Trong nhiều năm qua đầu tư của chương trình quốc gia phòng chống sốt rét đã làm giảm thấp tỷ lệ chết sốt rét, tỷ lệ mắc sốt rét, khống chế dịch sốt rét ở nhiều vùng, bệnh sốt rét đã được đẩy lùi một cách rõ rệt; tuy nhiên với thực trạng sốt rét hiện nay, Việt Nam có thể chuyển đổi sang Chiến lược Phòng chống sốt rét và Loại trừ bệnh sốt rét theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới, trong đó vừa phòng chống sốt rét ở các vùng có nguy cơ sốt rét cao đồng thời với loại trừ sốt rét ở các vùng sốt rét giảm tương đối bền vững và không có sự lan truyền tự nhiên.
Chiến lược Loại trừ sốt rét của Tổ chức Y tế thế giới
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Loại trừ sốt rét là cắt đứt sự lan truyền bệnh sốt rét của muỗi truyền bệnh tại một số vùng địa lý xác định, có nghĩa là tỷ lệ mắc bệnh tại địa phương là 0, chỉ còn sốt rét ngoại lai, tiếp tục triển khai các biện pháp phòng chống sốt rét (thời gian không hạn định).
Để đưa ra chiến lược này năm 2005 đã có cuộc họp khởi đầu về Chiến lược Loại trừ sốt rét (Malaria Elimination Strategy) tại Tashkent Cộng đồng chung Châu Âu; từ năm 2005-2007 WHO đã tổ chức nhiều cuộc họp, hội thảo bàn về Chiến lược Loại trừ bệnh sốt rét; năm 2008 WHO đã tổ chức một hội thảo bàn về chiến lược toàn cầu phòng chống sốt rét và loại trừ sốt rét tại Geneva (Thụy Sĩ).
Các giai đoạn Loại trừ sốt rét
Loại trừ sốt rét gồm 4 giai đoạn, không giới hạn thời gian cho từng giai đoạn mà căn cứ vào tỷ lệ ký sinh trùng trên dân số vùng sốt rét lưu hành hàng năm.
1. Giai đoạn Phòng chống sốt rét tích cực
Đến khi tỷ lệ ký sinh trùng < 5% so với tổng số ca sốt rét lâm sàng thì chuyển sang giai đoạn tiền loại trừ sốt rét, đơn vị để công nhận tiền loại trừ sốt rét tối thiểu là đơn vị huyện với dân số khoảng 100.000 dân.
2. Giai đoạn Tiền loại trừ sốt rét
Tiếp tục triển khai các biện pháp phòng chống sốt rét tích cực để làm giảm tỷ lệ chết do sốt rét, tỷ lệ ký sinh trùng < 5% so với tổng số ca sốt rét lâm sàng được coi như tương đương với < 5 ký sinh trùng/1.000 dân số vùng sốt rét lưu hành.
 |
Phun tồn lưu hoá chất diệt muỗi lên tường vách. |
Triển khai chính sách thuốc sốt rét bao gồm cả điều trị tiệt căn P.vivax và chống lây lan với P.falciparum, vận động y tế tư nhân tham gia chương trình, các ca ký sinh trùng sốt rét được khẳng định soi kính hiển vi cùng với tiến hành theo dõi và quản lý ca bệnh. Thực hiện các biện pháp phòng chống muỗi truyền bệnh bằng hóa chất, trong đó biện pháp phun tồn lưu được coi là biện pháp chính; khảo sát thăm dò các vùng địa lý, ứng dụng cơ sở dữ liệu thông tin địa lý trong theo dõi, quản lý các ổ bệnh sốt rét, véc tơ truyền bệnh và ca bệnh sốt rét; đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ khả năng chỉ đạo, triển khai và quản lý sốt rét.
Tiến hành chương trình phòng chống sốt rét quay lại lần thứ nhất.
Nguồn thu thập số liệu từ các cơ sở y tế, được khẳng định bằng điều tra thực địa tại thời điểm đỉnh cao của mùa truyền bệnh và ở tất cả các lứa tuổi hiện đang sốt hoặc có sốt trong vòng 24 giờ so với thời điểm điều tra.
Giai đoạn Tiền loại trừ sốt rét thực hiện đến khi nào tỷ lệ ký sinh trùng <1/1.000 dân số vùng sốt rét lưu hành thì chuyển sang giai đoạn Loại trừ sốt rét.
3. Giai đoạn Loại trừ sốt rét
Tiếp tục triển khai các biện pháp phòng chống sốt rét tích cực để làm giảm tỷ lệ chết do sốt rét, giảm tỷ lệ ký sinh trùng nội địa < 1/1.000 dân số vùng sốt rét lưu hành, nghĩa là <100 ca mới ký sinh trùng ở 1 huyện có 100.000 dân.
Triển khai chính sách thuốc mới phù hợp, chẩn đoán và điều trị sốt rét miễn phí cho dân; kiểm tra định kỳ chất lượng chẩn đoán ký sinh trùng sốt rét bằng kính hiển vi, tăng cường phát hiện bệnh chủ động, điều tra các ca bệnh và phân loại ca sốt rét nội địa hay ngoại lai, thường quy kiểm tra ca ký sinh trùng bằng sinh học phân tử, điều tra các ổ bệnh sốt rét và phân loại ổ bệnh. Thực hiện các biện pháp phòng chống muỗi bằng hóa chất để làm giảm khả năng truyền bệnh tại các ổ bệnh và phòng bệnh cho khách du lịch.
 |
Chẩn đoán và điều trị sốt rét miễn phí cho dân ở vùng sốt rét lưu hành. |
Tiến hành chương trình phòng chống sốt rét quay lại lần thứ hai.
Nguồn thu thập số liệu từ các cơ sở y tế và các báo cáo, được khẳng định bằng điều tra thực địa tại thời điểm đỉnh cao của mùa truyền bệnh.
Giai đoạn Loại trừ sốt rét thực hiện đến khi tỷ lệ ký sinh trùng bằng 0, có nghĩa là không phát hiện được ca sốt rét mới nào lan truyền tại địa phương trong năm thì chuyển sang giai đoạn Đề phòng sốt rét quay trở lại.
4. Giai đoạn đề phòng sốt rét quay trở lại
Tăng cường các biện pháp để củng cố và duy trì tỷ lệ ký sinh trùng nội địa bằng 0.
Phòng và quản lý ca sốt rét ngoại lai, nêu cao tính cảnh giác phòng bệnh sốt rét tại các cơ sở y tế, phát hiện đầy đủ các ca sốt rét ngoại lai, lồng ghép chương trình sốt rét với các chương trình y tế khác.
Triển khai phòng chống véc tơ bằng hóa chất tại các vùng có ca sốt rét ngoại lai, nguồn thu thập số liệu từ các cơ sở y tế và các báo cáo, điều tra trường hợp.
Sau 3 năm duy trì được tỷ lệ này thì WHO sẽ kiểm tra công nhận.
Tình hình thực hiện chiến lược Loại trừ sốt rét trên thế giới
Đến năm 2007 trên thế giới có 82 quốc gia đang triển khai Chiến lược Phòng chống sốt rét, 11 quốc gia đang triển khai giai đoạn Tiền loại trừ sốt rét, 10 quốc gia đang triển khai giai đoạn Loại trừ sốt rét, 4 quốc gia đang triển khai giai đoạn Đề phòng sốt rét quay trở lại, 95 quốc gia và vùng lãnh thổ được WHO kiểm tra công nhận không còn bệnh sốt rét.
Khả năng thực hiện Loại trừ sốt rét ở Việt Nam ?
Theo số liệu thống kê sau thời kỳ bùng nổ sốt rét (1991-1992) đến nay tình hình sốt rét ở Việt Nam đã được cải thiện đáng kể, đến năm 2008 số chết sốt rét giảm 95%, số mắc sốt rét giảm trên 85% so với năm 1991, dịch sốt cơ bản được khống chế, bệnh sốt rét đang từng bước được đẩy lùi. Tuy nhiên các thành quả nêu trên chưa thực sự có tính bền vững do màng lưới y tế các tuyến, đặc biệt là tuyến cơ sở chưa kiểm soát được bệnh nhân và người dân chưa có ý thức tự bảo vệ khi sống trong vùng sốt rét, hoặc vào vùng sốt rét. 45% số tỉnh có nguy cơ sốt rét cao hiện nay tập trung ở các tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên, miền Trung, miền Đông Nam bộ, khu IV cũ và một số tỉnh miền núi phía Bắc; 55% số tỉnh còn lại có các chỉ số sốt rét giảm tương đối vững chắc và không có chỉ số lan truyền.
Từ những dẫn liệu nêu trên có thể thấy thực trạng sốt rét ở nước ta hình thành hai thái cực (i) vùng sốt rét có nguy cơ cao, sự giảm sốt rét thiếu tính bền vững, còn lan truyền sốt rét tại chỗ và nguy cơ xảy dịch cao; (ii) vùng sốt rét giảm bền vững nhiều năm, không còn lan truyền sốt rét tại chỗ và chỉ có sốt rét ngoại lai. Nếu đối chiếu với tiêu chuẩn Loại trừ sốt rét của WHO thì ở nước ta cùng lúc có thể tồn tại hai loại hình chiến lược: phòng chống sốt rét ở các vùng có nguy cơ sốt rét cao và loại trừ sốt rét ở các vùng sốt rét giảm bền vững.
Vùng nguy cơ sốt rét cao cần tiếp tục Chiến lược phòng chống sốt rét
Vùng có nguy cơ sốt rét cao chiếm khoảng 45% số tỉnh thành trong cả nước, đặc biệt là các tỉnh thuộc khu vực miền Trung-Tây Nguyên và miền Đông Nam bộ; có đặc điểm tự nhiên thuận lợi cho sốt rét phát triển (rừng chiếm 75% diện tích, khí hậu nóng ẩm quanh năm), gần 50% dân số sống trong vùng sốt rét lưu hành; còn tồn tại mầm bệnh (ký sinh trùng sốt rét) > 5%, đặc biệt là chủng P.falciparum (chủng có khả năng gây sốt rét ác tính và đa kháng thuốc) chiếm 85%; muỗi truyền bệnh sốt rét chính (An.minimus, An.dirus) vẫn hiện diện ở hầu khắp các vùng nên chỉ số lan truyền sốt rét tự nhiên cao; nhiều khó khăn kỹ thuật (ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc chống sốt rét, muỗi tránh hóa chất diệt côn trùng), màng lưới y tế cơ sở (huyện, xã, thôn bản) chưa kiểm soát được bệnh nhân sốt rét; các nhóm dân di biến động vào vùng sốt rét lớn (dân đi rừng, ngủ rẫy, dân di cư tự do, giao lưu biên giới) ngoài tầm kiểm soát của màng lưới y tế và chưa có biện pháp phòng chống sốt rét khả thi cho những nhóm dân này; đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa chưa có ý thức tự phòng chống sốt rét.
 |
Các nhóm dân di biến động vào vùng sốt rét lớn (dân đi rừng, ngủ rẫy, dân di cư tự do, giao lưu biên giới) ngoài tầm kiểm soát của màng lưới y tế và chưa có biện pháp phòng chống sốt rét khả thi cho những nhóm dân này. |
Mặc dù tình hình sốt rét ở các khu vực này có chiều hướng giảm thấp trong một số năm gần đây nhưng không mang tính bền vững, số mắc sốt rét cũng như số chết sốt rét của cả nước hầu như đều tập trung ở khu vực này và dịch sốt rét có khả năng bùng phát bất cứ lúc nào.
Từ những đặc thù sốt rét nêu trên, những vùng này cần tiếp tục duy trì Chiến lược phòng chống sốt rét và tăng nguồn đầu tư, đồng thời chú trọng nghiên cứu các biện pháp khả thi phòng chống sốt rét cho các nhóm dân di biến động cùng với phát triển các yếu tố bền vững khác.
Vùng sốt rét giảm tương đối vững chắc có thể chuyển sang giai đoạn Tiền Loại trừ sốt rét
Vùng có tình hình sốt rét giảm tương đối vững chắc và không còn sự lan truyền tự nhiên chiếm khoảng 55% số tỉnh thành còn lại, tuy nhiên khó khăn lớn nhất hiện nay ở các tỉnh này là khả năng kiểm soát sốt rét ngoại lai của các tuyến y tế, vì một số ca tử vong sốt rét xảy ra ở các tỉnh này trong những năm qua là do bệnh nhân nhiễm bệnh từ nơi khác về nhưng không được các tuyến y tế phát hiện và điều trị kịp thời.
Những vùng này có thể chuyển sang giai đoạn Tiền loại trừ sốt rét và chú trọng kiểm soát chặt chẽ các ca bệnh ngoại lai đồng thời với phát triển các yếu tố bền vững khác.
Chiến lược Phòng chống sốt rét và Loại trừ sốt rét ở Việt Nam
Từ thực trạng sốt rét ở Việt Nam và các tiêu chuẩn Loại trừ sốt rét của WHO, Chiến lược phòng chống sốt rét ở nước ta có thể chuyển sang Chiến lược phòng chống sốt rét & loại trừ sốt rét, trong đó phòng chống sốt rét áp dụng ở các vùng có nguy cơ sốt rét cao và loại trừ sốt rét áp dụng cho những vùng sốt rét còn lại. Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tiễn ở nước ta, đồng thời đáp ứng được yêu cầu của WHO trong giai đoạn 2010-2015 với ít nhất 50% số tỉnh/thành phố chuyển sang giai đoạn tiền loại trừ sốt rét.