Tháng 10 năm 2005, Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) đồng ý tiếp tục hỗ trợ sáng kiến phòng chống sốt rét cho các dân tộc thiểu số. Dự án tăng cường phòng chống sốt rét cho dân tộc thiểu số Tiểu vùng sông Mê Kông được khởi xướng cuối tháng 11 năm 2005. Hội nghị Ban tư vấn lần đầu tiên được tổchức với sự tham dự của tất cả các Trưởng ban quản lý dự án phòng chống sốt rét quốc gia, các đại diện từ ADB, ACT Malaria, WHO và TS. Jo Lines, chuyên gia sốt rét của Trường Đại học Y khoa nhiệt đới Anh quốc.
Tất cả các Viện nghiên cứu ở các quốc gia trong khu vực Tiểu vùng sông Mê Kông đồng ý cộng tác với Dự án. Mục tiêu của dự án là làm giảm gánh nặng sốt rét cho các nhóm dân tộc thiểu số sống trong vùng sốt rét lưu hành với những mục tiêu cụ thể sau:
- Xây dựng năng lực cho các Viện nghiên cứu sốt rét quốc gia để phát triển các chiến lược phòng chống sốt rét hiệu quả, phù hợp cho cộng đồng các dân tộc thiểu số;
- Phát huy những nỗ lực phòng chống sốt rét cho cộng đồng dân tộc thiểu số thông qua các chương phòng chống sốt rét quốc gia (NMCPs) và;
- Thúc đẩy hợp tác phòng chống sốt rét trong khu vực.
Trong thời gian diễn ra Hội nghị, các Trưởng ban quản lý Dự án PCSR cùng nhau chia xẻ những kinh nghiệm và những thành quả đạt được trong giai đoạn I của dự án, đó làviệc sử dụng những biện pháp và phát triển những vật liệu truyền thông. Dưới đây là một vài điểm rút ra từ cuộc thảo luận:
Các nhóm hoạt động nắm bắt được thực trạng và đưa ra các vật liệu giáo dục truyền thông phù hợp với yêu cầu của người dân nơi thực hiện dự án. Một số các chương trình phòng chống sốt rét quốc gia đã đưa vào sử dụng các vật liệu truyền thông cho các nhóm đối tượng khác nhau.
Nói chung người dân chấp nhận ngủ màn và nằm màn đặc biệt khi ở nhà, nhưng khi đi rừng và làm rẫy rất nhiều người lại không mang theo màn. Một trong những mối trở ngại chính để phòng ngừa sốt rét là tỷ lệ tẩm lại màn rất thấp, điều này là do người dân thiếu hiểu biết về lợi ích của hóa chất tẩm màn. Tổ chức tẩm lại màn cũng cần phải được tăng cường, hơn nữa nhiều người không sử dụng màn đúng cách, vì thế Dự án phòng chống sốt rét quốc gia (NMCPs) cần phải giáo dục cho các nhóm cộng đồng về sử dụng và tẩm lại màn đúng cách.
Sống trong cộng đồng người dân không chỉ xem sốt rét là một vấn đề sức khỏe mà hơn thế nữa cần xem nó như một phần của cuộc sống. Họ không đến được các cơ sở y tế để được điều trị, ở vùng sâu vùng xa, người dân các dân tộc thiểu số và dân di cưcó khi phải mất đến 1-2 ngày mới tới được nhân viên y tế để điều trị. Trong khi đó, các phác đồ điều trị sốt rét không có sẵn ở các cán bộ y tế địa phương, trạm sốt rét và ở những phòng khám sốt rét.
Người dân đến các phòng khám tư nhân vì dễ tiếp cận hơn, lĩnh vực y tế tư nhân được tin cậy hơn vì ở đây họ sẽ được chăm sóc với các dịch vụ và thuốc men có sẵn. Tuy vậy, việc chỉ định dùng thuốc sốt rét ở các cơ sở y tế tư nhân lại không đúng theo phác đồ, nhiều người không đủ khả năng chi trả cho toàn bộ quá trình điều trị. Một số dự án phòng chống sốt rét quốc gia (NMCPs) đã bắt đầu áp dụng liệu pháp điều trị phối hợp các loại thuốc có gốc Artemisinine (ACT: Artemisinine-based Combination Therapy) nhưng lại không đến đượccộng đồng vì những trở ngại về vấn đề phân phối và thiếu hướng dẫn về sử dụng thuốc đúng cách. Ở Việt Nam, các trạm y tế xã đều có khả năng cấp thuốc sốt rét cho bệnh nhân đến khám và điều trị. Ngoài ra còn có các đội y tế lưu động đến tận các thôn bản để cung cấp các dịch vụ y tế trong đó có cả phòng chống sốt rét. Tuy nhiên các đội y tế lưu động này không thể thường xuyên đến các bản làng, cụm dân cư xa xôi. Có một số bản làng, một số cụm dân cư chưa được nhà nước quản lý.
Nhận thấy rõ những hạn chế trong công tác phòng chống sốt rét cho cộng đồng dân tộc thiểu số, mỗi quốc gia đã xác định các nhóm đối tượng mục tiêu, cơ cấu dịch vụ y tế và các chiến lược can thiệp để phòng chống. Tất cả các quốc gia sẽ vẫn tiếp tục làm việc với các nhóm dân tộc thiểu số như ở giai đoạn I.
Campuchia (Cambodia) tiến hành hoạt động ở nhóm dân tộc Kreung, Tampun và Jarai ở tỉnh Rattanakiri. Chương trình quốc gia phòng chống sốt rét Trung Quốc tiến hành hoạt động vớingười Wa ở huyện Ximang và dự định tiến hành hoạt động với dân tộc thiểu số Dai, huyện Mangbi, tỉnh Yunnan. Lào (Lao PDR) sẽ tiếp tục tiến hành hoạt động với dân tộc Brau-Lave và Taliang ở tỉnh Attapeu. Myanmar sẽ tiến hành hoạt độngvới dân tộc thiểu số Shan và Lahu ở Tachileik, Eastern Shan State. Thái Lan (Thailand) sẽ tiến hành hoạt động với người Karen ở tỉnh Maehongson. Việt Nam sẽ tiến hành hoạt động với dân tộc Raglei ở tỉnh Khánh Hòa.
Tất cả các quốc gia đều có chung những mục đích: tăng tỷ lệ tẩm lại màn, khuyến khích sử dụng màn tẩm, người dân được chẩn đoán bệnh sớm và đảm bảo mọi người được điều trị đủ liệu trình.
TS. Jo Lines, chuyên gia dự án phòng chống sốt rét sẽ làm việc với các quốc gia, giúp đưa ra các biện pháp phòng chống dựa trên các chỉ số cụ thể của từng nước. Ông cũng giúp các nước đề xuất các phương tiện, kế hoạch cho việc giám sát và đánh giá. Các nhóm hoạt động ở các quốc gia sẽ hoàn thành công việc này trong hội nghị lần thứ hai Ban tư vấn tổ chức vào tháng Ba năm 2007.
Cập nhật từ cộng hòa dân chủ nhân dân Lào:
TS. Soudsady, người có vai trò chính ở Dự án phòng chống sốt rét Trung ương (CMPE)-Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (Lao PDR) cập nhật thông tin cho chúng tôi về những hoạt động truyền thông giáo dục (IEC). Các phương tiện truyền thông giáo dục đa dạng như áp phích về điều trị và phòng chống sốt rét, sách về màn tẩm hóa chất hiệu quả lâu dài (LLIN - long-lasting insecticide treated net), băng video, casette đã được sản xuất với sự hỗ trợ của Dự án quỹ toàn cầu phòng chống sốt rét (GFATM). Tất cả các vật liệu truyền thông phải được kiểm tra trước trong các nhóm mục đích. Đây là một trong những bước quan trọng để nhóm hoạt độngnhận thấy đó là một phần cần thiết để đảm bảo vật liệu truyền thông có hiệu quả. Nhóm hoạt động này đã đưa vào thử nghiệm băng hình bằng tiếng Brau-Lave cho người H’Mông. Khi đưa vào thử nghiệm, tất cả mọi người đều phản đối vì trong băng có đoạn trình diễn nghi thức lễ trong tôn giáo không đúng và mọi người nhận thấy điều này là thiếu tôn trọng họ.
Điều này chỉ rõ việc chuẩn bị vật liệu truyền thông phải rất cẩn thận và cần phải được đưa vào thử nghiệm trong các nhóm mục đích.