Ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11-2009 không chỉ là dịp để chúng ta tôn vinh công lao của những thế hệ người thầy đã đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước mà còn là dịp để các nhà quản lý suy ngẫm lại nguyên nhân nào dẫn đến sự thiếu hụt nguồn nhân lực y tế trầm trọng trong các cơ sở y tế nhà nước cũng như hệ thống y tế dự phòng và công tác đào tạo nguồn nhân lực cần đi đôi với chính sách khuyến khích và thu hút cán bộ tại các cơ sở y tế.
Thực trạng thiếu hụt nguồn nhân lực y tế
Ít nhất trong vòng 5 năm gần đây, sự thiếu hụt nguồn nhân lực y tế chủ yếu là các bác sĩ và dược sĩ đã trở thành một thực trạng nóng bỏng đối với các cơ sở y tế công lập từ địa phương đến trung ương, nhất là hệ y tế dự phòng. Nếu thống kê các bậc đào tạo đại học và sau đại học của tất cả các trường đại học y-dược cũng như các viện nghiên cứu chuyên ngành trong cả nước thì trong 5 năm qua có đến hàng chục ngàn bác sĩ, dược sĩ đại học, sau đại học (chuyên khoa I, chuyên khoa II, thạc sĩ, tiến sĩ) ra trường nhưng vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu cán bộ của các cơ sở y tế. Sự thiếu hụt này không chỉ xảy ra ở một địa phương mà ở rất nhiều địa phương, thậm chí cả các thành phố lớn, có cơ sở y tế trong 5 năm không tiếp nhận được thêm một bác sĩ nào, trong khi các bác sĩ, dược sĩ đang công tác lại tìm đường đến một cơ sở y tế khác. Nguồn nhân lực y tế chung đã khó khăn như vậy thì nguồn nhân lực y tế dự phòng lại càng khó khăn hơn vì chắc chắn rằng chẳng có bác sĩ, dược sĩ nào mới ra trường hiện nay lại chấp nhận xuống lăn lộn với công tác phòng chống dịch bệnh và chăm sóc sức khỏe ở cộng đồng. Qua tìm hiểu thì điểm đến của hầu hết các bác sĩ và dược sĩ mới ra trường là các cơ sở y tế tư nhân, còn nguyện vọng của họ thì cũng hết sức đơn giản vì “y tế tư nhân trả lương cao hơn y tế nhà nước”; còn với các bác sĩ và dược sĩ đã có quá trình công tác ở một cơ sở y tế công lập cũng có lý do riêng “cuộc sống gia đình khó khăn, lương nhà nước không đáp ứng nhu cầu nên cần phải tìm đến nơi có chế độ đãi ngộ cao hơn”. Những quan điểm này làm cho thế hệ thầy thuốc chúng tôi cũng như rất nhiều thế hệ thầy thuốc trước kia không khỏi chạnh lòng vì đã không hề tính toán công sức của mình để cống hiến cho khoa học và phục vụ nhân dân vô điều kiện ở bất cứ cơ sở y tế nào; tuy nhiên chúng ta cũng phải chấp nhận thực tế “dòng chảy nhân lực y tế” của cơ chế thị trường, nếu không có giải pháp quản lý nguồn nhân lực phù hợp và cơ chế phù hợp chắc chắn rằng áp lực của “dòng chảy” này ngày càng nan giải.
|
Học sinh trường Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn trong đợt thực tế tốt nghiệp |
Trước thực trạng thiếu hụt nguồn nhân lực y tế phổ biến như vậy hàng loạt câu hỏi được đặt ra là tại sao hàng chục ngàn người có trình độ đại học, sau đại học y-dược được đào tạo mà các cơ sở y tế vẫn thiếu nhân lực nghiêm trọng ? tại sao cán bộ y tế có năng lực ở khu vực y tế công lập lại đổ sang khu vực y tế tư nhân ? tại sao hệ thống y tế công lập lại không thể cạnh tranh được với hệ thống y tế tư nhân ? với thực trạng như những năm vừa qua liệu việc tăng cường đào tạo nguồn nhân lực y tế có thể san lấp được lỗ hổng thiếu hụt trầm trọng này ở các cơ sở y tế công lập cũng như hệ y tế dự phòng ? Để có câu trả lời xác đáng trước hết chúng ta phải thừa nhận y tế nhà nước hay y tế tư nhân thì mục đích cuối cùng cũng là để phục vụ người bệnh và người bệnh sẵn sàng tìm đến cơ sở y tế nào có dịch vụ chăm sóc sức khỏe cao hơn và có tinh thần thái độ phục vụ tốt hơn; chúng ta cũng không thể phủ nhận một thực tế hiện nay là rất nhiều cơ sở y tế tư nhân đang không ngừng phát triển ở quy mô lớn (bệnh viện hoặc trung tâm khám chữa bệnh) được trang bị y tế hiện đại và thu hút được nguồn nhân lực y tế có trình độ cao với mức lương tối thiểu trên dưới 10 triệu đồng/một tháng, trong khi hệ thống y tế công lập được nhà nước đầu tư hoàn toàn nhưng chất lượng dịch vụ y tế không cao hơn và lương chi trả cho cán bộ y tế chỉ từ 2 triệu đến 5 triệu đồng/một tháng. Như vậy câu hỏi ngược lại là tại sao cơ sở y tế tự nhân phải tự đầu tư hoàn toàn từ cơ sở hạ tầng đến trang thiết bị y tế, phải chịu chi trả mọi khoản thuế dịch vụ lại có doanh thu cao hơn cơ sở y tế nhà nước và có sức hút lớn với nguồn nhân lực y tế có trình độ cao ? Phải chăng cơ sở y tế nhà nước còn hạn chế về mặt quản lý, điều hành hay chưa có cơ chế phù hợp để duy trì sự hoạt động trong guồng quay khắc nghiệt của cơ chế thị trường ? Những câu hỏi cũng như những bất cập này đã được Chính phủ, Bộ Y tế và các nhà quản lý quan tâm tìm giải pháp khắc phục.
 |
Học sinh trường Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn trong đợt thực tế tốt nghiệp |
Đào tạo nguồn nhân lực y tế và y tế dự phòng
Trong thời đại phát triển công nghiệp hiện nay mô hình bệnh tật đang có sự dịch chuyển tập trung vào các bệnh tim mạch, ung bướu, xương khớp, đái tháo đường, dị ứng...; hệ thống y tế dự phòng ở nước ta cũng như các nước trên thế giới đang phải đối mặt với các thách thức về các bệnh dịch tối nguy hiểm hoặc các bệnh mới nổi như bò điên, Ebola, SARS, HIV/AIDS, cúm A (H5N1, H1N1), sán lá gan lớn, sán máng, bệnh tay-chân-miệng… và một số bệnh dịch có nguy cơ quay trở lại như sốt rét, sốt xuất huyết, lao, phong… đang là mối đe dọa đến tính mạng cũng như sức khỏe cộng đồng. Để đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe của nhân dân cũng như phòng chống dịch bệnh ở cộng đồng cần phải có nguồn nhân lực y tế đủ mạnh ở các cơ sở y tế công lập và hệ thống y tế dự phòng. Theo đánh giá của Bộ Y tế tại chiến lược quốc gia y tế dự phòng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 về nhận thức y tế dự phòng chưa được quan tâm một cách thích đáng và đầy đủ của toàn xã hội, cơ chế thu hút các nguồn lực đầu tư cũng như chính sách đãi ngộ cán bộ làm công tác y tế dự phòng còn nhiều bất cập, cơ sở hạ tầng của hệ thống y tế dự phòng chưa đáp ứng được yêu cầu phòng chống dịch bệnh, tài chính dành cho các hoạt động y tế dự phòng còn quá thấp, đội ngũ cán bộ y tế dự phòng còn thiếu về số lượng và chưa đảm bảo về chất lượng, công tác đào tạo cán bộ cho hệ y tế dự phòng chưa được chú trọng. Thực tế hiện nay 75% cán bộ y tế dự phòng đang làm việc tại các cơ sở y tế dự phòng không được đào tạo theo chuyên ngành mà là bác sĩ đa khoa chuyển sang nên có xu hướng chuyển sang công tác tại các tuyến điều trị dẫn đến tình trạng nhiều đơn vị làm công tác y tế dự phòng, kể cả các tuyến trung ương rất khó khăn trong việc thu hút nguồn nhân lực.
Trước thực trạng tình hình như vậy, tại buổi lễ tổng kết ngành y tế năm 2008 và triển khai công tác y tế năm 2009, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân đã chỉ đạo ngành y tế cần chú trọng đặc biệt vấn đề đào tạo nguồn nhân lực và coi đó là một trong 5 nhiệm vụ chính mà Chính phủ đã giao cho ngành y tế trongnăm 2009. Nhận định ngày y tế hiện nay còn thiếu nhiều về số lượng và chất lượng y bác sĩ, Phó Thủ tướng cho là ngành cần triển khai quyết liệt và đồng bộ về đào tạo nguồn nhân lực, kiện toàn hệ thống tổ chức cán bộ cho ngành; ngoài ra Phó Thủ tướng cũng chỉ đạo ngành y tế cần có những chương trình nâng cao chất lượng quản lý và chuẩn hóa đội ngũ giám đốc, phó giám đốc bệnh viện các tuyến, đồng thời quy hoạch một hệ thống bệnh viện có đẳng cấp quốc tế để phát triển ngành du lịch khám chữa bệnh. Theo Phó Thủ tướng mặc dù việc phát triển nguồn nhân lực y tế còn rất nhiều khó khăn nhưng ngành y tế cũng đang đứng trước một thời cơ lớn để phát triển vì chưa bao giờ ngành y tế được Chính phủ quan tâm toàn diện như hiện nay. Về phía Bộ Y tế đặc biệt quan tâm đến công tác đào tạo nguồn nhân lực y tế, đặc biệt là đối với hệ y tế dự phòng; theo kế hoạch của Bộ công tác đào tạo sẽ được thực hiện đồng bộ theo các bậc sau đại học, đại học, cao đẳng, trung cấp, kỹ thuật viên…trong đó chú trọng đào tạo dài hạn bác sĩ y tế dự phòng đi đôi với đào tạo định hướng, đào tạo chuyên khoa sơ bộ các bác sĩ đa khoa đang làm việc tại các cơ sở y tế dự phòng. Việc đào tạo sẽ được mở rộng tại tất cả các trường đại học y, đại học y tế công cộng, các trường cao đẳng và trung cấp y tế có đủ năng lực thực hiện. Trường Đại học Y Hà Nội được giao nhiệm vụ làm đầu mối phối hợp với Vụ Khoa học & đào tạo-Bộ Y tế xây dựng khung chương trình đào tạo về y tế dự phòng, sau đó loại hình đào tạo nhân lực y tế dự phòng sẽ được mở rộng đến tất cả các cơ sở đào tạo theo quy định của Bộ Y tế và Bộ Giáo dục & đào tạo.
Tuy nhiên vấn đề thực tiễn đặt ra là đến năm 2012 các cơ sở đào tạo chính quy mới có thể cho ra trường thế hệ chuyên khoa y tế dự phòng đầu tiên, trong khi từ nay đến năm 2010 hệ y tế dự phòng cần có ít nhất là 10.000 người mới đảm bảo hiệu quả hoạt động kiểm soát dịch bệnh cho tất cả các tuyến từ trung ương đến cơ sở; do đó ngoài việc đào tạo chính quy và đào tạo chuyên khoa sơ bộ cho các tuyến huyện, tỉnh và trung ương; một việc không kém phần quan trọng cần phải tính đến là làm thế nào để mạng lưới cán bộ y tế xã và y tế thôn bản đảm bảo được trình độ cũng như năng lực kiểm soát dịch bệnh ngay từ cơ sở.
Giải pháp cấp bách trước mắt là bên cạnh sự đào tạo lâu dài nguồn nhân lực y tế dự phòng theo định hướng tại các trường đại học y, trường đại học y tế công cộng, trường cao đẳng và trung cấp y tế chuyên nghiệp cần tranh thủ sự đào tạo tại các viện nghiên cứu chuyên ngành có đủ năng lực đào tạo theo mô hình liên kết đào tạo đại học (bác sĩ, cử nhân), đào tạo sau đại học (tiến sĩ, thạc sĩ, chuyên khoa I) hoặc đào tạo độc lập nếu có đủ điều kiện để kịp thời cung cấp nguồn nhân lực trong thời điểm trước mắt. Đối với số cán bộ trung cấp làm công tác y tế dự phòng lâu năm, có nhiều kinh nghiệm và nhiệt huyết với ngành nghề (y sĩ, kỹ thuật viên trung học y tế) cần tạo điều kiện đào tạo nâng cao trình độ đại học (bác sĩ, cử nhân) để họ có cơ hội phát huy khả năng và gắn bó với ngành nghề. Đối với đội ngũ cán bộ kỹ thuật sơ cấp làm công tác y tế dự phòng có thể tranh thủ sự đào tạo tại chỗ của các cơ sở chuyên khoa tuyến tỉnh (Trung tâm phòng chống sốt rét/Trung tâm y tế dự phòng), đồng thời quy định cho các tuyến này được phép cấp bằng sơ cấp thông qua sự hỗ trợ của các viện nghiên cứu chuyên ngành có chức năng đào tạo để vừa đáp ứng nguồn nhân lực tại địa phương, vừa tạo cơ sở pháp lý cho số cán bộ này có điều kiện đi học nâng cao trình độ trung học sau này.
Duy trì nguồn nhân lực y tế dự phòng cần gắn liền với chính sách đãi ngộ thích đáng
Công tác y tế dự phòng là hết sức vất vả vì phần lớn hoạt động đều phải bám sát cộng đồng ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng có nguy cơ cao xảy ra dịch bệnh, nếu không có chế độ thích đáng và phù hợp thì việc duy trì được nguồn nhân lực đã được đào tạo cũng không hề đơn giản; do đó cần có chế độ đãi ngộ phù hợp để các cán bộ đang làm công tác y tế dự phòng, đặc biệt là các bác sĩ yên tâm công tác và gắn bó lâu dài với chuyên ngành. đối với cán bộ y tế cơ sở (huyện, xã, thôn bản) cần có chế độ chính sách riêng biệt để họ có thể tập trung thực hiện tốt nhiệm vụ được giao ở tuyến cơ sở.
Để giải quyết vấn đề này, Bộ Y tế đã xây dựng chế độ chính sách với cán bộ y tế dự phòng trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt nhưng cho đến nay vẫn chưa có văn bản trả lời và nếu có được phê duyệt thì với sô lượng cán bộ y tế dự phòng quá lớn rải đều ở tất cả các tuyến nguồn kinh phí được cấp khó có thể đáp ứng được cuộc sống thực tế của cán bộ y tế dự phòng. Do đó Bộ Y tế cần có cơ chế mở để các viện nghiên cứu thuộc hệ y tế dự phòng đã thực hiện đề án kiện toàn tổ chức và hoạt động theo Nghị định 115/2005/CP và các Trung tâm Y tế dự phòng/Trung tâm phòng chống sốt rét đã thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp y tế theo Nghị định 43/2005/CP của Thủ tướng Chính phủ được phép mở rộng các dịch vụ y tế cũng như dịch vụ khoa học kỹ thuật theo quy định của pháp luật để tăng nguồn thu chính đáng nhằm chủ động giải quyết những khó khăn trước mắt của cuộc sống đội ngũ cán bộ làm công tác y tế dự phòng; đồng thời với việc tăng cường nguồn lực đầu tư, nghiên cứu lại chế độ lương bổng, và chính sách đãi ngộ hợp lý cho hệ y tế dự phòng mới có thể duy trì được đội ngũ cán bộ có chất lượng kỹ thuật cao, bảo đảm cho việc hoạt động lâu dài và có hiệu quả trong kiểm soát dịch bệnh.
Sự thiếu hụt nguồn nhân lực y tế hiện nay là một vấn đề thực tế và chiến lược đào tạo nguồn nhân lực y tế dự phòng cũng như duy trì được nguồn nhân lực này trong kiểm soát dịch bệnh lâu dài cần đi đôi với chính sách đãi ngộ thỏa đáng mới có thể khắc phục được những bất cập trong thực trạng thiếu hụt nguồn lực y tế nêu trên.
Ngày Hiến chương Nhà giáo 20-11 là ngày để mỗi chúng ta, mỗi người thầy trong ngành y tế suy ngẫm, nhìn nhận và đánh giá đúng thực trạng thiếu hụt nguồn nhân lực y tế nói chung cũng như hệ thống y tế dự phòng nói riêng để trên cơ sở đó có trách nhiệm đào tạo nguồn nhân lực y tế vừa có trình độ cao, vừa có đủ nănglựctrong sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe cộng đồng.