Hoạt động thuốc giả như là bệnh cơ hội
Cùng với xu hướng hội nhập của toàn cầu, hầu hết tất cả các ngành nghề kinh doanh, trong đó có dược phẩm đang cố gắng để thay đổi mẫu mã và chất lượng sản phẩm của mình; Tuy nhiên, bên cạnh một số mặt hàng chất lượng cao lại không tránh khỏi mặt hàng kém chất lượng và thậm chí làm giả xâm nhập vào thị trường, ảnh hưởng đến sức khỏe và đe dọa mạng sống con người. Thuốc giả, thuốc kém chất lượng và sự phân phối của chúng đang ngày càng trở nên phổ biến và phạm vi rộng, nhất là trong thời buổi hàng rào thương mại đang rộng mở, đến nỗi lĩnh vực thương mại đạt đến đỉnh trao đổi chỉ qua mạng internet.
Thật vậy, thuốc giả đang chầm chậm nổi lên như một “bệnh cơ hội”, hoạt động như một quy luật tất yếu của thế giới, đe dọa người tiêu dùng và cả những “ông chủ” hãng dược đã vốn mang thương hiệu nổi tiếng cho công ty riêng mình (ví như các hãng dược Sanofi-Synthelabo, Glaxo Smithkline, Bayer,…). Theo ước tính hàng năm, trên thế giới thị trường thuốc giả toàn cầu ở một vài vùng đạt đến 30-42 tỷ USD/năm, chiếm 7-10% doanh thu của nền công nghiệp dược toàn cầu. Kết quả một vài nghiên cứu về thị trường còn cảnh báo hơn thế nữa,thậm chí vài quốc gia vượt quá 40% về thuốc giả. Thực trạng đó đã đưa người tiêu dùng vào nguy cơ đe dọa mạng sống và các hãng dược sẽ mất thương hiệu. Do vậy, có thể hiểu rằng nhóm người buôn thuốc giả đó hoạt động như một “tổ chức tội phạm”.
Quả thật, dược phẩm là một đích ngắm hấp dẫn để tạo giả, bởi lẽ chúng có chi phí và giá thành cao nếu mang lại hiệu quả rất lớn về mặt cải thiện sức khỏe con người; đáng quan tâm nhất hiện nay, món lợi nhuận khổng lồ đến nhiều triệu USD từ thuốc điều trị ung thư hoặc HIV nếu bọn tội phạm ra tay làm giả (lưu ý rằng một liệu trình điều trị HIV bằng Serostim cho bệnh nhân HIV/AIDS có chi phí khoảng 21.000USD). Thuốc giả không chỉ liên quan đến chi phí mà còn làm ảnh hưởng đến quy trình sản xuất thuốc tốt (GMP_Good Manufacturing Practice) và chất lượng sản phẩm. Đối với thuốc giả, chi phí các thành phần thuốc rất thấp, hoặc thậm chí thành phần hoạt chất là hoàn toàn không có và chỉ thay thế bằng bột talc, bột mì, bột bắp hoặc dung dịch muối sinh lý. Thuốc giả còn tìm thấy dưới dạng copy sản phẩm, đóng gói, in ấn và dán nhãn như thuốc thật. Nếu vậy, người tiêu dùng hoặc ngay cả người chuyên nghề cũng khó nhận ra(nếu chỉ quan sát bằng cảm quan bề ngoài) đâu là thật - đâu là giả!
Một vài thông tin về thuốc giả và kém chất lượng
-Bất kỳ một ai, trong cuộc đời cũng có một hai lần bị sốt, nhất là vùng nhiệt đơí và cận nhiệt đới thì sốt là gần như thường quy. Thế nhưng, một sự kiện đáng sợ đe dọa mạng sống con người-đó là thuốc Paracetamol được làm với dung môi công nghiệp và một loạt các thuốc và chế phẩm sinh học khác như vaccine não mô cầu được làm bằng nước máy sinh hoạt, kháng sinh ampicilline chỉ có thành phần nghệ, thuốc thánh thai chỉ là bột mì trắng.
-Một nghiên cứu trên phạm vi toàn quốc tiến hành ở Cambodia (1999) cho biết 60% trong tổng số 133 người bán thuốc có ý định hoặc vô tình bán các thuốc sốt rét loại Mefloquine hoặc có thành phần hoạt chất rất thấp hoặc không có hoạt chất.
-Theo hãng tin AFP cho biết thuốc giả chiếm 1-50% thị trường dược phẩm trên thế giới, tỷ lệ này thay đổi tùy theo từng nước và từng khu vực. Theo một nhóm làm việc cho Tổ chức Y tế thế giới (WHO) nhận định thuốc giả là mối đe dọa lớn cho sức khỏe con người, nhất là các quốc gia đang phát triển;
-Nhà nghiên cứu Paul Newton (Đại học Oxford, Anh) và các chuyên gia y học nhiệt đới cho biết chỉ trong 5-15% trong số 191 nước thành viên của WHO có báo cáo về tình hình thuốc giả. Trong tạp chí y học nổi tiếng The Lancet cho biết thuốc giả chiếm đến 13-30% lượng thuốc trên thị trường Ấn Độ; còn theo Cơ quan y tế Mỹ, lượng thuốc giả chiếm 10% thị trường dược phẩm thế giới. Nhóm nghiên cứu cảnh báo, nếu chỉ chiếm 1% thị trường, thuốc giả cũng khiến hàng triệu người bị ảnh hưởng. Đồng thời, nhóm cũng đề nghị một chương trình hành động toàn cầu, liên kết các tổ chức chính phủ, công nghiệp dược phẩm và toàn xã hội, cùng với WHO để giúp đỡ khẩn cấp các nứớc trên thế giới đang thiếu khả năng kiểm soát việc sản xuất thuốc điều trị giả, đề nghị cung cấp các thuốc điều trị đặc hiệu với giá rẻ nhằm loại trừ nạn sản xuất thuốc giả và phạt nặng các trường hợp làm thuốc giả cũng như báo cáo các vụ việc cho WHO;
-Một nghiên cứu khác được tiến hành tại 5 quốc gia Đông Nam Á với tổng số 104 quầy hoặc đại lý dược chỉ ra 38% thuốc sốt rét artesunate bán trên thị trường là thuốc giả. Một vài trường hợp đóng gói thuốc giả tương tự như thuốc thật, thậm chí có cả tem “hologram” trên bao bì (The Lancet, 2000), hoặc thậm chí thuốc sốt rét loại phối hợp có thành phần Artemisinine (ACTs_Artemisinine Based Therapy combinations) hiện đang sử dụng hơn 70 quốc gia trên thế giới có sốt rét kháng thuốc,…cũng bị làm giả (phát hiện tại Papua New Guinea,2007);
-Gần một 1/2 trong số 581 mẫu thuốc phân tích từ các pharmacy ởquốc gia Nigeria không chứa thành phần hoạt chất hoặc liều hoạt chất rất thấp không đủ điều trị (theo Lancet, 2001). Một kết quả khác công bố vào tháng 4/2002 của một điều tra tiến hành bởi Tổ chức Coalition for Intellectual Property Rights (CIPR) cho Hội các nhà sản xuất dược phẩm quốc tế (Association of International Pharmaceutical Manufacturers (AIPM)kết luận 12% thuốc được bán tại Nga là thuốc giả hoặc thuốc kém chất lượng;
-Ngay cả quốc gia mà có Luật về dược rất nghiêm khắc cũng đang dấy lên một nạn dịch thuốc giả như Mỹ. Đáng quan tâm là tình hình mua bán dược phẩm qua mạng internet tạo ra một hệ thống phân phối toàn cầu đã khiến cho bộ phận kiểm soát thông thương dược phẩm bị tê liệt. Hàng rào thuế quan và FDA của Mỹ kiểm soát hơn 2 triệu mặt hàng thuốc tại Mỹ hàng năm qua đường hàng không, họ nói rằng họ không kiểm tra nổi số lượng nhập vào mà chỉ dựa vào một vài thông tin chính từ hệ thống chuyển thuốc quốc tế qua các trung tâm kiểm soát tại các sân bay Dullus và Los Angeles, kết quả cho thấy 80-90% thuốc vào Mỹ qua đường hàng không chịu luật của Mỹ.
-Suốt năm 2001, các nhà điều tra cho thấy thuốc điều trị HIV/AIDS loại Serono (Serostim), Amgen (Neupogin) và Genetech (Neutropin AQ)đều có phiên bản thuốc giả xuất hiện tại các quầy dược và một số trường hợp thuốc giả này đã đến tay người tiêu dùng, báo động một điềm xấu cho Mỹ về 6 loại thuốc giả đã được FDA Mỹ đưa vào diện có vấn đề đối với một số sản phẩm từ hãng dược phẩm danh tiếng như Bayer (có sản phẩm Gamimmune), Eli Lilly (Zyprexa), Amgen (Epogen), GlaxoSmithKline (Combivir), Serono (Serostim) và Ortho Biotech Products (Procrit). Tình trạng này đã đánh dấu một bước tiến của bọn làm giả thuốc đe dọa tính mạng cho cộng đồng và thiệt hại kinh tế công nghiệp dược phẩm, đồng thời gia tăng trách nhiệm thuộc về ai trong việc ngăn chặn thuốc giả khi mạng lưới luân chuyển như vậy? Một trong những nguyên nhân gây tăng tình hình thuốc giả gần đây ở Mỹ là một cuộc phát đơn kiện cho thuốc giả Serono ở California. (Serono đã có dấu hiệu làm giả khâu sản suất, đóng gói, dán nhãn, lưu kho, kiểm tra, phân phối hoặc buôn bán), tất cả hình thức đó đều được xem thuốc giả và có các tên gọi khác nhau (misbranded, adulterated, imitation drug). Tuy nhiên, đến nay tòa vẫn chưa xử lý trường hợp này vì chưa biết việc xuất hiện thuốc giả từ khâu nào?
-Liên đới hậu “Serono”, tất cả bệnh nhân đến nhân viên y tế, dược sĩ, nhà phân phối, nhà sản xuất, đến các đại diện pháp luật đòi hỏi phải cảnh giác cao nhất với bất kỳ sản phẩm nào. Tuy nhiên, sự thận trọng này sẽ khiến cho mọi người lơ là với các thuốc làm giả rẻ tiền, Do đó, phải có chương trình tập huấn thị sát đối với tất cả thuốc thật và giả thường xuyên. Việc làm này sẽ mang lại lợi ích cho các nhà dược phẩm trong việc bảo vệ thương hiệu cho hãng và cho từng sản phẩm.
Chiến lược phát triển và bảo vệ thương hiệu
Bản thân bạn đã bao giờ có một chiến lược bảo vệ thương hiệu cho bạn chưa? Không ai muốn nhìn thấy thương hiệu và sản phẩm của mình bị giả trên tay người khách hàng, điều này giải thích tại sao các chiến dịch bảo vệ sản phẩm đặc hiệu đòi hỏi phải được tiên phong và tự hào về sản phẩm ấy.
Thiết kế và cải tiến một chiến lược hiệu quả là một hoạt động bao gồm nhiều bước để làm thế nào quản lý tốt nhất chống lại thuốc giả, báo cáo trực tiếp với ban chuyên trách. Sự phối hợp đa phương như thế từ trong ra ngoài là điều cần thiết mà bất kỳ công ty nào cũng cần đến. Các nội dung phát triển trong công ty nên liên quan đến pháp luật, nhân quyền, tính bảo mật, phát triển sản phẩm, thiết kế mẫu mã, sản xuất và đảm bảo chất lượng, đủ tài chính và thiết lập mối quan hệ với công chúng. Từ bên ngoài công ty, nó liên quan đến bảo mật ở người cung ứng trong công ty nên nhất thiết phải có ban thanh tra và kiểm tra thích hợp. Điều quan trọng là các bậc tiền nhiệm phải có trách nhiệm can thiệp về chiến lược bảo vệ thương hiệu, nên các hoạt động này phải được nghiên cứu và đầu tư thích đáng.
Một khi có sự hợp tác chặt chẽ của các bên thì chiến lược trở nên bền vững. Một ý tưởng ngần ngại hoặc “nói nước đôi” sẽ thiệt hại biết bao nhiêu. Tuy nhiên, trước khi tiến hành một biện pháp nào để áp dụng, phải đánh giá các nguy cơ một cách chính xác về các khâu. Khi đội ngũ này cùng cơ quan chức nănglàm thì nên suy nghĩ thuốc giả hay sản phẩm khác làm thế nào mà ra đời nhanh đến vậy - phải chăng một trong các thành viên là kẻ nội gián chăng ? Thông qua các bước như vậy, thì chiến lược mới phù hợp các vấn đề đặt ra [1] Tại sao cần phải bảo mật sản phẩm? [2] Các phương tiện bảo mật phải được sử dụng như thế nào? [3] Làm thế nào để đưa được sản phẩm vào thị trường? [4] Khâu nào sẽ được kiểm tra? [5] Ai sẽ chịu trách nhiệm giám sát? [6] Sản phẩm như thế nào sẽ nghi ngờ? Nếu trả lời được các câu hỏi trên sẽ vạch ra được chiến lược đúng, bao gồm: Chủ thương hiệu phải kiểm tra các yếu tố như cấu trúc giá cả toàn cầu (global pricing structures) để giảm chi phí phân phối sản phẩm, thiết kế mẫu mã, bao bì, ngôn ngữ đóng lên trên để làm giảm áp lực khi phân bố hàng ra thị trường), các con dấu niêm giả mạo và các các nút niêm phong để giúp giảm giả mạo và mặt hàng thứ ba xuất hiện, sự thông tin nhau các thông tin sản phẩm để có thể vạch ra nhanh chóng được đâu là thật.
Các đồng sự về bảo mật có thể phối hợp về công nghệ để nâng cao hiệu quả thanh kiểm tra. Cùng nhau bảo vệ thiết kế và nhận định thương hiệu mình và bảo mật để đưa sản phẩm vào thị trường với những đặc điểm riêng mà không cần bảo vệ. Giám sát, hoạt động nâng cao hướng dẫn thông qua sự phối hợp của thanh tra tư nhân, phòng nhân sự về bảo vệ thương hiệu, đại diện cơ quan thúc đẩy quan hệ công chúng, các dược sĩ, nhân viên y tế, nhà phân phối và khách hàng; cộng sự đóng một vai trò quan trọng trong việc phối hợp giám sát và kiểm tra, chỉ bằng cách thiết lập một chương trình liên tục về giám sát và thanh trừng thì thương hiệu riêng cho một chiến lược mới hoàn hảo, đảm bảo một sản phẩm thuốc giả bị ngăn chặn trước khi đến tay bệnh nhân.
Sự quản bá thương hiệu và bảo vệ thương hiệu rất cần thiết. Việc công chúng hóa để truyền thông là một công cụ cực mạnh để loại bỏ thuốc giả và tạo niềm tin về chất lượng thuốc cho người tiêu dùng.
Những kỹ thuật bảo mật sản phẩm
Có rất nhiều phương thức và kỹ thuật để bảo mật sản phẩm của bạn có sẵn cho thương hiệu của bạn trong công tác đóng gói sản phẩm.Cũng có nhiều ý kiến bảo mật có thể áp dụng vào trong liều lượng đóng gói. Giải pháp tốt nhất là giải quyết từng bước trong dây chuyền công nghệ sản xuất để trở thành một chương trình mà không có khuyết tật nào. Một bộ phận can thiệp trong dây chuyền bảo mật bao gồm các thông báo cần mở, cần đóng và cái gì chưa nên công bố.
Truy nguồn gốc, tiếp cận mô hình tập trung thông tin bảo mật sản phẩm
Có lẽ một trong những bước tiếp cận để bảo mật sản phẩm của mình tốt nhất là tiến trình quản lý dữ liệu tập trung, điều này cung cấp cho NSX khả năng quản lý từng bộ phận và từng khâu để dây chuyền sản xuất hoàn hảo hơn. Hầu hết các NSX phải chắc chắn rằng mỗi thành tố của mình đúng nơi đúng chỗ, trong một khung logic. Chẳng hạn, hệ thống thông tin sẽ tồn tại trong khâu quản lý các phát minh sáng chế, dữ liệu khách hàng và vân vân. Đó là những gì mà con đường đơn giản nhất vạch ra để các NSX khỏi phải bán phát minh ra bên ngoài. Với cơ chế thị trường và cơ sở hạ tầng mở, việc quản lý dữ liệu phần mềm là công cụ hỗ trợ mã hóa, đóng số và lưu trữ, nên đến khi phân phối, không bị ảnh hưởng.
Khả năng nhập các dữ liệu từ NSX vào hệ thống thông tin có thể bị lấy mất qua đường dẫn truyền trực tiếp máy in. Truyền thông tin với phần cứng điều khiển các phát minh và phần mềm máy in và máy quét, hệ thống ảnh và hệ thu thập số liệu qua máy tính xách tay. Máy in laser có thể cung cấp một phương tiện đơn giản, ứng dụng được trong các thông tin cho sản phẩm cá nhân như chai, lọ, vỉ thuốc và thường có thể thêm vào đường dẫn sản xuất. Thông tin ứng dụng cho sản phẩm có thể thiết lập theo mã alphanumeric code, hoặc đường tuyến tính, hoặc biểu đồ cột 2 biến số. Thông tinsử dụng có thể một dạng bảo mật mở hoặc một dạng bảo mật đóng. Bằng cách sử dụng công nghệ, NSX có thể mã hóa tất cả các thông tin ở dạng đóng. Để thành lập hệ thống tra cứu, mỗi cá nhân một đơn vị phải chịu trách nhiệm một phần trong các khâu phát minh, lưu kho, vận chuyển và quy trình phân phối (phân quyền ngay từ đầu trong mạng LAN). Đây là mối quan hệ ở từng cấp độ, quy trình đóng gói, số liệu được lưu vào trong cơ sở dữ liệu cấu trúc chính, điển hình là sơ đồ minh họa hệ thống sắp xếp cho NSX các sản phẩm đạt chất lượng EU vào trong các quốc gia Tây Âu. Dữ liệu cung cấp ngay thông tin về sản phẩm không đúng.
Việc tạo ra một hệ thống quản lý dữ liệu tập trung sẽ cung cấp NSX các sự lựa chọn cho công tác quản lý và khống chế trong dây chuyền sản xuất. Sản phẩm nhanh chóng được kiểm tra từ nhiều nơi và bát cứ lúc nào thông qua tru cập internet mạng không dây hay mạng LAN. Thông tin này sẽ là công cụ hữu ích cho các NSX bảo tồn cương vị quản lý mọi sản phẩm khi phân phối nó. Với phạm vi truy cập thông tin thích hợp này, những giám sát viên có thể xác định nhanh chóng vị trí và quản lý sản phẩm trên xưởng, những nhà phân phối và dược sĩ có thể xác địnhrằng sản phẩm đi vào chính đáng, hợp pháp và gắn biển hiệu, số thùng carton cho lô hàng đó đến từ nguồn hợp pháp. Bây giờ, các NSX cũng có quyền lựa chọn nhà phân phối và ngay cả dược sĩ đào tạo để thiết kế pallet, case hoặc thông tin cho sản phẩm vào trong hệ thống quản lý thông tin trung tâm. Với sự tiếp cận của NSX như thế có thể thiết kế một chiến lược bảo vệ thương hiệu trong dây chuyền phân phối trước khi sản phẩm đến tay người tiêu dùng.
Nói tóm lại, thuốc giả và các thuốc đi lệch hướng là một vấn đề nghiêm trọng đe dọa tính mạng bệnh nhân và nền công nghiệp dược. Các NSX có chức năng và nhiệm vụ thực hiện từng bước cho hợp lý để bảo vệ sản phẩm và khách hàng khỏi hậu quả do thuốc giả gây nên. Bằng cách cùng nhau mang đến những kỹ thuật bảo mật phù hợp, công cụ quản lý dây chuyền cung cấp và phân phối và hệ thống quản lý thông tin Internet cho phép, các ông chủ mang thương hiệu riêng có thể làm các viên thuốc đặc biệt để tránh làm giả. Thiết kế và xây dựng những chiến lược bảo vệ thương hiệu pre-emptive để xem như một phần dính dán đến sự phát triển của thuốc và xem hiệu quả điều trị cao hơn giá cả.
Đã đến lúc phải hành động!
Gần đây các thông tin quốc tế về thuốc giả đã mô tả nhiều sự thật đáng sợ. Một trùm lừa đảo đã làm thuốc giả gồm có neomycine dạng nhỏ giọt cho nhãn khoa và vaccine phòng bệnh viêm não do não mô cầu được làm bằng nước máy, paracetamol syrup làm bằng dung môi công nghiệp, ampicilline gồm có bột nghệ, thuốc ngừa thai làm bằng bột mì; thuốc sốt rét, kháng sinh và huyết thanh kháng nọc rắn không chứa hoạt chất.
Một điều tra pharmacie ở Philippine, 8% thuốc được bày bán điều trị là thuốc giả. Một nghiên cứu toàn quốc ở Cambodia năm 1999 cho thấy 60% trong tổn số 133 ngừời buôn bán thuốc như thuốc mefloquine không chứa hoạt chất và giá rẻ hơn cả Fansidar (sulffadoxine-pyrimethamine), thu được từ kho mà đáng lẽ ra các thuốc này nên hủy. Trong một điều tra khác gần đây, 38% số thuốc được bán tại 5 quốc gia chính ở Đông Nam Á như thuốc sốt rét artesunate cũng bị làm giả. Đặc tính thuốc artesunate có giá tương đối cao, nênartesunate rất hấp dẫn để làm giả, chúng chỉ cho một ít chất đắng của chloroquine vào thuốc, thiết kế mẫu mã giống hệt artesunate, thậm chí có cả tem phản quang ba màu trên bao bì. Một vài thuốc giả chứa các thành phần thuốc có hại, không chỉ là viên placebo giả (giả của giả - bogus placebos).
Sự dối trá, lừa gạt khốn nạn này đã được báo cáo trong một vài bài báo địa phương gần đây. Một bài báo y khoa đăng tải về tình hình lưu hành bệnh, tác động của y tế công cộng hoặc các biện pháp đối phó. Các bằng chứng kết luận, như thể quy tội cho tỷ lệ tử vong và bệnh tật tăng từ tội phạm thương mại, đặc biệt các quốc gia đang phát triển. Chúng cũng làm tăng tình hình kháng thuốc không đúng nghĩa, theo cái gọi là “thất bại” về điều trị do thuốc không hiệu quả. Chẳng hạn, tình hình kháng thuốc artesunate ở Cambodia do sử dụng thuốc giả lan tràn. Tổ chức y tế thế giới (WHO) ước tính khoảng 10% doanh thu của dược là thuốc giả. Trước đây, các công ty dược có xu hướng tránh các vấn đề nhạy cảm “Damaging public confidence in medicines”. Một vài quốc gia được cảnh báokhẩn cấp về tình trạng này, song đã bị phớt lờ.
Trong việc đối đầu với tử vong do tội ác thương mại mang lại, có một ít tội ác do tình hình trên gây ra. Sự xuất hiện các thuốc điều trị ung thư ở USA dẫn đến hành động lên án tại địa phương. Nhiều nhu cầu cần thiết đòi hỏi phải can thiệp, nhất là các nước thứ 3. Hướng dẫn đưa ra, nhưng hầu hết các quốc gia đang phát triển không có đủ tài chính để thiết lập điều này. Ngược lại, hầu hết các phương thức kiểm tra thuốc giả đều miễn phí. Hy vọng rằng diến đàn toàn cầu về thuốc giả được tổ chức bởi WHO sẽ cải thiện phần nào.
Với sự hỗ trợ về kỹ thuật, tài chính và cơ sở hạ tầng, các tổ chức phi chính phủ đòi hỏi các quốc gia cải thiện để bảo vệ thương hiệu thuốc cho họ. Gồm có hỗ trợ các điều luật về thuốc; cung cấp thị trường, phiên giải và rẻ tiền; cùng phối hợp giám sát quốc tế về thuốc giả và thuốc kém chất lượng, nâng cao chất lượng thuốc thiết yếu cho bệnh nhân, nhân viên y tế và dược sĩ.Tất cả các biện pháp làm giảm lợi nhuận do thuốc giả, như là giảm giá cả và gia tăng tình hình thuốc thật, đảm bảo chất lượng thuốc, sẽ làm giảm tình trạng thuốc giả. Hành động của lực lượng cảnh sát quốc tế chống lại các nhà máy và mạng lưới phân phối, đòi hỏi một thế lực tương tự như là đội chống ma túy và các thuốc gây nghiện thì moiứ mong có hiệu lực.
Nhận định thông tin về thuốc giả và nhu cầu phân phối đòi hỏi một sự chia sẻ và liên kết chặt chẽ của từng quốc gia, luật quốc gia và chính quyền, khách hàng và cảnh sát, công ty dược, tổ chức phi chính phủ. Tuy nhiên, hầu hết ở các nước nhiệt đới, chính quyền chỉ kiểm tra một số thuốc mà người bệnh và thân nhân của họ mua về, còn thuốc khác- thậm chí có thể gây tử vong thì dường như phớt lờ! Hiệu quả của từng chiến dịch khác nhau cho phép bệnh nhân từ chối thuốc giả. Một chiến dịch đảm bảo chất lượng thuốc phải được tiến hành, thuốc bị đóng gói lại có thể giúp bệnh nhân nhận ra một cách dễ dàng. Hai chiến lược đặc biệt nhằm cải thiện chất lượng thuốc và lên tiếng cảnh báo công chúng để mô tả một số hình thức thuốc giả là rất hiệu quả và cần làm ở Cambodia, những nơi mà các poster và chiến dịch phát thanh radio giáo dục bệnh nhân để phân biệt thuốc giả và sự quay vòng thuốc giả như thế nào? Các kỹ thuật tinh vi khó sao chép được như hình logo tem phản quang trên hộp thuốc, có thể sử dụng cho thương hiệu sản phẩm thật, nhưng chúng thường đắt tiền. Các hình thức cần kỹ thuật đơn giản, rẻ tiền để nhận định thuốc giả nên tiến hành. Chẳng hạn, thử nghiệm so màu (simple colorimetric assays) triển khai cho thuốc artemisinine thì dùng để kiểm tra viên artesunate giả khá tốt. Bộ (kit) kiểm tra thuốc giả GPHF MiniLab của công ty German Pharma Health Fund, Đức dùng phân tích các thành phần của thuốc trong một giới hạn và giá thành rẻ, nhất là các thuốc sốt rét thiết yếu và nhiều loại thuốc giả mang tính thương mại, có khả năng liên kết với nhau thành tội ác, gây thiệt hại kinh tế, thương mại, liên kết cả bọn công ty dược không theo luật pháp chovà bao tiền cho cả lực lượng chức năng. Nếu sự phối hợp chặt chẽ các thế lực ấy sẽ giúp loại trừ vấn đề này.