Rơ Măm là một trong 5 dân tộc có số người ít nhất tại nước ta sống theo gia đình lớn, họ ở trong những ngôi nhà dài, các thế hệ đời này qua đời khác sống chung với nhau. Nhà rông là nơi diễn ra các sinh hoạt văn hóa chung của cả cộng đồng.
Với 352 người, dân tộc Rơ Măm cư trú ở làng Le, xã Mo Rai, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum, khu vực nằm ở ngã ba biên giới Việt Nam-Lào-Campuchia. Ngôn ngữ của họ sử dụng thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer, ngữ hệ Nam Á.
Dân tộc Rơ Măm cư trú trên địa hình vùng núi cao, có những dãy đồi lượn sóng bị chia cắt bởi những con sông và suối nhỏ tạo nên một phần diện tích bằng phẳng và thung lũng hẹp. Đồng bào dân tộc Rơ Măm sinh sống bằng nghề nương rẫy, trồng lúa nếp làm cây lương thực chủ yếu. Ngoài ra, họ săn bắn, hái lượm và đánh cá. Các hoạt động kinh tế mang tính chất tự nhiên, tự túc, tự cấp, việc trao đổi hàng hóa với phương thức hàng đổi hàng.
Phụ nữ người dân tộc Rơ Măm thường quấn váy, ở trần; một số mặc áo ngắn tay với hoa văn, màu sắc đơn giản, phần nhiều là loại vải mộc, không nhuộm. Nam giới người dân tộc Rơ Măm đóng khố, vạt trước dài tới đầu gối, vạt sau tới ống chân.
Cũng như một số dân tộc thiểu số khác ở Tây Nguyên, làng của tộc người dân tộc Rơ Măm vận hành theo chế độ tự quản. Đứng đầu là già làng, người có sự tín nhiệm, đức độ, minh mẫn, tinh thông luật tục, được mọi người kính nể, là tấm gương để mọi người noi theo.
Đồng bào dân tộc Rơ Măm có nhiều lễ hội truyền thống như lễ mừng cơm mới, lễ đâm trâu và các nghi lễ gắn với nghề trồng lúa, làm nương rẫy.
Nghi lễ hôn nhân của người dân tộc Rơ Măm gồm có hai bước chính là lễ hỏi (năm muăn) và lễ cưới (ét-gu). Điều đặc biệt là sau lễ cưới vài ngày, họ có thể bỏ nhau nếu không hợp nhưng khi vợ chồng đã sống với nhau lâu ngày, đặc biệt là lúc đã có con thì không được bỏ nhau, nếu vi phạm sẽ bị làng phạt nặng. Trước đây, hôn nhân chỉ thực hiện trong nội bộ dân tộc mình, hiện nay được mở rộng hơn; người dân tộc Rơ Măm có thể lấy người của dân tộc khác hoặc cư trú nơi khác làm vợ, làm chồng.
Người dân tộc Rơ Măm có một nguyên tắc kiêng cữ đặc biệt khi sinh con. Theo phong tục này thì phụ nữ không được đẻ trong nhà vì sẽ làm cho ngôi nhà bị ô uế. Do đó khi phụ nữ đến kỳ sinh nở, họ tự dựng riêng cho mình một túp lều nhỏ trong vườn hoặc phía sau nhà. Người dân tộc Rơ Măm thường tự sinh nở, ít khi họ nhờ đến bà đỡ hoặc các y bác sĩ; trừ khi có những vấn đề đặc biệt. Sau khi sinh, cả mẹ và đứa trẻ được tắm rửa cẩn thận trước khi đưa về nhà.
Xuất phát từ quan niệm vạn vật hữu linh, người dân tộc Rơ Măm tin tưởng vào sự tồn tại của linh hồn sau khi chết. Do vậy, nơi sống và cõi chết trong tâm thức của họ và trong ứng xử được đặc biệt coi trọng, thể hiện rõ nét trong cách bố trí nghĩa địa dành cho người chết. Nghĩa địa chỉ nằm ở phía Tây vì họ sợ cái chết sẽ đi qua làng theo hướng đi của mặt trời. Khi có người chết, sau hai đến ba ngày sau phải đưa đi mai táng và khi chôn cất, tuyệt đối không để người dưới mộ nằm hướng mặt về phía làng vì nếu để như vậy sẽ mang lại điềm dữ cho dân làng.
Người dân tộc Rơ Măm trước đây có theo tập tục “cà răng, căng tai”. Đến tuổi trưởng thành, trai và gái đều cưa cụt từ 4 đến 6 chiếc răng cửa ở hàm trên. Ngày nay, đa số thanh niên đã bỏ tập tục này.
Trong cuộc sống hiện tại, các gia đình lớn người dân tộc Rơ Măm đã dần dần phân ly thành những gia đình cá thể, ở nhà trệt theo kiểu nhà của người Kinh. Nhà trệt cũng dần thay thế những ngôi nhà sàn trước đây. Các tiện nghi sinh hoạt trong gia đình của cuộc sống hiện đại như ti vi, xe máy cũng hiện hữu tại các buôn làng. Đời sống vật chất của nhân dân người dân tộc thiểu số Rơ Măm đang càng ngày càng được cải thiện tốt hơn.