vận động, họ trả lời: “Các cô đi vận động cho con cái lấy muộn, đến khi con gái tốt người ta lấy hết rồi, con tôi còn lấy ai nữa”.
Theo thống kê của ngành dân số năm 2008, 12,2% cặp vợ chồng mới cưới ở Cao Bằng là tảo hôn. Tuy nhiên, trên thực tế, tảo hôn còn cao hơn nhiều vì số người không đăng ký kết hôn là rất lớn, do chưa đủ tuổi để đăng ký. Huyện Bảo Lạc, tại xã Bảo Toàn có 13 cặp tảo hôn, 4 cặp kết hôn cận huyết; xã Hồng Trị có 20 cặp tảo hôn, 5 cặp anh em họ lấy nhau. Huyện Nghi Bình, tại xã Vũ Nông có 6 cặp tảo hôn, xã Phan Thanh có 3 cặp tảo hôn.
Đầu năm nay, trong 385 cặp vợ chồng khảo sát, có 149 cặp là tảo hôn, 5 cặp cận huyết. Xã Vũ Nông và Phan Thanh (huyện Nguyên Bình), có 97 cặp tảo hôn, kết hôn cận huyết có 2 cặp. Còn tại xã Bảo Toàn và Hồng Trị (huyện Bảo Lạc) có 52 cặp tảo hôn và 3 cặp cận huyết.
Tảo hôn và hôn nhân cận huyết, sinh con sớm – những vấn đề bức xúc này đã trực tiếp ảnh hưởng đến tầm vóc và thể lực của đồng bào dân tộc thiểu số ở Cao Bằng. Trẻ em suy dinh dưỡng cao nhất đều ở các huyện Nguyên Bình, Bảo Lạc, Bảo Lâm, Hà Quảng, Thông Nông. Đây cũng là những nơi có nhiều trẻ sơ sinh bị tử vong.
Những đứa trẻ không được làm người
Năm 2007, Ban Dân vận Lào Cai khảo sát tại 44 xã của 9 huyện/TP, trong 224 cặp kết hôn cận huyết, thì có 221 cặp là con bá lấy con dì, con chị gái lấy con em trai, cháu lấy dì, chú lấy cháu, cháu lấy cô. Cá biệt có 3 cặp là con anh trai lấy con em trai. Trong 558 trẻ sinh ra từ các cặp vợ chồng này có 51 trẻ phát triển không bình thường. Các cháu bị bạch tạng, thiểu năng trí tuệ, liệt, câm, lông mi trắng, thọt, đần độn. Tám trẻ đã chết.
Một cán bộ xã Lùng Khấu Nhin, huyện Mường Khương, lấy con bác ruột. Anh chị đẻ được 3 người con, trong đó 2 chết ngay từ khi sinh, con út dị dạng, không có hình hài bình thường. Cháu bé dị dạng đã 10 tuổi, rất tội nghiệp, câm điếc, không biết gì, chỉ ngồi tại chỗ, gia đình đi làm từ sáng đến tối để cho cháu một bát cơm, cháu cứ vậy bốc ăn. Sau đó, dù rất khổ tâm, không muốn bỏ vợ, nhưng vị cán bộ xã này đã phải xin ra khỏi Đảng để lấy vợ hai. Và cuối cùng, anh cũng đã thoả nguyện, có được những đứa con khoẻ mạnh.
Khoa Huyết học, BV Nhi TƯ mỗi năm quản lý hàng trăm trẻ mới mắc bệnh đến chẩn đoán và điều trị bệnh Thalasemia hay còn gọi là tan máu bẩm sinh. Tại đây đang quản lý hơn 900 hồ sơ ngoại trú của bệnh nhân phải đến truyền máu và thải sắt định kỳ. Tại các bệnh viện tỉnh Lào Cai, Lạng Sơn, Bắc Giang, Thái Nguyên, Hoà Bình hàng tháng đều có nhiều trẻ đến truyền máu và cắt lách. Theo TS Dương Bá Trực - Trưởng khoa Huyết học, BV Nhi TƯ: Những đứa trẻ sinh ra từ các cặp vợ chồng hôn nhân cận huyết thống dễ có nguy cơ mắc các bệnh di truyền do sự kết hợp của các gen mang bệnh. Bệnh tan máu bẩm sinh là một ví dụ, trẻ có thể bị biến dạng xương mặt, bụng phình to, nguy cơ tử vong rất cao. Ngoài ra, trẻ dị dạng hoặc mang bệnh di truyền như mù màu (không phân biệt được màu đỏ và màu xanh), bạch tạng, da vảy cá...
Qua nghiên cứu, các nhà nghiên cứu khoa học xã hội khẳng định, hiện tượng tảo hôn, kết hôn cận huyết thống ở khu vực miền núi phía Bắc và một số tỉnh ở Tây Nguyên đã trở thành một trong những nguyên nhân cơ bản làm suy thoái chất lượng giống nòi của các tộc người. Những em gái mang thai và sinh đẻ trong lứa tuổi vị thành niên khi cơ thể chưa phát triển hoàn thiện và chưa đủ điều kiện về sức khỏe để nuôi dưỡng bào thai sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của thai nhi, là nguyên nhân chính dẫn đến tử vong ở trẻ sơ sinh.
Theo các chuyên gia dân số, trong 30 năm qua dân số nước ta đều tăng, tuy nhiên có một số dân tộc đang bị suy giảm dân số, đặc biệt là những dân tộc rất ít người. Hiện, nước ta có 5 dân tộc có số dân dưới 1.000 người là: Si La (Lai Châu, Sơn La) trên 800 người, Pu Péo (Hà Giang) trên 700 người, Rơ Măm (Kon Tum) trên 350 người, Brâu (Kon Tum) trên 300 người, Ơ Đu (Nghệ An) xấp xỉ 300 người... Không chỉ dân số thấp, mà hằng năm dân số của các dân tộc này tăng rất chậm, chỉ vài người/năm. Chẳng hạn như: dân tộc Si La trong 8 năm chỉ tăng 51 người, dân tộc Brâu trong 4 năm tăng 9 người, dân tộc Rơ Mâm trong 4 năm giảm 20 người... Tầm vóc và tuổi thọ trung bình của các dân tộc ít người cũng đang thấp dần, tuổi thọ trung bình chỉ khoảng 45 tuổi. Người Si La đang có xu hướng nhỏ dần, cân nặng từ 40-45kg, chiều cao khoảng 1,45 -1,60m. Phụ nữ dân tộc Cống chỉ nặng 38-42kg và trẻ em sinh ra chỉ đạt trọng lượng từ 1,8-2kg. Người Brâu, Rơ Mâm có nhiều dị tật bẩm sinh, lắm bệnh tật, tình trạng sức khoẻ kém, tỉ lệ chết cao... Điều đáng quan tâm là không chỉ các dân tộc dưới 1.000 người có nguy cơ suy giảm dân số mà một số tộc người khác cũng như: Lô Lô, Hà Nhì, Phù Lá, Chứt, Ê Đê, Chu Ru... cũng đang có nguy cơ tương tự. Lý do chính là do tình trạng hôn nhân cận huyết ngày càng gia tăng.
Theo Trung tâm DS-KHHGĐ huyện Krông Pak (Đắk Lắk), thì không phải người dân không biết Luật Hôn nhân và Gia đình vì hằng năm, Trung tâm thường xuyên phối hợp với các ngành liên quan tổ chức nhiều đợt tuyên truyền luật cho người dân. Tuy nhiên, hiện “phép vua vẫn thua lệ làng”. Trước thực trạng trên, tháng 9/2009, Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh đã triển khai mô hình can thiệp làm giảm tình trạng tảo hôn, kết hôn cận huyết thống tại 4 xã Bông Krang, Dak Liêng (huyện Lak) và Ea Phê, Ea Kênh (huyện Krông Pak). Chị H’Oanh Ayun - cộng tác viên dân số buôn Pok, xã Ea Kênh - cho biết: “Mặc dù biết hậu quả của tảo hôn và kết hôn cận huyết thống nhưng vì không có chế tài gì xử phạt nên trước đây chúng tôi cũng chỉ tuyên truyền vậy thôi, họ nghe theo thì tốt, không cũng đành chịu. Từ khi mô hình được triển khai có sự tham gia ủng hộ của chính quyền, các ngành chức năng và ban tự quản các thôn, buôn thì vấn đề trên mới được quan tâm thực sự”.
12 đoàn kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm
Ngày 24/12, Cục An toàn vệ sinh thực phẩm cho biết: Bộ Y tế phối hợp với các bộ, ngành thành lập 12 đoàn thanh tra liên ngành tiến hành thanh tra thực phẩm chuẩn bị cho các dịp tết tới đây.
Trong đó, Bộ Y tế chủ trì 6 đoàn, Bộ NNPTNT 3 đoàn, Bộ Công Thương chủ trì 2 đoàn, Bộ KHCN 1 đoàn. Các bộ là thành viên Ban Chỉ đạo liên ngành ATVSTP cử cán bộ tham gia tiến hành kiểm tra tại 24 tỉnh/TP trọng điểm. Cùng với các đoàn T.Ư, các tỉnh/TP trong cả nước đã đồng loạt tiến hành thanh - kiểm tra về ATVSTP ở các khâu, chú trọng các cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh, nhập khẩu thực phẩm, phụ gia thực phẩm (bao gồm cả các gia vị nấu lẩu) dịch vụ ăn uống...
Sức khoẻ & Đời sống
Công điện khẩn của Bộ Y tế: Chủ động ứng phó với thời tiết nguy hiểm
Theo dự báo của Trung tâm Dự báo khí tượng thuỷ văn TƯ, do ảnh hưởng của bộ phận không khí lạnh, ở Vịnh Bắc Bộ và ngoài khơi Trung Bộ từ ngày 25/12 có gió đông bắc mạnh cấp 7, có lúc cấp 8, giật cấp 9, cấp 10. Biển động mạnh. Để chủ động đối phó với ảnh hưởng của không khí lạnh và thời tiết nguy hiểm trên, chiều ngày 24/12, Bộ Y tế đã có công điện khẩn yêu cầu Sở Y tế các tỉnh, thành phố ven biển từ Quảng Ninh đến Bình Thuận chủ động ứng phó với diễn biến bất thường của gió mùa, đề phòng thời tiết nguy hiểm do ảnh hưởng của không khí lạnh, triển khai ngay các phương án bảo vệ, hỗ trợ nhân dân bị thiệt hại, đảm bảo tuyệt đối an toàn cho bệnh nhân. Tổ chức trực ban, trực cấp cứu 24/24 giờ, sẵn sàng thu dung và cấp cứu miễn phí cho nạn nhân… Ngoài ra, Bộ Y tế cũng yêu cầu các đơn vị trực thuộc Bộ chuẩn bị sẵn các cơ số thuốc, hoá chất, thiết bị phương tiện… sẵn sàng hỗ trợ các địa phương.
Bổ nhiệm Cục trưởng Cục Y tế dự phòng và Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm y tế
Chiều ngày 24/12, tại Bộ Y tế, TS. Nguyễn Quốc Triệu - Bộ trưởng Bộ Y tế đã trao quyết định bổ nhiệm TS. Nguyễn Văn Bình - Phó Cục trưởng Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế, phụ trách phát ngôn về lĩnh vực phòng, chống dịch của Bộ Y tế giữ chức Cục trưởng Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế. Theo đó, Thứ trưởng Bộ Y tế - Trịnh Quân Huấn sẽ thôi kiêm nhiệm chức Cục trưởng Cục Y tế dự phòng.
Chiều cùng ngày, Bộ trưởng Nguyễn Quốc Triệu cũng trao quyết định tái bổ nhiệm ThS. Tống Thị Song Hương - Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm y tế - Bộ Y tế tiếp tục giữ chức Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm y tế.
Các quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký ban hành.
Công tác phòng chống dịch được kiểm soát chặt chẽ
Ngày 24/12, báo cáo Chính phủ về công tác y tế tháng 12, Bộ Y tế cho biết, trong tháng nhờ chủ động triển khai có hiệu quả các kế hoạch phòng, chống dịch bệnh nên tỷ lệ mắc mới nhiều dịch bệnh đã giảm từ 10 - 20% so với cùng kỳ như: viêm màng não do não mô cầu giảm 15,2%; viêm não virus giảm 14%, sốt rét giảm 8%, viêm gan virus giảm 12%... Riêng đối với dịch cúm A(H1N10 và A(H5N1) không ghi nhận trường hợp mắc mới. Tuy nhiên Bộ Y tế nhận định, thời tiết lạnh ẩm mùa đông - xuân là cơ hội thuận lợi cho nhiều loại virus, vi khuẩn gây dịch phát triển và lây lan, do đó Bộ trưởng Bộ Y tế đã yêu cầu Sở Y tế các địa phương chỉ đạo các cơ quan chức năng tăng cường giám sát chặt chẽ, phát hiện sớm và xử lý kịp thời các trường hợp mắc bệnh truyền nhiễm, đặc biệt là cúm A(H5N1), A(H1N1), tả, sốt xuất huyết...
Nâng cao năng lực kiểm nghiệm thuốc
Ngày 23/12, Viện Kiểm nghiệm thuốc TW đã khởi công xây dựng khu nhà làm việc và nuôi động vật thí nghiệm cơ sở 2 tại xã Tam Hiệp, Thanh Trì, Hà Nội. Đây là một phần của dự án đầu tư tại viện với tổng kinh phí hơn 154 tỷ đồng. Phát biểu tại lễ khởi công, TS. Nguyễn Quốc Triệu - Bộ trưởng Bộ Y tế yêu cầu Viện Kiểm nghiệm thuốc TW và nhà thầu cần đẩy nhanh tiến độ thi công để đưa công trình vào sử dụng đúng tiến độ, phấn đấu có thể kiểm nghiệm được đa số hoạt chất thuốc sản xuất, lưu hành trên thị trường Việt Nam. Bên cạnh đó, Viện cũng cần đẩy mạnh đào tạo cán bộ có chuyên môn cao nhằm nâng cao năng lực kiểm nghiệm thuốc, đồng thời đưa Viện kiểm nghiệm thuốc TW thành viện chuyên sâu, hiện đại, ngang tầm các nước trong khu vực…
An ninh thủ đô
Hưởng ứng Ngày Dân số Việt Nam 26/12: Trẻ bị dị tật bẩm sinh, do người lớn
Theo thống kê của Tổng cục DS-KHHGĐ (Bộ Y tế), tỷ lệ người khuyết tật ở nước ta hiện là 7,2% và đang có xu hướng gia tăng, trong đó có một số lượng đáng kể là trẻ khuyết tật, dị tật. Điều đáng suy nghĩ là những khuyết tật, dị tật ở trẻ sơ sinh hoàn toàn có thể tránh được nếu chúng ta có biện pháp can thiệp kịp thời.
Nhiều trẻ mắc bệnh “oan”
Bế cậu con trai mới hơn 2 tháng tuổi đang quấy khóc trước cửa khoa Khám bệnh - BV Nhi Trung ương, chị Bùi Thị H (quận Hà Đông, Hà Nội) đứng chờ người nhà đến “tiếp tế” để làm thủ tục nhập viện cho con. Cháu T - con chị khi sinh hoàn toàn khỏe mạnh nhưng sau sinh được 10 hôm thì bắt đầu xuất hiện những đợt khó thở, bú khó, cuống rốn lồi to. Gia đình đã đưa cháu đến trạm xá khám và được bác sĩ hướng dẫn về lấy lá hẹ hấp với quất cho cháu ăn nhưng không đỡ.
Tại BV Nhi Trung ương, qua siêu âm, thử máu, thử nước tiểu, các bác sĩ kết luận cháu T bị suy giáp trạng bẩm sinh, một trong 2 loại bệnh phổ biến nhất ở trẻ sơ sinh và hiện đã được Bộ Y tế đưa vào Chương trình sàng lọc trước sinh (SLTS) tại 30 tỉnh, thành trên cả nước, trong đó khu vực Hà Nội được triển khai rộng và hoàn toàn miễn phí. Do bệnh đã khá nặng, cháu T được chỉ định phải nhập viện điều trị vì nếu kéo dài sẽ gây ảnh hưởng đến não và dẫn đến bệnh tăng sản thượng thận bẩm sinh, có nguy cơ gây dậy thì sớm...
Chị H chia sẻ, trong quá trình mang thai chị vẫn đi siêu âm, khám thai thường xuyên tại Trung tâm y tế nhưng không được các bác sĩ tư vấn về SLTS. Đến khi sinh con tại BV, chị cũng không thấy bác sĩ nói gì đến lấy máu sàng lọc sơ sinh (SLSS). Hơn nữa do sức khỏe của chị khi mang thai hoàn toàn bình thường, trong gia đình cũng không có tiền sử bệnh tật gì nên chị cũng có phần chủ quan, không nghĩ tới khả năng con bị bệnh bẩm sinh.
Những trường hợp tương tự như chị H hiện rất phổ biến, không chỉ ở những khu vực chưa triển khai đề án SLTS và SLSS, mà ngay cả những nơi đã triển khai mạnh 2 chương trình này cũng chưa có nhiều biến chuyển. PGS.TS Nguyễn Thị Hoàn, khoa Tiết niệu và chuyển hóa di truyền - BV Nhi Trung ương cho biết, trung bình mỗi năm khoa tiếp nhận khoảng 500 bệnh nhi bị dị tật bẩm sinh các loại vào điều trị. Đặc biệt, hiện khoa vẫn đang quản lí, điều trị khoảng 3.000 bệnh nhân bị suy giáp trạng bẩm sinh.
Thực tế cho thấy, do các cặp vợ chồng không tham gia SLTS, SLSS nên có rất nhiều trẻ sinh ra bị mắc bệnh, dị tật “oan”. Thống kê của Tổng cục DS-KHHGĐ, từ năm 2007 đến 2010 cho thấy, cả nước có 6.235 ca là đối tượng nguy cơ cao đã được tiến hành sàng lọc chẩn đoán trước sinh, trong đó có 3.475 ca (chiếm 55,7%) cho kết quả bất thường và số này đều được can thiệp kịp thời.
Vì những đứa con khỏe mạnh
Tại Hà Nội, BV Thanh Nhàn là một trong những đơn vị có thành tích tốt trong việc triển khai Đề án SLTS và SLSS với hầu hết trẻ em sinh ra tại BV đều được lấy mẫu xét nghiệm. Tại khoa sản của BV này trong 1 năm triển khai thí điểm đề án SLTS và SLSS (từ 1-7-2009 đến 1-8-2010) đã tiến hành lấy mẫu máu gót chân và sàng lọc cho 1.815 trẻ sơ sinh, phát hiện 6 ca dương tính với bệnh suy giáp trạng bẩm sinh. Ngay sau khi có kết quả, BV đã thông báo đến gia đình bệnh nhi, đưa bệnh nhân đến BV Nhi Trung ương khám và điều trị.
Đối với chẩn đoán trước sinh, khoa cũng phát hiện được rất nhiều trường hợp thai nhi có các dị tật thông qua siêu âm như hội chứng Down, não úng thủy, bụng cóc, sứt môi, hở hàm ếch, tim lạc chỗ, phủ tạng lạc chỗ… để có biện pháp can thiệp sớm. Bác sĩ CK II Phạm Thị Ánh Tuyết, Trưởng khoa Sản cho biết, việc SLTS và SLSS là hết sức ý nghĩa, giúp phát hiện và xử lý sớm các dị tật ở trẻ em, giúp tạo ra một thế hệ trẻ em khỏe mạnh cả về thể chất và trí tuệ, góp phần nâng cao chất lượng dân số Việt Nam.
PGS.TS Nguyễn Thị Hoàn cho biết, những dị tật ẩn chứa bên trong cơ thể như dị tật về thần kinh (Down), hô hấp, tuần hoàn, tiêu hoá, u não, suy giáp trạng, thiếu men G6PD… thường rất khó phát hiện, khó chẩn đoán bằng mắt thường mà phải được khám, làm các xét nghiệm cần thiết. Trẻ bị dị tật cần được chẩn đoán sớm (ngay sau khi sinh) và can thiệp sớm mới có hiệu quả. Các bậc cha mẹ cần hiểu rằng, SLTS và SLSS là nhằm phát hiện và can thiệp sớm các dị tật khi chưa có biểu hiện bệnh lý, có vậy mới giúp trẻ tránh được những hậu quả biến chứng của bệnh.
Thời tiết thay đổi: Bệnh viêm mũi họng ở trẻBệBệnh viêm mũi họng
Viêm mũi họng là chứng bệnh rất hay gặp ở trẻ em dưới 6 tuổi đặc biệt là khi thay đổi thời tiết, lúc chuyển mùa. Trong thời tiết lạnh hiện nay của miền Bắc, các bậc cha mẹ nên chú ý nhiều hơn đến con trẻ để phòng bệnh cũng như điều trị kịp thời bệnh viêm mũi họng cho các cháu.
Thời tiết thay đổi trẻ dễ mắc
Viêm mũi họng ở trẻ em có đặc điểm là hay tái phát, những lần tái phát có thể dẫn tới những biến chứng nguy hiểm nhất là ở trẻ sơ sinh và trẻ còn bú mẹ. Nguyên nhân gây bệnh chủ yếu là do nhiễm trùng một số loại virus, vi khuẩn như Adeno virus, Rhino virus, liên cầu khuẩn.
Thêm vào đó là một số yếu tố thuận lợi như chuyển mùa, mùa đông xuân, thời tiết lạnh ẩm, điều kiện vệ sinh môi trường không đảm bảo, khói bụi, nhà không kín bị gió lùa sẽ khiến virus dễ dàng phát triển, xâm nhập khiến trẻ dễ bị mắc bệnh hơn. Mặt khác trẻ còi xương, suy dinh dưỡng, trẻ đẻ non, cơ địa dị ứng hoặc đang mắc bệnh mạn tính hoặc bệnh làm suy giảm hệ thống miễn dịch, như sởi, cúm… cũng là những yếu tố thuận lợi cho viêm mũi họng tái phát.
Trẻ dưới 3 tuổi có thể viêm mũi 4 - 6 lần trong một năm, tần số có thể tăng lên trong thời kỳ bé đi nhà trẻ, mẫu giáo, sau đó giảm dần. Chính vì vậy chúng ta không nên quá lo lắng khi thấy con đi nhà trẻ vài ngày lại phải nghỉ vài ngày vì ho, sổ mũi. Tuy nhiên nếu tái phát quá nhiều có thể dẫn đến các biến chứng như viêm màng não, viêm tai…
Triệu chứng
Triệu chứng dễ nhận thấy đầu tiên là trẻ sốt cao, có khi 39 - 40°C, ho húng hắng hoặc ho từng cơn như co thắt kèm theo đó là tắc, ngạt mũi, chảy nước mũi cả hai bên làm trẻ phải há miệng để thở, tiếng thở khò khè. Trẻ mệt mỏi, quấy khóc, kích động, bỏ ăn, bỏ bú vì tắc mũi. Một số trẻ còn bị nôn trớ và ỉa chảy, thậm chí khi sốt cao trẻ có thể bị lên cơn co giật. Quan sát họng khi trẻ há miệng thấy niêm mạc họng xung huyết đỏ, tăng tiết dịch nhầy bóng, nhưng không có mủ hoặc giả mạc.
Mỗi đợt bệnh như vậy kéo dài khoảng 2-4 ngày sau đó các triệu chứng giảm dần, trẻ có thể khỏi bệnh nhưng dễ tái phát, và khi tái phát nhiều lần có thể dẫn đến những biến chứng cấp tính nguy hiểm như viêm mủ tai giữa, viêm xoang cấp, viêm thanh quản cấp, mất nước do sốt cao, viêm xoang có thể dẫn đến viêm màng não rất nguy hiểm.
Đặc biệt khi trẻ bị viêm họng do nhiễm liên cầu khuẩn bêta tan huyết nhóm A, có thể dẫn tới biến chứng viêm cầu thận cấp, hoặc bệnh thấp tim, các biến chứng này thường xuất hiện khoảng một vài tuần sau khi trẻ hết viêm họng, trẻ có thể tử vong hoặc gây nhiều di chứng ảnh hưởng tới sức khoẻ và thể lực của trẻ về sau này.
Điều trị như thế nào?
Về vấn đề điều trị, thuốc kháng sinh chỉ nên dùng khi có biến chứng hoặc đe doạ có biến chứng, điều trị triệu chứng bằng các thuốc giảm phù nề, xung huyết mũi họng như alpha chymotrypsin, nếu trẻ sốt thì hạ sốt bằng chườm mát hoặc thuốc hạ sốt như paracetamol (Efferalgan), khi trẻ tắc mũi có thể nhỏ mũi cho trẻ bằng dung dịch nước muối 0,9%, ngày 4-5 lần cho đến khi trẻ hết chảy nước mũi.
Đối với trẻ lớn cần hướng dẫn trẻ súc miệng bằng nước muối loãng, còn trẻ nhỏ hơn phải vệ sinh răng miệng hàng ngày bằng gạc mềm, sạch. Ngoài ra cần nâng cao thể trạng cho trẻ bằng cách cho ăn uống đủ chất, nếu trẻ bỏ bú phải cho trẻ uống sữa bằng thìa. Chú ý không nên dùng kháng sinh khi chưa có chỉ định của thầy thuốc, vì có thể sẽ làm bệnh nặng hơn.
Phương pháp phòng bệnh
Phòng bệnh bằng cách vệ sinh mũi họng, răng miệng hàng ngày cho trẻ, giữ ấm cho trẻ trong mùa lạnh, phòng ngủ của trẻ phải đảm bảo sạch sẽ, thoáng, tránh khói bụi hoặc gió lùa. Nâng cao sức đề kháng của trẻ bằng chế độ dinh dưỡng phù hợp với từng lứa tuổi, cho trẻ đi tiêm chủng theo định kỳ. Ngoài ra cần phải chăm sóc điều trị tốt các trẻ bị viêm mũi, họng thông thường, phát hiện sớm các biến chứng để điều trị kịp thời.
Bệnh viện Việt - Đức Hà Nội: Thành lập Viện Chấn thương chỉnh hình
Ngày 24/12, Bệnh viện Việt - Đức đã tổ chức lễ thành lập Viện Chấn thương chỉnh hình thuộc bệnh viện trên cơ sở của khoa Chấn thương chỉnh hình do PGS-TS Nguyễn Văn Thạch làm Viện trưởng.
Viện có 200 giường bệnh, với 5 khoa gồm khoa Chấn thương, khoa Cột sống, khoa Phục hồi chức năng, khoa Tạo hình hàm mặt và phòng Khám xương. Viện sẽ là cơ sở điều trị chuyên sâu, nơi ứng dụng hiệu quả những tiến bộ khoa học mới nhất trong lĩnh vực chấn thương, chỉnh hình, đồng thời là nơi đào tạo nhân lực cho tuyến y tế cơ sở…
Tại buổi lễ, PGS-TS Nguyễn Văn Thạch cho biết, mỗi năm nước ta có 30.000 người chết vì tai nạn thương tích, trong đó số bệnh nhân nhập viện do tai nạn giao thông chiếm 34,3%, tai nạn lao động là 15%. Bệnh viện Việt - Đức hiện là đơn vị đầu ngành tiếp nhận, phẫu thuật các ca thương tích nặng, trung bình mỗi năm các bác sỹ của bệnh viện phẫu thuật cột sống và xương khớp cho khoảng 12.000 trường hợp.
Vẫn còn 28 tỉnh, thành chưa đạt mức sinh thay thế
Theo thống kê của Tổng cục DS-KHHGĐ - Bộ Y tế, số trẻ em sinh ra trong năm 2010 ước đạt khoảng 1.240.500 cháu, giảm 4% so với cùng kỳ năm 2009. Số trẻ là con thứ 3 trở lên được sinh ra trong năm nay ước đạt khoảng 122.600 cháu, giảm 6% so với cùng kỳ năm trước.
Có đến 40/63 tỉnh, thành phố có số trẻ em sinh ra giảm, 23 tỉnh còn lại có số trẻ sinh ra tăng… TS Dương Quốc Trọng, Tổng cục trưởng Tổng cục DS-KHHGĐ cho biết, mặc dù công tác giảm sinh ở nước ta đã được triển khai tốt, tuy nhiên những kết quả đạt được nói trên chưa bền vững.
Cả nước vẫn còn đến 28 tỉnh/thành phố (chiếm 34% dân số) chưa đạt mức sinh thay thế, trong khi cơ cấu dân số còn nhiều bất hợp lý. Đặc biệt, nhiều địa phương đã bắt đầu có sự sao nhãng, chủ quan trong lãnh đạo, chỉ đạo về công tácDS-KHHGĐ. Đây là một trong những thách thức lớn mà ngành dân số đang gặp phải.