Trong các dân tộc thiểu số sinh sống ở tỉnh Thừa Thiên Huế, dân tộc Bru-Vân Kiều, Cơ Tu, Tà Ôi được xem là người bản địa sinh sống ở phía Tây của tỉnh. Trải qua quá trình sinh sống lâu dài, các dân tộc này đã tạo cho mình bản lĩnh dân tộc và nét văn hóa đặc trưng, thống nhất trong đa dạng, làm nên một tiểu vùng văn hoá ở phía tây tỉnh Thừa Thiên Huế
Dân tộc Bru-Vân Kiều
Bru-Vân Kiều là một trong 3 dân tộc bản địa cư trú ở miền núi tỉnh Quảng Trị và tỉnh Thừa Thiên Huế. Xưa kia người Bru đã từng sinh tụ ở miền Trung Lào, sau do những biến động lịch sử họ phải di cư đi các nơi, một bộ phận đi theo hướng tây bắc sang Thái Lan, một bộ phận đi về hướng đông tụ cư ở Tây Quảng Trị, họ dựng làng ở xung quanh hòn núi Viên Kiều, về sau gọi là người Vân Kiều.
Xã hội truyền thống của người Bru đã được thiết lập khá vững chắc gọi là vil (làng). Mỗi vil có thể gồm nhiều Mu (có nơi gọi là mui hoặc dạ) hoặc một Mu cư trú (Mu có thể coi như họ, là nhóm hay một đơn vị ngoại hôn). Những người cùng một mu có cùng nguồn gốc huyết thống tính theo dòng họ cha, hay nói xa hơn là có chung một ông tổ - tôtem. Gia đình người Bru theo chế độ gia đình nhỏ phụ quyền do người đàn ông già nhất làm chủ, khi ông ta chết, quyền hành và tài sản được trao cho con trai trưởng, còn con gái không được chia tài sản, nếu có cũng chỉ rất ít so với con trai. Quan hệ giữa các gia đình trong cùng một mu, trong vil vẫn rất gần gũi và gắn bó, thường xuyên giúp đỡ nhau, cùng chung trách nhiệm và chia sẻ khi vui, buồn, lúc có hoạn nạn.Phần đông người Bru-Vân Kiều cư trú trong các làng tương đối biệt lập trên đồi hoặc lưng chừng núi, dọc theo các con nước (trừ những khu vực được định cư lâu đời). Các nhà trong làng thường xếp theo chiều dài của các đoạn sông, suối, có nơi còn bố trí theo hình bầu dục hoặc hình tròn. Nhà trong làng phải bố trí theo một trật tự nhất định, sao cho các cây đòn nóc giữa các nhà gần nhau không được có hướng đâm vào nhau. Nhà của người Bru là nhà sàn hai mái, lợp bằng lá mây hoặc lá cọ, nhưng cũng có nơi (thường là nhóm Vân Kiều) nhà làm mái tròn. Kích thước ngôi nhà lớn hay nhỏ phụ thuộc vào gia đình giàu hay nghèo. Tuy nhiên, mọi ngôi nhà đều có 2 cửa chính, một chủ yếu dành cho nữ, một cho nam và khách nam. Cách bố trí trong nhà tuân theo một nguyên tắc nhất định.
Người Bru-Vân Kiều mỗi năm làm 2 vụ lúa nước. Ngoài ra, họ còn chăn nuôi trâu bò lấy sữa và trồng một số cây công nghiệp, cây ăn quả ngắn ngày, nhưng nhìn chung vẫn là nông nghiệp nương rẫy. Gắn liền với nền kinh tế nương rẫy, người Bru-Vân Kiều thờ thần lúa (dàng sro) gắn liền với những lễ cúng vào những dịp phát rẫy, trỉa hạt, tuốt lúa, hoặc sau khi thu hoạch. Bên cạnh đó, người Bru-Vân Kiều còn thờ cúng tổ tiên (ông bà, cha mẹ, những đồng tộc từ 16 tuổi trở lên), mỗi gia đình có một bàn thờ riêng (t’ nông chel). Bên cạnh đó là một nhà thờ nhỏ (đông sok ku mui) được đặt ở những nơi cao ráo, hẻo lánh, ít người và thú rừng qua lại. Hình thức thờ cúng tại đây được xếp theo thứ tự người trên kẻ dưới, từ phải sang trái, có thể coi như một tộc phả. Tôn giáo của người Bru còn dấu vết của tô tem giáo vì xưa kia mỗi mu là một đơn vị tô tem. Đi liền đó là kho tàng văn nghệ dân gian rất phong phú, đa dạng thể hiện qua số lượng nhạc cụ, làn điệu ca hát, truyện kể….
Trong trang phục, do tiếp xúc với người Việt và người Lào, nên ít nhiềuchịu ảnh hưởng của người Việt và người Lào. Hôn nhân của người Bru-Vân Kiều là một vợ một chồng, cư trú bên chồng với nhiều nghi lễ phức tạp, thể hiện tính chất mua bán và còn nhiều tàn tích của hôn nhân cướp đoạt. Đối với tang ma, nếu trong nhà có người chết, buồng ngủ của người đó được phá ra, thi thể được đặt trong quan tài (thường làm bằng vỏ cây hoặc đan bằng giang, nứa, có nơi làm bằng khúc gỗ bổ đôi khoét giữa), chôn xong bỏ hẳn, không cải táng, nhưng có thủ tục rước ma sang trả nhà trưởng họ. Người chết dưới 16 tuổi và chết bất đắc kỳ tử thường chết đâu chôn đó, không được mai táng theo nghi thức trên và không rước ma về.
Dân tộc Cơ Tu
Dân tộc Cơ Tu tập trung chủ yếu ở miền núi phía tây huyện Phú Lộc, huyện Nam Đông và tây nam huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế. Dù được gọi bằng nhiều tên như Kha Tu, Ka Tu, K’ Tu,... (là sự phiên âm và cách viết chệch của tộc danh Cơ Tu) hoặc Cao, Hạ,... (tên gọi theo địa danh) nhưng Cơ Tu là tên gọi chính được đồng bào thừa nhận với nghĩa là người sống ở đầu ngọn nước.
Như phần đông các dân tộc cư trú ở vùng Trường Sơn-Tây Nguyên, người Cơ tu chuyên sống bằng trồng trọt trên rẫy theo kiểu du canh, du cư; chăn nuôi (trâu, lợn, dê, gà… theo phương thức thả rông, chỉ một số ít gia đình làm chuồng trại với vài chục con trâu); săn bắn và hái lượm vẫn còn giữ vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày và nghề truyền thống (đan, gốm, dệt,…).
|
hội cồng chiêng dân tộc Cơtu |
Làng bản của người Cơ Tu - (vel) là đơn vị cư trú, là đơn vị tự quản trong xã hội truyền thống, đứng đầu có chủ làng (ta ko vel) do hội đồng già làng bầu ra. Bên cạnh chủ làng có người chỉ huy quân sự (tako tak cọp) lo việc luyện tập, chỉ huy và tổ chức các cuộc “săn đầu người”. Trong xã hội, tuy đã có sự phân hoá giàu nghèo nhưng chưa phân chia thành giai cấp. Mỗi làng có một khu vực riêng để ở, trồng trọt, chăn nuôi, săn bắn và thu hái lâm thổ sản, được bố trí theo hình tròn hoặc bầu dục, ở những nơi cao ráo, tương đối bằng phẳng và gần nguồn nước, có cấu trúc theo kiểu làng phòng thủ. Làng có sân làng, giữa sân có một cột (để làm lễ đâm trâu), nhà chung - gươl (thường là nhà sàn) được dựng ở vị trí trang trọng và được trang trí nhiều hình động thực vật bằng gỗ, được chạm khắc rất công phu,…. dùng làm nơi tiếp khách trọng, hội họp, cất giữ các đồ quý của làng. Những năm gần đây, một số làng đã không còn tuân thủ kiểulàng truyền thống, tuy vậy vẫn phải theo nguyên tắc (hướng các cây đòn nóc của những nhà kề cận không được đâm vào nhau). Nhà của người Cơ Tu là nhà sàn, mái tròn, nhỏ và thấp, phần lớn cho một gia đình cư trú. Bao giờ nhà cũng có một cây cột cái ở chính giữa để đỡ cây đòn nóc, xung quanh có nhiều cột khác nối với cây đòn nóc bằng các kèo gỗ, được che kín bằng các liếp tre hoặc nứa cao từ sàn đến mái….
Người Cơ Tu có tổ chức capu hay tô, giống như họ của người Việt, đó là những người có cùng một ông tổ chung, cùng dấu hiệu nhận nhau và liên quan đến một huyền thoại hay một tập tục kiêng kỵ nhất định, đứng đầu cabu là ta ko capu -có trách nhiệm giải quyết các việc xảy ra trong capu hoặc giữa capu với làng.  |
Lễ hội của đồng bào dân tộc Kơtu huyện Nam Đông (Tư liệu Ban dân tộc) |
Đàn ông Cơ Tu cởi trần, đóng khố. Đàn bà cũng thường cởi trần, chỉ buộc một mảnh vải như cái yếm che ngực, mặc váy ngắn đến gối. Nam và nữ người Cơ Tu thường búi tóc, trên có gim những chiếc răng lợn, lông nhím hoặc que tre vót nhọn, ở một số nơi cắt tóc ngắn, xén bằng ở trước trán kiểu mái tranh và có tục xăm mình, xăm mặt với các hình vẽ đa dạng, ngoài ra một số nơi có tục cưa răng cho thanh niên nam nữ đến tuổi trưởng thành kèm theo lễ đâm trâu. Phụ nữ Cơ Tu chuộng các loại trang sức như vòng tay, khuyên tai , vòng cổ ….
Hình thức hôn nhân một vợ một chồng và cư trú bên chồng, về nguyên tắc là ngoại hôn, một chiều và dây chuyền. Tuy nhiên, còn những biểu hiện của hôn nhân nguyên thuỷ (hôn nhân cướp đoạt; hôn nhân anh em chồng; hôn nhân chị em vợ; đàn bà goá còn có thể ăn ở với bố chồng, cũng như con trai có thể ăn ở với vợ lẽ của bố đẻ hoặc bố vợ khi bố đẻ hay bố vợ qua đời…). Chế độ phụ quyền ở người Cơ Tu đã khá vững chắc, người chủ gia đình, có quyền hành và được thừa kế tài sản đều là đàn ông.
Trong đời sống hằng ngày của người Cơ Tu, quan niệm về “vạn vật hữu linh”, những tập tục kiêng cữ vẫn còn in đậm trong nếp nghĩ, được áp dụng khá khắt khe trong sinh hoạt và sản xuất. Họ có những lễ tục liên quan đến tô tem. Ngoài ra, người Cơ tu còn có các lễ tục thờ thần bản mệnh, ma thuật chữa bệnh, ma thuật làm hại, lễ hội. Lễ đâm trâu có nguồn gốc từ tục hiến sinh cầu mùa xa xưa. Lễ này có thể được tổ chức trong phạm vi gia đình, dòng họ và cả cộng đồng. Bên cạnh đó, kho tàng văn nghệ dân gian của dân tộc Cơ tu độc đáo với nhiều bài hát, điệu múa, bài thơ, truyện kể được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác; nghệ thuật điêu khắc và trang trí truyền thống cũng rất tinh xảo với những bức vẽ, chạm khắc ở nhà gươl, những bức tượng khoả thân treo ở cổng làng hoặc những bức tượng rất đa dạng phản ánh nhiều tâm trạng của con người ở xung quanh các nhà mồ...
Dân tộc Tà Ôi
Dân tộc Tà Ôi - tên tự gọi là Ta ôih, có vùng phát âm là Ta uôih hay Ta uốt và trong thư tịch cũ gọi là Ta hoi, Tôi ôi phân bố ở huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị; huyện A Lưới và Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Cộng đồng dân tộc Tà Ôi ở Việt Nam gồm có 3 nhóm: Nhóm Tà Ôi chính dòng,nhóm Pa Côvà nhóm Pa Hi. Các dân tộc Tà Ôi, Bru-Vân Kiều và Cơ Tu sống kề cận nhau, có cùng hoàn cảnh lịch sử-xã hội nên các nét văn hoá càng gần nhau và có thể coi là một cộng đồng tộc người ngôn ngữ-văn hoá.
Nguồn sống chủ yếu của người Tà Ôi là làm rẫy (đa canh và du canh theo lối cổ truyền: phát - cốt - đốt - trỉa), riêng người Pa Hi vì sống ở các ngã ba sông vùng chân núi nên có làm ruộng, người Tà Ôi là cư dân sớm có thu nhập hoa lợi trên vườn, tuy vườn chưa có khuôn viên, nhưng đã có cây ăn quả như mít, cam, bưởi, muỗm... Ngoài ra, người Tà Ôi có truyền thống chăn nuôi đại gia súc (trâu, lợn, dê, bò…) để làm vật hiếnsinh và bán cho miền xuôi, bán sang Lào...
Tương tự các dân tộc thiểu số sống trên dải Trường Sơn-Tây Nguyên, làng người Ta Ôi theo kiểu làng tròn, làng phòng thủ, làng hình móng ngựa… công trình công cộng đều xây dựng giữa làng, nhà dân vây quanh nhưng đảm bảo nguyên tắc các cây đòn nóc nhà không có hướng đâm vào nhau. Nhà ở của người Tà Ôi là loại nhà sàn tổng hợp, riêng người Pa Hi ở nhà đất (có nhà ở riêng và nhà chứa lương thực riêng), nhưng cả nhà sàn và nhà đất đều có mái tròn ở hai đầu hồi nhà và đều có “khau cút” (làm bằng gỗ có hai hình đầu chim cu chéo nhau, tượng trưng cho tình yêu quê hương và tâm tính hiền hoà của dân tộc trên phần mái hồi tiếp giáp với đầu nóc) - đây là đặc điểm để phân biệt ngôi nhà của người Tà Ôi với các dân tộc khác cùng ngữ hệ ở vùng này. Trong gia đình người Tà Ôi, quyền thừa kế tài sản thuộc về con trai, song sự ưu tiên cho con trai cả chưa rõ, dù anh ta có vai trò chủ trì các nghi lễ thờ cúng tổ tiên và luôn được ở gian đầu của ngôi nhà. Người Tà Ôi ăn mặc đơn giản và dùng một số loại trang sức đeo tại cổ, cổ tay, cổ chân hoặc trang điểm trên cơ thể (để mái tóc, cà răng cửa, xăm hình…). Ngày nay, lớp người trẻ đã từ chối không sử dụng cách trang sức theo kiểu cà răng và xăm mình.
Xã hội cổ truyền của người Tà Ôi là xã hội chưa có giai cấp, xã hội nguyên thuỷ ở thời kỳ tan rã. Tuy vậy, đã có sự phân hoá giàu nghèo, mỗi làng có 1-2 người giàu và 1-2 người tôi tớ hay nô lệ. Đơn vị xã hội cơ bản của người Tà Ôi là vel hay vil giống như ở người Cơ Tu và Bru-Vân Kiều, tương ứng với làng của người Việt. Cư dân mỗi làng thường gồm nhiều dòng họ khác nhau, mỗi dòng họ sống trong một hay nhiều ngôi nhà, mỗi ngôi nhà có một người đứng đầu (đầu nóc). Những người đứng đầu nhà dài đó họp thành bộ máy tự quản cổ truyền quản lý mọi công việc chung của làng.
Quan hệ hôn nhân, gia đình ở người Tà Ôi có nhiều nét giống với người Cơ Tu và Bru-Vân Kiều - đã chuyển sang chế độ phụ hệ, cư trú phía nhà chồng, đồng thời còn mang nhiều tàn dư của thời mẫu hệ. Người Tà Ôi đến nay vẫn thực hiện ngoại hôn theo một đơn vị huyết thống gọi là yă, những người đã cùng yă thì không được có quan hệ tính giao, quan hệ thông hôn. Hiện nay, gia đình người Tà Ôi có xu hướng chuyển sang gia đình nhỏ, những ngôi nhà dài xưa ngày càng mất đi nhường chỗ cho những ngôi nhà chỉ có 1 cặp vợ chồng và con cái.
Cũng giống như các dân tộc Cơ Tu, Bru-Vân Kiều, kho tàng sáng tác nghệ thuật dân gian và hệ thống tôn giáo, tín ngưỡng của người Tà Ôi rất đa dạng, phong phú, chỉ khác nhau ở một vài chi tiết của sự thờ cúng và cách tiến hành nghi lễ. Người Tà Ôi quan niệm có các thần linh tự nhiên (yang), thần linh của đất làng (yang sự) và các yang này đều có vật ký thác là những hòn đá có hình thù người hay con vật nào đó, được thờ trong nhà rông (nếu có) hoặc trong ngôi miếu (parong) trong rừng. Lễ cải táng (rơ pớp) là lễ lớn nhất trong các nghi lễ thờ cúng tổ tiên ở người Tà Ôi, được cúng chung cho cả làng sau đó mới làm riêng ở gia đình có việc; lễ này đồng thời là ngày hội lớn của dân làng, mọi người ăn uống linh đình trong vài ngày rất tốn kém, còn việc cải táng chỉ làm đơn giản là mang hài cốt chuyển đến chôn chung trong nghĩa trang của làng hoặc khu vực riêng của dòng họ, gia đình. Ngoài ra còn có tục thờ thần của cải (yang panuôl), hồn lúa (yang sro) và các lễ cúng kèm theo như lễ apiêr, lễ aja.
Dân tộc Pa Kôh
Pa Kôh là dân tộc thiểu số, định cư chủ yếu ở huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế và huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị. Họ sống xen kẽ với người Cơ Tu, Tà Ôi, Vân Kiều và có nhiều đặc điểm tương đồng với các dân tộc nhóm Môn-Khmer về trang phục, nhà ở, cách thức canh tác. Với 18.000 người, đồng bào Pa Kôh hiện chiếm số dân lớn nhất trong cộng đồng dân tộc thiểu số tại Thừa Thiên Huế. Tiếng Pa Kôh là một ngôn ngữ độc lập, đại diện cho một tiểu nhóm thuộc nhóm Katuic Tuy số lượng người tương đối lớn, trải trên địa bàn khá rộng nhưng trong tiếng Pa Kôh hầu như không có sự phân chia thành các phương ngữ, thổ ngữ. Theo điều tra, khảo sát tại một số xã thuộc huyện A Lưới có 8/12 xã có đồng bào là dân tộc Pa Kôh (gồm các xã Hồng Thượng, Đông Sơn, Hồng Trung, Hồng Vân, Hồng Thủy, Hồng Quảng, Hồng Kim, Hồng Bắc) và 4/5 xã có đồng bào dân tộc Tà Ôi (gồm các xã Hồng Thái, A Ngo, A Đớt, Nhâm).
Về mặt tổ chức xã hội, người Pa Kôh không phân chia ranh giới giữa làng này với làng khác trong khi làng của người Tà Ôih lại phân chia ranh giới rất rõ ràng bởi hàng rào bằng tre vững chắc. Người Pa kôh xem con voi là vật quý nhất, thể hiện sự giàu sang trong khi với người Tà Ôih, cái quý nhất thể hiện sự giàu có lại là những vòng ngọc có màu trắng ngà.
Về dòng họ, nếu người Pa Kôh phần đông lấy tên họ mình là Tầng Koal (con chó) thì người Tà Ôi lấy tên họ mình là A Kê, Pê Kê (con chim). Đàn ông trong gia đình người Tà Ôi đảm đang, nấu ăn rất giỏi, còn với người Pa Kôh thì công việc nấu nướng chỉ dành riêng cho phụ nữ. Tuy cùng có tập quán ở nhà dài nhưng nhà của người Pa Kôh mái xuôi và có vách ngăn riêng biệt cho từng gia đình trong đại gia đình, còn nhà của người Tà Ôi lại có mái thẳng đứng và không chia vách ngăn.
Hiện nay, Ban Dân tộc tỉnh Thừa Thiên Huế đang hoàn chỉnh đề án “Bổ sung dân tộc Pa Kôh vào danh mục các dân tộc Việt Nam” để đề xuất Đảng, Nhà nước công nhận dân tộc Pa Kôh vào danh mục các dân tộc Việt Nam.