Ngày 12/12/2010: Hà Nội tổ chức uống vitamin A đợt 2; Hơn 600 đại biểu dự hội nghị thường niên về phòng, chống mù lòa; Bệnh viện 103:Góp phần tạo bước đột phá cho nền y học.
Ngày 13/12/2010: Ngặt nghèo điều trị hiếm muộn; Sẽ không có trẻ nhiễm HIV nếu...; Mô hình can thiệp phòng chống bạo lực gia đình: Bạo hành giảm 70%; Bài 1: Cưu mang những sinh linh bé nhỏ;
An ninh Thủ đô
Hà Nội tổ chức uống vitamin A đợt 2
Trong hai ngày 11 và 12-12, thành phố Hà Nội đã tổ chức uống bổ sung vitamin A cho trên 360.000 trẻ từ 6 - 36 tháng tuổi, 34.223 trẻ từ 37 - 60 tháng tuổi có nguy cơ cao, 3.963 trẻ dưới 6 tháng tuổi thiếu sữa mẹ và gần 10.000 bà mẹ mới sinh trong tháng đầu chưa được uống Vitamin A trên địa bàn toàn thành phố. 2.251 điểm uống đặt tại các trạm y tế, khu nhà văn hóa thôn, trường mầm non, mẫu giáo… đảm bảo chất lượng, tuyệt đối an toàn cho chiến dịch uống bổ sung Vitamin A đợt II năm 2010 của thành phố. Sở Y tế Hà Nội cũng đã tổ chức đoàn đi kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện chiến dịch uống bổ sung Vitamin A đợt II năm 2010 tại các quận Hà Đông và huyện Chương Mỹ.
Thông qua kiểm tra, đoàn thấy các địa phương đều điều tra, lập danh sách chi tiết, có các phiếu giấy mời được gửi đến các gia đình có đối tượng được uống trong chiến dịch. Trung tâm y tế các quận, huyện đã tổ chức tập huấn cho các trạm trưởng, cán bộ chuyên trách và cộng tác viên về kỹ thuật uống, phương pháp tổ chức các điểm uống đảm bảo theo yêu cầu. Công tác truyền thông được thực hiện tốt đã giúp cho người dân hiểu rõ về mục đích của chiến dịch, từ đó hưởng ứng tích cực tham gia.
Bài 1: Cưu mang những sinh linh bé nhỏ
Thời gian gần đây, liên tiếp xảy ra các vụ bỏ rơi trẻ sơ sinh tại các bệnh viện, nơi công cộng khiến dư luận hết sức phẫn nộ. Đau lòng hơn cả trong số những sinh linh bé bỏng bị những người mẹ mất nhân tính bỏ rơi ngay từ khi chào đời đã có những đứa trẻ không còn cơ hội làm người…
Những số phận bị từ bỏ
Gần đây nhất, ngày 16/11/2010, tại đường Tăng Nhơn Phú (phường Phước Long B, quận 9, TP Hồ Chí Minh), người dân đã phát hiện một em bé vẫn còn ngậm dây rốn nằm trong túi nilon. Trước đó, ngày 19/4/2010, người dân đi tập thể dục qua hồ Bảy Mẫu (Hà Nội) xót xa phát hiện xác một cháu bé sơ sinh chết nổi trên mặt hồ.
Ngày 22/7/2010, một cháu bé sơ sinh chưa đầy 1 tuần tuổi cũng bị bỏ rơi ở đống rác ngay trước bến xe Hà Tĩnh và được những người hành nghề “xe ôm” nhặt trong đống rác. Khoảng 17h ngày 30/9/2010, trong lúc phân loại rác đưa đi xử lý, một số công nhân của Công ty cổ phần Vietstar (xã Thái Mỹ, huyện Củ Chi, TP Hồ Chí Minh) cũng đã phát hiện xác một bé gái sơ sinh nặng 2kg được gói trong bọc nilon.
Và chắc hẳn dư luận vẫn chưa quên trường hợp của bé Hồ Thiện Nhân (tên được cha mẹ nuôi đặt). Vào năm 2005, em bé này đã bị bỏ rơi ở một nơi vắng vẻ khi mới 3 ngày tuổi. Khi được phát hiện, bé đang trong tình trạng bị kiến bám kín người, bị động vật ăn mất một chân và cả bộ phận sinh dục. Bé được đưa đến bệnh viện Đa khoa Quảng Nam cấp cứu và thoát chết trong gang tấc, sau hơn 2 giờ phẫu thuật.
Trên đây chỉ là một số trường hợp trong hàng trăm trẻ sơ sinh bị bỏ rơi được các phương tiện thông tin đại chúng đăng tải trong thời gian gần đây khiến dư luận đau đớn, xót xa và phẫn nộ tột cùng. Trong quá trình tìm đến những nơi hiện đang nuôi dưỡng những đứa trẻ đáng thương bị bỏ rơi, chúng tôi đã được nghe và tận mắt nhìn thấy những câu chuyện cảm động. Nơi chúng tôi đến là ngôi chùa Bồ Đề nằm ngay bên bờ sông Hồng thuộc phường Bồ Đề, quận Long Biên.
Được biết, từ năm 1989 khi nhà chùa nhận trẻ mồ côi đầu tiên cho đến nay đã có hơn 150 em lớn lên và trưởng thành dưới mái chùa này. Nhiều em đã thi đỗ vào đại học rồi tốt nghiệp, có việc làm và gia đình riêng. Họ sống chan hoà, đùm bọc nhau trong một ngôi nhà lớn, với sự quán xuyến tận tuỵ của sư thầy Thích Đàm Lan. Chia sẻ với chúng tôi, sư thầy Thích Đàm Lan cho biết: “Cách những đứa trẻ đến đây dường như rất giống nhau, có những trường hợp khắc sâu vào lòng tôi những nỗi xót xa.
Các cháu ở đây mỗi đứa một hoàn cảnh với đủ loại đối tượng. Hầu hết các cháu đều bị người thân bỏ lại hoặc lang thang, vạ vật đói khát ở một nơi nào đó được tìm thấy đem đến gửi chùa. Cũng có cháu được người nhà mang đến chùa xin làm phước nuôi giúp nhưng họ không hề quay lại đón. Có cháu bị tàn tật, thiểu năng trí tuệ bị cha mẹ bỏ, hoặc những em sinh viên chẳng may nhỡ nhàng cũng mang con đến bỏ, cha mẹ bị nhiễm HIV cũng bỏ, hoặc những phụ nữ lang thang ngoài đường bị cưỡng hiếp có thai cũng đến đây bỏ con.
Khi “nhập chùa” có cháu bé như con chuột con, nhũn nhèo tím tái, cuống rốn chưa rụng. Hiện trong chùa có 115 cháu đang nương náu, nhỏ nhất chỉ vài ngày tuổi, lớn nhất đang học hệ cao đẳng. Phần lớn nhà chùa phải trông chờ vào sự hỗ trợ của các nhà hảo tâm xa gần để có thêm tiền trang trải bởi các cháu ngày càng đông. Thi thoảng vẫn có người đến chùa xin nhận những đứa trẻ ở đây làm con nuôi nhưng nhà chùa không cho vì biết đâu có một ngày người thân của chúng sẽ đến tìm... ”. Cho đến thời điểm hiện tại số lượng trẻ trong chùa đã ở trong tình trạng quá tải. Những đứa trẻ ở đây như những cây non tự sống và lớn lên mà không được lựa chọn hoàn cảnh và môi trường sống cho mình. Khi thấy khách đến thăm, chúng quấn lấy như muốn tìm hơi ấm. Có một câu hỏi mà không sao chúng tôi có thể cắt nghĩa được khi nhìn những gương mặt trong veo ấy là tại sao những người mẹ lại đang tâm bỏ những đứa con rứt ruột đẻ ra như thế?
Không thể nhận hết trẻ bị bỏ rơi
Nơi dừng chân tiếp theo của chúng tôi là làng trẻ SOS Việt Nam. Điều đầu tiên mà chúng tôi cảm nhận ở ngôi làng này chính là mái ấm yêu thương của những người mẹ ở đây. Bằng tình yêu thương và trách nhiệm, những người mẹ này đã giúp cho những em bé mất cha mẹ, người thân hay bị bỏ rơi ở đâu đó được sống và làm người. Bà Trần Thị Kim Dung - Phó Giám đốc Làng trẻ em SOS Việt Nam cho biết: “Hiện SOS Việt Nam có 13 ngôi làng được xây dựng và hoạt động với cùng một mô hình ở khắp các tỉnh, thành.
Đây là năm thứ 23 làng trẻ SOS tham gia giúp đỡ cộng đồng. Thế hệ đầu tiên được nuôi dưỡng tại đây đã lập gia đình và tham gia vào các ngành nghề khác nhau trong xã hội. Mỗi làng chỉ nhận tối đa là 160 trẻ và trước khi được nhận về nuôi dưỡng đều phải tuân theo trình tự xác định nhân thân, cam kết của cá nhân hay đơn vị giao, nhận trẻ. Sau đó, thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng, đăng ký với chính quyền địa phương. Sau 20 ngày nếu không có người thân nhận lại trẻ bị bỏ rơi, làng sẽ làm giấy khai sinh cho các bé. Họ của chúng được đặt theo họ những người mẹ trong làng SOS.
Những trẻ bị bỏ rơi ở bệnh viện, hay được ai đó tìm thấy mang đến, bỏ lại ở cổng sẽ được nhận nếu trong làng vẫn còn khuyết chỗ và tiến hành các thủ tục cần thiết. Khi được nhận nuôi dưỡng, các em sẽ được kiểm tra sức khoẻ tổng thể, trẻ có sức khoẻ bình thường sẽ được ở lại làng, trẻ bị khiếm khuyết, dị tật sẽ được chuyển đến những cơ sở nuôi trẻ tàn tật khác. Hiện trong Làng trẻ SOS Hà Nội có 16 gia đình, mỗi gia đình có 10 con/mẹ chăm sóc. Các trẻ được nuôi dưỡng và sinh hoạt như một gia đình bình thường. Làng trẻ nuôi dưỡng các em ăn học từ lúc nhận vào cho đến khi trưởng thành. Nguyên tắc của Làng trẻ SOS Việt Nam là không cho trẻ làm con nuôi, không môi giới con nuôi. Các bà mẹ nếu có mong muốn trở thành mẹ của các trẻ trong làng phải cam kết không lập gia đình, không có con suốt đời”. Bà Dung còn cho biết: “Gần đây, làng trẻ SOS đã đón 4 cháu bé sơ sinh ở Bến Tre bị mẹ vứt ở cổng. Hiện các bé đang được nuôi dưỡng và làm các thủ tục cần thiết để làm giấy khai sinh”.
Có thể thấy ngày càng nhiều những đứa trẻ bị bỏ rơi đã bị những người mẹ nhẫn tâm tước đi quyền được yêu thương. Trong sâu thẳm những tâm hồn còn non nớt ấy, chúng khát khao tình thương, sự chở che và hai tiếng “gia đình”. Tương lai của chúng sẽ đi về đâu...?
Nhân dân
Bệnh viện 103: Góp phần tạo bước đột phá cho nền y học
Tiền thân là Ðội điều trị 3 được thành lập từ năm 1950, trải qua 60 năm xây dựng và trưởng thành, đến nay, Bệnh viện 103 (Học viện Quân y) không chỉ là cơ sở điều trị, khám chữa bệnh uy tín mà còn là đơn vị huấn luyện, nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật y học hàng đầu, góp phần quan trọng tạo những bước đột phá trong phát triển y học nước nhà.
Trước nhu cầu cấp cứu, điều trị thương binh, bệnh binh trong kháng chiến chống Pháp, ngày 20-12-1950 Ðội điều trị 3 thuộc Cục quân y chính thức được thành lập tại rừng chiến khu Việt Bắc, đã trực tiếp phục vụ các chiến dịch Trần Hưng Ðạo, Quang Trung, Hòa Bình và Ðiện Biên Phủ, thu dung, điều trị, cứu chữa hàng nghìn thương, bệnh binh. Trong và sau kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, các thầy thuốc Viện Quân y 103 luôn bám sát chiến trường, bám sát bộ đội để cứu chữa và nghiên cứu cách phòng chống vũ khí hóa học và bệnh sốt rét và cứu chữa, điều trị cho hàng chục vạn thương binh, bệnh binh. Trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, Bệnh viện 103 đóng góp tích cực huấn luyện lâm sàng, cận lâm sàng cho các bậc học sinh của Học viện Quân y từ đại học đến trên đại học; khám, điều trị bệnh cho bộ đội và nhân dân, thực hiện công tác chỉ đạo tuyến; nghiên cứu khoa học phát triển nền y học hiện đại.
Trải qua 60 năm, Bệnh viện 103 đã trở thành một trung tâm y học lớn của quân đội và đất nước. Bệnh viện hiện có 48 bộ môn, khoa, phòng, ban với hơn một nghìn cán bộ nhân viên. Trong đó có 17 giáo sư, 103 phó giáo sư, bảy tiến sĩ khoa học, 190 tiến sĩ, hàng trăm bác sĩ chuyên khoa I, chuyên khoa II, thạc sĩ... Nhờ vậy, công tác khám bệnh, cấp cứu, thu dung, điều trị của bệnh viện luôn đạt được kết quả cao. Mỗi ngày bệnh viện khám bệnh cho hơn một nghìn lượt người và thu dung điều trị thường xuyên cho khoảng 1.200 đến 1.300 người bệnh. Chỉ tính riêng mười năm qua, bệnh viện đã khám cho hơn một triệu lượt người, cấp cứu hơn 136 nghìn ca và thu dung điều trị gần 300 nghìn người bệnh. Ðiều đáng nói trong khám, chữa, điều trị cho người bệnh, bệnh viện đã quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết xây dựng y đức, chống tiêu cực với tinh thần, thái độ phục vụ người bệnh chu đáo. Trong các khâu từ khám, điều trị, phục vụ đến ra viện của người bệnh được cải tiến thành một chu trình khép kín, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ bảo đảm nhanh gọn, hiệu quả. Ðặc biệt, bệnh viện đã phát triển mạnh mẽ các kỹ thuật mũi nhọn, các xét nghiệm bậc cao và chuyên sâu; áp dụng, tiếp cận trình độ y học khu vực và quốc tế (như ghép tim, ghép thận, ghép gan, can thiệp mạch, phẫu thuật nội soi, tán sỏi mật qua da...); chú trọng kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền mang lại hiệu quả cao trong chẩn đoán, điều trị kịp thời nhiều ca bệnh khó.
Không chỉ thu dung, điều trị hiệu quả, Bệnh viện 103 còn luôn hoàn thành tốt công tác huấn luyện lâm sàng, cận lâm sàng cho các học viên đại học, sau đại học góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Mặc dù, cái khó trong thực hiện nhiệm vụ đối với cán bộ, nhân viên của bệnh viện là sự gắn kết không thể tách rời giữa nhiệm vụ giảng viên bảo đảm soạn giáo án, lên lớp và thực hành giảng dạy, truyền đạt các kiến thức cho học viên với nhiệm vụ bác sĩ điều trị và nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, xác định rõ nhiệm vụ, trách nhiệm, bệnh viện quán triệt tới từng cán bộ, giảng viên về y đức và ý thức kỷ luật trong nghề nghiệp. Ngoài việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, giảng viên các bộ môn của bệnh viện còn được đào tạo, học tập nâng cao trình độ tay nghề, lý luận và nghiệp vụ sư phạm. Từ một cơ sở huấn luyện lâm sàng ban đầu với hơn 20 giáo viên, đến nay, Bệnh viện 103 đã trở thành bệnh viện huấn luyện có gần 300 giảng viên, đảm nhiệm hơn 60% khối lượng đào tạo hằng năm từ bậc đại học, cao học và nghiên cứu sinh. Khối lượng huấn luyện của bệnh viện thường xuyên đạt hơn 12 nghìn tiết lý thuyết và hơn 120 nghìn tiết thực hành cho khoảng hơn hai nghìn học viên mỗi năm. Sau 60 năm, bệnh viện đã tham gia đào tạo cho đất nước gần 22 nghìn bác sĩ, dược sĩ, trong đó có hơn 600 tiến sĩ, 1.600 thạc sĩ, bốn nghìn bác sĩ chuyên khoa I, chuyên khoa II... Không chỉ huấn luyện đào tạo nhân lực y tế cho quân đội, Bệnh viện 103 còn đào tạo cán bộ y tế cho các địa phương, y tế cơ sở, chương trình y tế công cộng. Trong mười năm qua, Bệnh viện 103 đã đào tạo cho vùng sâu, vùng xa, vùng Tây Nguyên hơn 3.400 bác sĩ và hơn 3.200 nhân viên y tế góp phần quan trọng khắc phục tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực y tế cơ sở vùng sâu, vùng xa.
Là một trong những trung tâm y học hàng đầu, Ban lãnh đạo bệnh viện còn đặc biệt quan tâm đến công tác nghiên cứu khoa học và phát triển kỹ thuật, xem đây là nhiệm vụ then chốt nhằm thúc đẩy sự phát triển công tác điều trị với công tác đào tạo. Nếu như những năm đầu thành lập, bệnh viện mới chỉ thực hiện được các công trình nghiên cứu đơn giản như nhận xét, tổng kết, đánh giá kinh nghiệm các công tác cấp cứu, điều trị vết thương chiến tranh, điều trị các bệnh thông thường, chỉ đạo các đơn vị công tác phòng chống dịch bệnh thì hiện nay bệnh viện đã trở thành trung tâm nghiên cứu y học lớn của cả nước. Bình quân mỗi năm, thực hiện khoảng 20 đề tài và nhánh đề tài cấp Nhà nước và hơn 70 đề tài cấp cơ sở. Trong đó, nhiều công trình nghiên cứu được đánh giá cao như: Ghép tạng (ghép thận năm 1992, ghép gan năm 2004 và ghép tim năm 2010); đánh giá hiệu quả lâu dài của chất độc đioxin; phẫu thuật nội soi; can thiệp mạch... mang lại hiệu quả cao. Ðáng chú ý, hoạt động nghiên cứu khoa học bệnh viện không chỉ chú trọng thực hiện, quản lý các đề tài, ứng dụng phát triển các kỹ thuật mới mà còn tạo được phong trào nghiên cứu khoa học sôi động trong lực lượng trẻ góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu lấy phát triển khoa học làm động lực nâng cao chất lượng đào tạo và điều trị.
Với những thành tích nổi bật nhiều lĩnh vực trong 60 năm xây dựng và trưởng thành, Bệnh viện 103 đã hai lần được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (1989, 2009); được tặng thưởng ba Huân chương Quân công, năm Huân chương Chiến công và một Huân chương Lao động. Bệnh viện 103 được Hội Thầy thuốc trẻ và Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam vinh danh là 'Bệnh viện thân thiện vì sức khỏe cộng đồng'. Ngoài ra, hai bộ môn - khoa của Bệnh viện (Bỏng và Tim - Thận - Khớp - Nội tiết) và hai cá nhân cũng được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân và danh hiệu Anh hùng Lao động; năm cán bộ của bệnh viện được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân, chín Nhà giáo Ưu tú; chín Thầy thuốc Nhân dân và 123 Thầy thuốc Ưu tú.
Hà Nội mới
Hơn 600 đại biểu dự hội nghị thường niên về phòng, chống mù lòa
Hội nghị diễn ra trong hai ngày (11 và 12-12) tại Hà Nội nhằm đánh giá, tổng kết công tác phòng, chống mù lòa ở Việt Nam và đề ra phương hướng, nhiệm vụ hoạt động phòng, chống mù lòa trong năm tới. Với sự tham gia của hơn 600 đại biểu là các bác sỹ nhãn khoa, phẫu thuật viên, kỹ thuật viên cùng nhiều chuyên gia nhãn khoa nước ngoài, 81 đề tài nghiên cứu chuyên sâu được trình bày tại hội nghị, đề cập đến những vấn đề quan trọng trong lĩnh vực nhãn khoa hiện nay như dịch kính võng mạc, thể thủy tinh, glôcôm, khúc xạ - nhãn nhi, kết mạc - giác mạc, u mắt và chấn thương. Trong khuôn khổ hội nghị còn có triển lãm giới thiệu thành tựu nhãn khoa trong nước và thế giới; giao lưu văn hóa, văn nghệ.
Thanh niên
Ngặt nghèo điều trị hiếm muộn
Mỗi năm, số cặp vợ chồng đến bệnh viện (BV) ở TP.HCM khám, điều trị hiếm muộn lên đến cả trăm nghìn. Thế nhưng, bên cạnh khó khăn về kỹ thuật, tài chính… những ràng buộc pháp lý cũng khiến khao khát có con của không ít cặp vợ chồng trở nên xa vời vợi…
Chỉ tính riêng BV Từ Dũ trung bình mỗi năm tiếp nhận khám, điều trị hiếm muộn, vô sinh (HM-VS) cho hơn 30.000 lượt cặp vợ chồng. Theo bác sĩ Hoàng Thị Diễm Tuyết, Trưởng khoa HM BV Từ Dũ: “Riêng trong 9 tháng đầu năm 2010 đã có đến 32.020 lượt khám và tư vấn HM-VS, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm 2009. Hiện bình quân mỗi ngày có 150 lượt người đến khám và tư vấn về HM-VS tại BV, trong đó có khoảng 10% số cặp vợ chồng cần can thiệp bằng phương pháp khoa học (thụ tinh trong ống nghiệm - TTTON) để có con. Từ khi thành lập khoa Hiếm muộn đến nay đã có gần 4.000 em bé chào đời tại BV Từ Dũ bằng phương pháp TTTON”.
Bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Sương, Trưởng khoa HM BV Hùng Vương, nhìn nhận: “Nhu cầu điều trị HM-VS ngày một tăng cao so với trước, bình quân mỗi ngày BV Hùng Vương tiếp nhận từ 80-90 lượt cặp vợ chồng đến khám, điều trị. Trung bình mỗi tháng có 20-30 trường hợp được chỉ định cần làm TTTON”.
Người trẻ chữa HM ngày càng nhiều
Tại BV Từ Dũ, độ tuổi đến khám HM và làm TTTON dao động từ 20-45. Riêng tuổi trung bình làm TTTON tại đây là 31-33 tuổi. Còn tại BV Hùng Vương, lứa tuổi thường gặp đến khoa HM là từ 32-35 tuổi. Các cặp vợ chồng gồm nhiều thành phần, nghề nghiệp, từ công nhân, nhân viên văn phòng, đến giáo viên, bác sĩ, các bà nội trợ…
Nên có cuộc vận động?
Theo bác sĩ Hoàng Thị Diễm Tuyết: “Lý tưởng nhất là NHTT đủ “vốn” để cung cấp mẫu tinh trùng cho bất kỳ trường hợp nào có nhu cầu trong điều trị vô sinh, thậm chí bệnh nhân có thể chọn một số tiêu chí từ màu sắc da, chiều cao… từ tinh trùng được cho”. Về giải pháp tăng "vốn" cho NHTT, nhiều bác sĩ đề xuất nên có một cuộc vận động người dân tham gia hiến tặng tinh trùng giống như việc hiến tặng mô tạng, hay phong trào hiến máu nhân đạo. “Và, quan trọng là nguồn tinh trùng được hiến công khai, được kiểm tra sẽ an toàn hơn rất nhiều so với việc mua bán tinh trùng lén lút”, bác sĩ Hồ Mạnh Tường nói. Tuy vậy, có ý kiến lo ngại việc vận động hiến tặng ồ ạt có thể gây ra một số hệ lụy về huyết thống.
Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), nguyên nhân gây HM-VS do chồng chiếm 30%, vợ 30%, cả hai vợ chồng là 30% và 10% còn lại thì chưa rõ nguyên nhân. Thống kê tại BV Từ Dũ cho thấy nguyên nhân do chồng chiếm đến 39%, vợ 27%, cả hai 21% và chưa rõ nguyên nhân là 13%.
Bác sĩ Hồ Mạnh Tường, Tổng thư ký Hội Nội tiết sinh sản và vô sinh TP.HCM, phân tích thêm về những yếu tố khiến ngày càng có nhiều cặp vợ chồng bị HM-VS: “Trước những áp lực cuộc sống, áp lực công việc của xã hội hiện đại, cộng với những yếu tố như chế độ ăn uống, sinh hoạt, môi trường, thực phẩm… đã khiến ngày càng có nhiều cặp vợ chồng bị trục trặc đường sinh nở, HM-VS ngày càng xảy ra rất nhiều, ngay nhiều cặp vợ chồng còn khá trẻ, trên dưới tuổi 30 gần đây cũng bị HM”. Ngoài những yếu tố trên, theo các bác sĩ, ngày nay phần lớn các cặp vợ chồng trẻ vì những tham vọng thăng tiến trong công việc, sự nghiệp, tài chính… nên thường trì hoãn việc có con kéo dài mấy năm sau ngày cưới. Trong khoảng thời gian đó, họ áp dụng nhiều biện pháp tránh thai, cộng với những áp lực trong cuộc sống, để rồi sau đó khi gọi là đầy đủ về nhiều mặt, muốn có con thì lại gặp những khó khăn về mang thai.
Nhu cầu chữa trị HM rất lớn nên hiện nay nhiều BV triển khai điều trị HM. Tại TP.HCM, từ một nơi đầu tiên trong cả nước là BV Từ Dũ đến nay đã có nhiều nơi khác điều trị HM là BV Hùng Vương, BV Phụ sản quốc tế Sài Gòn, BV Vạn Hạnh, BV An Sinh... Nhiều tỉnh, thành khác cũng đã có trung tâm chữa trị HM như Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Bình Dương…
Một kỹ thuật lấy tinh trùng để làm thụ tinh trong ống nghiệm - Ảnh: Thanh Tùng
Căng thẳng nguồn tinh trùng
Với khoảng 60% HM do người chồng và do cả hai vợ chồng (thống kê của BV Từ Dũ) cho thấy việc điều trị cho người chồng là chủ yếu. Với những người chồng không có tinh trùng hoặc chất lượng tinh trùng không bảo đảm, cách chữa HM thường là lấy nguồn tinh trùng khác để thực hiện TTTON. Thế nhưng, các bác sĩ điều trị HM đều cho biết một trong những khó khăn thường trực với nhiều cặp vợ chồng chữa HM hiện nay là… thiếu nguồn tinh trùng. Bác sĩ Hoàng Thị Diễm Tuyết nói: “Số nam giới đến BV cho, hiến tặng tinh trùng chỉ đếm trên đầu ngón tay! Do vậy, ngân hàng tinh trùng (NHTT) của BV luôn trong tình trạng “thiếu vốn”. Để NHTT tồn tại được, bệnh nhân khi có chỉ định điều trị thì bản thân họ phải vận động một ai đó cho, tặng tinh trùng cho ngân hàng của BV, sau đó BV sẽ lấy mẫu tinh trùng của BV để làm TTTON cho họ như một phương thức hoán đổi… tinh trùng”.
Người cho tinh trùng không được biết người nhận
Người cho tinh trùng phải được sàng lọc tối thiểu về các yếu tố như tuổi, trình độ học vấn, sức khỏe, không có bệnh lây qua đường tình dục, không rối loạn di truyền và đương nhiên mẫu tinh trùng phải đủ tiêu chuẩn làm TTTON. Đáng lưu ý, người cho tinh trùng không được biết người nhận là ai. Ngược lại, người cho và nhận trứng có thể được biết nhau.
Thông thường, các cặp vợ chồng khi cần nguồn tinh trùng “hoán đổi” với ngân hàng thường vận động người quen, bè bạn giúp đỡ, nhưng do nhiều người còn e ngại lời dị nghị, không ít trường hợp bị người thân, gia đình ngăn cản… nên việc tìm được nguồn tinh trùng để hoán đổi không hề đơn giản. Người hiến cũng như mẫu tinh trùng của họ phải trải qua các khâu kiểm tra, xét nghiệm (trong vòng vài tháng) về các bệnh truyền nhiễm, chất lượng tinh trùng… trước khi được BV hoán đổi cho mẫu tinh trùng khác. Bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Sương chia sẻ: “Có những cặp vợ chồng mất một thời gian khá dài mới tìm được người cho tinh trùng. Họ rất mừng. Nhưng rồi khi qua kiểm tra tinh trùng của người cho không đạt yêu cầu. Vậy là lại phải đi tìm một người cho khác, rất khổ sở vì không dễ để tìm ra người chịu cho tinh trùng!”. Còn theo bác sĩ Hồ Mạnh Tường, nhiều trường hợp có chỉ định điều trị rồi, nhưng chờ đợi tinh trùng mỏi mòn, có người nản chí, đành bỏ cuộc, có người chờ từ khi tuổi ngoài 30, đến khi ngoài 40 tuổi vẫn không có tinh trùng!
Chính vì khan hiếm nguồn tinh trùng nên mới có chuyện rao bán tinh trùng trên các trang mạng, cũng như một số phòng mạch cung cấp tinh trùng bất hợp pháp cho người có nhu cầu. Vừa qua, Thanh tra Sở Y tế TP.HCM kiểm tra và phát hiện một bác sĩ làm phòng mạch tại Q.1 đang tư vấn về việc bơm tinh trùng điều trị vô sinh cho một cặp vợ chồng. Theo người vợ thì chi phí bơm tinh trùng ở phòng mạch này là 5 triệu đồng, còn tiền mua tinh trùng cao gấp 2-3 lần. Gần đây cũng xuất hiện nhiều nam giới rao bán tinh trùng trên các trang mạng, đặc biệt trên một website chuyên về y dược, được rao bán tinh trùng nhiều nhất với một số nickname khá quen thuộc như: thaison…@...; duy…@...; luongm…@...; thienh…@...; muonco…@... Đáng lưu ý, có những người rao có thể bán tinh trùng “tươi” (nghĩa là quan hệ trực tiếp với người vợ của cặp vợ chồng hiếm muộn)! “Việc bơm tinh trùng ở phòng mạch, hay kiểu bán tinh trùng “tươi” như nói trên, người tiếp nhận có thể mắc những bệnh truyền nhiễm từ người cho, cũng như tỷ lệ thành công từ nguồn tinh trùng này sẽ rất thấp vì không qua sàng lọc, xét nghiệm kỹ càng trước đó”, một bác sĩ khuyến cáo.
Tiền phong
Sẽ không có trẻ nhiễm HIV nếu...
Điều trị kháng vi rút (ARV) và hỗ trợ sau khi sinh đã giúp không ít bà mẹ có HIV sinh ra những đứa trẻ không nhiễm bệnh.
Tuyệt vọng
Bà P. ở thành phố Điện Biên có 3 con trai. Con cả mắc nghiện và chết năm 2005, khi mới 32 tuổi, chưa lập gia đình. Con trai thứ hai và con dâu cũng mắc nghiện. Dẫu vậy, ngày biết tin con dâu có bầu, bà P. vẫn hy vọng. Nhưng đến khi con dâu vào viện sinh cháu, niềm hy vọng sụp đổ vì cả con trai và con dâu của bà đều nhiễm HIV.
Nỗi lo và sự đau đớn khi có thể mất thêm những đứa con chưa dứt thì 2 tháng sau khi sinh, tin cháu nội đầu tiên của bà cũng nhiễm HIV khiến bà suy sụp tinh thần. Không chỉ sử dụng ma túy, con trai và con dâu thứ hai còn mua bán chất ma túy. Khi họ nhận ra lầm lỗi của mình thì đã quá muộn. Mỗi khi ôm đứa con vào lòng, hai vợ chồng đều khóc trong tuyệt vọng. Anh con trai nhiều lần vừa khóc vừa nói với bà: “Con con nó vô tội. Sao phải bắt nó chịu tội?”.
Rồi, cả hai vợ chồng anh con trai thứ hai đều bị bắt. Bà P. đón cháu về nuôi. Chồng bà, ông L., bệnh nặng phải vào nằm viện. Rồi ông L qua đời. Hơn tháng sau, con trai, con dâu bà cũng chết trong trại giam. Trong hơn một năm, bà P. mất đi 4 người thân. Và đứa cháu gái mồ côi cha mẹ từ nhỏ lại mang trong mình HIV luôn đối diện với mặc cảm.
Bây giờ, thời gian đã dần xóa nhòa những nỗi đau ấy, bà P. trở lại cuộc sống bình thường. Bà tham gia làm thành viên CLB Hoa Hướng Dương, nơi bà có thể được tư vấn, chia sẻ thông tin về HIV/AIDS cũng như cách chăm sóc, điều trị bệnh nhân... Tư vấn cho nhiều người nhưng bà P. lại xót cho chính mình: Giá mà con dâu bà được phát hiện sớm, được điều trị dự phòng lây truyền từ mẹ sang con thì cháu nội bà đâu đến nỗi.
Hy vọng
Tại tỉnh Điện Biên, nơi có tỷ lệ người nhiễm HIV cao nhất cả nước, tỷ lệ bà mẹ mang thai có HIV chiếm tới 2%. Nhiều bà mẹ mang thai bị nhiễm HIV khi chưa được tư vấn thường sống trong tâm trạng tuyệt vọng.
Vợ chồng chị Thành cùng bị nhiễm HIV. Khi chị Thành mang thai được 6 tháng, chị cảm thấy buồn và vô cùng thất vọng. Được các bác sĩ tận tình động viên, chị Thành chịu khó uống thuốc và tuân thủ những chỉ dẫn y tế.
Thời gian đầu mới sinh con, người mẹ nhiễm HIV không được cho con bú, mà điều kiện gia đình không thể mua sữa cho bé liên tục, nên cháu bé con chị Thành chỉ được uống sữa ngoài một tháng đầu. 18 tháng trôi qua, đến ngày bé đủ điều kiện đi làm xét nghiệm. Kết quả, cả nhà chị Thành mổ gà ăn mừng vì con chị thoát khỏi căn bệnh mà bố mẹ đang mang.
Chị Mai ở huyện Mường Phăng có chồng nghiện ma túy. Khi mang bầu, chị đi xét nghiệm HIV và có kết quả dương tính. Được các bác sĩ tuyên truyền viên tư vấn, chị yên tâm điều trị với thuốc AVR. Gia đình chị Mai ngày càng sa sút bởi ông chồng nghiện nặng hơn, nhà có gì cũng ôm đi đổi lấy thuốc hút chích. Nhưng điều kỳ diệu đã xảy ra: Con của chị sinh ra đã có kết quả âm tính với HIV. Cháu bé còn được hưởng dự án hỗ trợ sữa thay thế đến hết 6 tháng.
Gia đình & Xã hội
Mô hình can thiệp phòng chống bạo lực gia đình: Bạo hành giảm 70%
Việt Nam đã xây dựng thành công mô hình can thiệp phòng chống bạo lực gia đình, góp phần làm giảm gần 70% số vụ bạo lực gia đình so với thời điểm triển khai (tháng 7/2008).
Kết quả này được ghi nhận trong hội nghị tổng kết "Mô hình can thiệp phòng chống bạo lực gia đình" do Bộ văn hoá, Thể thao và Du lịch tổ chức ngày 10/12 tại tỉnh Nam Định.
Mô hình phòng chống bạo lực gia đình được xây dựng tại 63 tỉnh, thành phố trong đó lấy việc thành lập Câu lạc bộ Xây dựng gia đình phát triển bền vững và Nhóm phòng chống bạo lực gia đình.
Tại mỗi tỉnh, thành triển khai mô hình, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đều hỗ trợ toàn bộ kinh phí xây dựng và duy trì 5 câu lạc bộ xây dựng gia đình phát triển bền vững và 5 nhóm phòng chống bạo lực gia đình.
Trong hơn 2 năm qua, các câu lạc bộ này trong cả nước đã tổ chức cho hơn 525.000 hộ gia đình tham gia sinh hoạt với 14 nhóm nội dung về truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, giáo dục ứng xử giữa các thành viên trong gia đình; kỹ năng giữ gìn hạnh phúc gia đình...
Các nhóm phòng chống bạo lực gia đình ngăn chặn kịp thời các vụ bạo lực xảy ra trên địa bàn, bảo vệ nạn nhân; lập danh sách đối tượng có nguy cơ cao gây bạo lực; tổ chức truyền thông, tư vấn, vận động người dân tham gia phòng chống bạo lực gia đình.
Tính đến tháng 11/1010, các nhóm phòng chống bạo lực gia đình đã tổ chức được 1.200 buổi tuyên truyền lồng ghép cho gần 270.000 lượt người.
Theo ông Đỗ Hoàng Du, Vụ trưởng Vụ gia đình (Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch), những hoạt động hiệu quả trên đã góp phần làm giảm đáng kể số vụ bạo lực gia đình trong cả nước.
Cụ thể, tại 64 xã triển khai mô hình, tổng số vụ bạo lực gia đình xảy ra trong 3 năm qua là 1.879 vụ, trong đó, sau mỗi năm số vụ bạo lực gia đình giảm 1/2 so với năm trước.
Đặc biệt, trong giai đoạn 2010-2015 đã có 44/63 tỉnh, thành phố có kế hoạch nhân rộng mô hình với kinh phí đầu tư khoảng 40 tỷ đồng.
Để hoạt động này tiếp tục có hiệu quả, trong thời gian tới, Việt Nam sẽ nhân rộng mô hình can thiệp phòng chống bạo lực gia đình và kế hoạch hành động phòng chống bạo lực gia đình; triển khai thực hiện Chương trình hành động quốc gia phòng chống bạo lực gia đình giai đoạn 2010-2020.
Cùng với việc ban hành thông tư quy định về quản lý, sử dụng kinh phí từ ngân sách trong hoạt động phòng chống bạo lực gia đình, Việt Nam cũng sẽ đẩy mạnh hợp tác quốc tế, hoạt động của các tổ chức quốc tế, tổ chức xã hội dân sự trong phòng chống bạo lực gia.