Nguồn nhân lực y tế là yếu tố hết sức quan trọng nhằm cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của toàn ngành y tế nói chung và kiểm soát dịch bệnh của hệ y tế dự phòng nói riêng do đó yêu cầu phát triển nguồn nhân lực y tế vừa nằm trong tổng thể phát triển hệ thống y tế vừa nằm trong chiến lược phát triển nguồn lực con người của đất nước.
Thực trạng và nguyên nhân thiếu hụt nguồn nhân lực
Thực trạng nguồn nhân lực
Tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực đang trở thành vấn đề báo động không chỉ riêng với ngành y tế mà với nhiều ngành nghề khác; theo các nguồn thông tin đại chúng tình trạng đội ngũ cán bộ viên chức có năng lực chuyên môn kể cả cán bộ quản lý xin nghỉ việc hoặc bỏ việc ra làm ở khu vực tư nhân đã trở nên phổ biến ở bất cứ tỉnh/thành hoặc đơn vị nào, chẳng hạn mấy năm qua ngay tại thành phố Hồ Chí Minh trong số hơn 6500 cán bộ viên chức xin nghỉ việc thì đã có gần 1000 cán bộ y tế. Vấn đề thiếu hụt nguồn nhân lực y tế cũng đã được Bộ Y tế cảnh báo trong vài năm gần đây như năm 2006 tổng số cán bộ y tế tại các cơ sở công lập là 271.149 người (32 CBYT/10.000 dân) trong khi năm 1986 đã là 261.903 người (42,8 CBYT/10.000 dân); tình trạng thiếu cán bộ y tế còn tăng thêm sau khi có một số thay đổi về định biên và tổ chức bộ máy y tế địa phương theo Nghị định 172, Thông tư 08/2007/TTLT-BYT-BNV, Quyết định 53 và hệ thống y tế trải rộng xuống tận xã, thôn bản; bên cạnh đó nhu cầu được khám chữa bệnh cũng như bảo hiểm y tế toàn dân ngày càng cao do đời sống xã hội ở nước ta ngày càng phát triển.
 |
Cán bộ Trung tâm y tế dự phòng Bình Định đang kiểm tra các mẫu thực phẩm. Ảnh: N.P |
Vấn đề thiếu hụt nguồn nhân lực ở hệ thống y tế dự phòng cũng không nằm ngoài những khó khăn nêu trên do tính chất công việc phải luôn có mặt tiếp cận cộng đồng, nhất là đối phó với các bệnh dịch nguy hiểm hoặc bệnh lạ mới nổi; người cán bộ y tế dự phòng phải chấp nhận đồng lương và chế độ phụ cấp ít ỏi, chấp nhận cuộc sống khó khăn gian khổ, thậm chí hy sinh cả hạnh phúc gia đình để thường xuyên lặn lội kiểm soát dịch bệnh ở các vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo. Chính vì vậy đội ngũ cán bộ sau đại học (Tiến sĩ, Thạc sĩ, Chuyên khoa 2, Chuyên khoa 1) của các Viện thuộc hệ y tế dự phòng hết sức khiêm tốn chỉ chiếm trung bình từ 12-15 % (đơn vị cao nhất chiếm 27% và thấp nhất chỉ có 5%) so với tổng số cán bộ viên chức trong đơn vị. Đội ngũ bác sĩ đa khoa hoặc chuyên khoa và dược sĩ đại học ở các đơn vị y tế dự phòng cũng thiếu hụt nghiêm trọng do số đã ổn định biên chế xin chuyển công tác khác hoặc bỏ việc để hành nghề y tế tư nhân, trong khi số bác sĩ cũng như dược sĩ mới ra trường không muốn về công tác ở các cơ quan y tế dự phòng mặc dù đã có chính sách hỗ trợ thu hút nguồn lực tương đối thỏa đáng. Số cán bộ có trình độ lãnh đạo, quản lý các Viện Y tế dự phòng hiện nay cũng là một bài toán hết sức nan giải; mặc dù đã thực hiện công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý ngắn hạn dài hạn theo chỉ đạo của Bộ Y tế, nhưng chưa thực sự có đội ngũ cán bộ chuyên khoa kế cận xứng tầm trong vòng 5 năm tới, thậm chí vừa qua có Viện mới khuyết một Viện trưởng nhưng không tìm ra người để thay thế.
 |
Cán bộ Trung tâm Y tế dự phòng Đà Nẵng xử lý các giếng nước bị ngập lụt để đảm bảo nguồn nước sạch cho dân Ảnh: CTV |
Tại sao trong giai đoạn hiện nay hệ thống đào tạo quốc gia ngày càng phát triển và nhu cầu chăm sóc sức khỏe của nhân dân ngày càng tăng lên nhưng lại thiếu hụt nguồn nhân lực trầm trọng như vậy, chúng ta thử điểm qua một số nguyên nhân để trên cơ sở đó có giải pháp khắc phục phù hợp.
Nguyên nhân thiếu hụt nguồn nhân lực
Qua thống kê hầu hết cán bộ viên chức xin nghỉ việc hoặc bỏ việc đều có lý do là thu nhập quá thấp không đảm bảo mức sống tối thiểu, có người phục vụ gần 30 năm trong nghề nhưng các khoản thu nhập trung bình hàng tháng (kể cả lương cơ bản) chỉ từ 2-3 triệu đồng/người, trong khi khu vực y tế tư nhân thu nhập trung bình hàng tháng từ 7-15 triệu đồng/người, thậm chí cao hơn gấp chục lần so với lương nhà nước; đối với cán bộ hợp đồng hoặc mới thử việc mức thu nhập còn thấp hơn, chỉ trên dưới 1 triệu đồng/người 1 tháng. Các khoản lương tăng thêm (theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập) mặc dù đã được thực hiện nhưng cũng rất ít ỏi vì các đơn vị y tế dự phòng không thể chủ động nguồn thu từ các dịch vụ công như các đơn vị thuộc hệ điều trị, chắc chắn với mức thu nhập như vậy khó lòng có thể giữ chân được đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn khoa học tiếp tục cống hiến hết mình cho công tác y tế dự phòng. Bên cạnh đó cơ chế làm việc ở các đơn vị sự nghiệp y tế chưa thực sự thông thoáng, còn mang tính chất cào bằng nên chưa động viên, khuyến khích được đội ngũ cán bộ có năng lực; cơ cấu trình độ cán bộ chưa cân đối với nhu cầu phát triển của khoa học kỹ thuật, số cán bộ có trình độ trung cấp chiếm tỷ lệ quá cao so với số cán bộ có trình độ đại học và sau đại học nên không phát huy được hiệu quả công việc. Ngoài ra không thể phủ nhận một thực tế là trong quá trình hội nhập quốc tế và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ đòi hỏi có sự cạnh tranh khốc liệt giữa khu vực y tế nhà nước và khu vực y tế tư nhân, một khi tiền đồ ở khu vực nhà nước hạn chế chúng ta phải chấp nhận dòng chảy của đội ngũ cán bộ y tế có năng lực sang khu vực y tế tư nhân có điều kiện kinh tế cao hơn.
 |
Với mục tiêu 50 cán bộ y tế/1 vạn dân vào năm 2020, bài toán "chất lượng-số lượng" đào tạo nhân lực ngành y càng trở nên gay gắt. Ảnh: website ĐH Y Hà Nội |
Giải pháp phát triển nguồn nhân lực
Để giải quyết vấn đề nguồn nhân lực y tế Bộ Y tế đã có nhiều văn bản, chỉ thị giao cho các trường đại học, cao đẳng và trung cấp y tế; các viện nghiên cứu về y học dự phòng và trung tâm y tế dự phòng các địa phương trong cả nước cần tăng cường chất lượng đào tạo gắn liền với các cơ sở thực hành, phối hợp với các cơ sở đào tạo tổng hợp nhu cầu và cử cán bộ đi học nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân; đồng thời đề xuất các cơ chế, chính sách khuyến khích và tăng cường xã hội hóa để thu hút các thành phần kinh tế đầu tư vào việc đào tạo nguồn nhân lực y tế; xây dựng và đề xuất các chính sách để điều chỉnh mức độ mất cân đối cán bộ y tế giữa các chuyên ngành, các trình độ và các vùng miền trong cả nước; nâng cao chất lượng cán bộ y tế qua cải cách giáo dục, nâng cấp các cơ sở đào tạo y dược, đào tạo đội ngũ giáo viên và chương trình đào tạo liên tục đào tạo chuyên gia kỹ thuật cao; tăng cường năng lực quản lý cho đội ngũ cán bộ quản lý, điều hành; nâng mức ưu đãi cho các cán bộ làm công tác y tế đặc biệt là đội ngũ cán bộ y tế dự phòng. Tạo điều kiện cho các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ chủ động trong khai thác các nguồn đầu tư nghiên cứu cũng như dịch vụ y tế từ các tổ chức trong nước và quốc tế.
Bên cạnh đó các đơn vị y tế dự phòng cần tạo điều kiện môi trường làm việc thân thiện, tôn trọng lẫn nhau và tạo điều kiện thuận lợi cho mỗi người đều được hưởng các quyền lợi kinh tế một cách công bằng cũng như có cơ hội phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn cũng quản lý; cấp ủy, Ban giám đốc và BCH Công đoàn cần sớm nắm bắt diễn biến tư tưởng của mọi người để xử lý kịp thời những diễn biến tư tưởng ở các cán bộ viên chức có ý định xin nghỉ việc hoặc bỏ việc; đồng thời chú ý giáo dục ý thức trách nhiệm và niềm vinh dự là một cán bộ viên chức nhà nước được giao nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân theo yêu cầu của Đảng và Nhà nước.