Từ năm 2009 đến nay, đặc biệt là 6 tháng đầu năm 2010 tình hình sốt rét khu vực miền Trung-Tây Nguyên gia tăng liên tục, khả năng bùng phát thành dịch sốt rét rất cao; nhưng với việc tăng cường nâng cao chất lượng các phòng chống sốt rét, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn cùng với ngành y tế các tỉnh trong khu vực đã bước đầu giảm thấp được các chỉ số sốt rét, góp phần ổn định tình hình sốt rét.
Tình hình sốt rét 6 tháng đầu năm 2010 so với cùng kỳ năm 2009
Diễn biến tình hình sốt rét
Bệnh nhân sốt rét (BNSR)
BNSR toàn khu vực 6 tháng đầu năm 2010 tăng 13.16% (8.934/7.895), trong đó miền Trung tăng 18.76%, Tây Nguyên tăng 5.43% so với cùng kỳ năm 2009.
9/15 tỉnh/thành phố BNSR tăng là Quảng Nam (+168.56%), Phú Yên (+60.25%), Bình Định (+54.21%), Đăk Lăk (+36.93%), Quảng Ngãi (+30.36%), TP. Đà Nẵng (+20%), Khánh Hòa (+16.03%), Kon Tum (+2.72%) và Quảng Bình (+0.17%).
6/15 tỉnh/thành phố có BNSR giảm là Quảng Trị (-46.50%), Thừa Thiên-Huế (-37.76%), Ninh Thuận (-23.08%), Bình Thuận (-20.06%), Đăk Nông (-8.29%) và Gia Lai (-6.57%).
Ký sinh trùng sốt rét (KSTSR)
Số trường hợp có ký sinh trùng sốt rét toàn khu vực 6 tháng đầu năm 2010 tăng 56.42% (1,05/0,67), trong đó miền Trung tăng 65.17%, Tây Nguyên tăng 48.29% so với cùng kỳ 2009.
12/15 tỉnh/thành phố trong khu vực đều có tỷ lệ KSTSR tăng; trong đóQuảng Nam (+284.51%), Quảng Ngãi (+204.22%), Kon Tum (+154.80%), Đăk Lăk (+143.14%), Phú Yên (+109.46%), Bình Định (+101.02%), Bình Thuận (+68.80%), TP. Đà Nẵng (+35.63%), Khánh Hòa (+30.78%), Thừa Thiên-Huế (+20.51%), Quảng Bình (+16.38%) và Đăk Nông (+13%).
3/15 tỉnh/thành phố trong khu vực có tỷ lệ KSTSR giảm là Quảng Trị (-47.52%), Ninh Thuận (-29.90%) và Gia Lai (+5%).
Sốt rét ác tính (SRAT)
6 tháng đầu năm 2010 khu vực có 30 ca SRAT giảm 18.92% %(30/37), trong đó miền Trung giảm 10 ca (10/21) và Tây Nguyên tăng 4 ca (20/16) so với cùng kỳ 2009. Các tỉnh có sốt rét ác tính cao bao gồm Đăk Lăk (7/6) và Đăk Nông (8/1).
|
Lấy lam máu xét nghiệm ký sinh trùng sốt rét cho đồng bào dân tộc thiểu số |
Tử vong sốt rét (TVSR)
Trong 6 tháng đầu năm 2010, khu vực có 2 ca tử vong sốt rét tại Khánh Hòa (1 ca) và Bình Thuận (1 ca). Cả 2 trường hợp này đều được chẩn đoán là SRAT thể não, mật độ ký sinh trùng máu cao; bệnh nhân nhập viện quá muộn, có trường hợp 14 ngày sau khi khởi bệnh mới nhập viện dẫn đến biến chứng nặng và tử vong trước 24 giờ.
Dịch sốt rét: không có dịch sốt rét xảy ra.
Nguyên nhân gia tăng bệnh nhân sốt rét và tử vong sốt rét
Nguyên nhân chủ quan
Người dân chưa có ý thức tự bảo vệ khi sống trong vùng sốt rét lưu hành nặng, nhất là tỷ lệ ngủ màn thấp tạo điều kiện thuận lợi cho sự lan truyền bệnh tự nhiên bệnh sốt rét. Chưa có biện pháp kiểm soát bệnh sốt rét hiệu quả cho người dân giao lưu biên giới qua các đường tiểu ngạch. Biện pháp cấp thuốc tự điều trị (Stand-by treatment) chưa hiệu quả, trong khi vectơ truyền bệnh chính (An.minimus, An.dirus) có xu hướng phục hồi và mầm bệnh (KSTSR) vẫn chiếm tỷ lệ cao trong dân. Y tế cơ sở (xã, thôn bản) chưa phát hiện sớm và điều trị kịp thời BNSR, khả năng cấp cứu SRAT của bệnh viện tuyến huyện còn hạn chế cùng với bệnh nhân không đến cơ sở y tế để được khám và điều trị nên dẫn đến các biến chứng muộn và tử vong sốt rét.
Nguyên nhân khách quan
Các vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới đều thuộc vùng sốt rét lưu hành nặng có đặc điểm dịch tễ học sốt rét phức tạp thuận lợi cho sự lan truyền tự nhiên bệnh sốt rét. Phòng chống sốt rét cho các nhóm dân di biến động (dân đi rừng, ngủ rẫy, di cư tự do, giao lưu biên giới) ngoài tầm kiểm soát của ngành y tế. Thời tiết bất thường thuận lợi cho muỗi truyền bệnh phát triển, ngoài ra cần đề cập đến quy luật phát sinh dịch theo chu kỳ 3-5 năm sau quá trình sốt rét giảm thấp.
 |
Tẩm màn bằng hóa chất diệt muỗi cho dồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Đăk Lăk |
Dự báo 6 tháng cuối năm 2010 tình hình sốt rét vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp cần có giải pháp khắc phục kịp thời.
Đánh giá kết quả hoạt động phòng chống sốt rét 6 tháng đầunăm 2010
Tổ chức chỉ đạo
Từ đầu năm 2010 Viện đã đã gửi nhiều công văn cảnh báo nguy cơ dịch sốt rét và chỉ đạo tăng cường các biện pháp phòng chống sốt rét tại các địa phương; đồng thời trực tiếp chỉ đạo phòng chống sốt rét tại các điểm nóng và có nguy cơ xảy dịch cao.
Các tỉnh tăng cường chất lượng các biện pháp phòng chống sốt rét, chủ động bổ sung các biện pháp can thiệp ở vùng có nguy cơ gia tăng sốt rét như vùng dân di biến động, vùng biên giới, vùng sâu, vùng xa.
Màng lưới chuyên khoa sốt rét các tuyến đã chú trọng chỉ đạo nâng cao chất lượng các biện pháp chuyên môn kỹ thuật trong các chiến dịch PCSR và tích cực khống chế các vùng sốt rét có biến động (các khu vực có dân di cư tự do, đi rừng, ngủ rẫy và giao lưu biên giới); màng lưới y tế cơ sở (y tế huyện, xã, thôn, bản, điểm kính hiển vi) đã tham gia tích cực các hoạt động kiểm soát sốt rét, tuy nhiên công tác phát hiện điều trị sớm và quản lý bệnh nhân sốt rét tại cơ sở còn nhiều khó khăn, nhất là vùng biên giới Việt Lào thuộc tỉnh Quảng Trị do chưa có sự hợp tác biên giới trong kiểm soát sốt rét.
Giám sát dịch tễ sốt rét và phòng chống dịch
Viện đã phối hợp với các tỉnh trong khu vực tổ chức nhiều đoàn giám sát dịch tễ sốt rét tại các vùng sốt rét trọng điểm và các vùng có nguy cơ sốt rét cao để đánh giá tình hình sốt rét, đề xuất giải pháp và khống chế nguy cơ sốt rét gia tăng.
Tăng cường chỉ đạo nâng cao chất lượng các biện pháp PCSR và bổ sung các biện pháp phun tồn lưu hóa chất, tẩm màn và điều trị bệnh nhân ở những vùng có nguy cơ xảy dịch cao; công tác giám sát dịch tễ vùng trọng điểm và chế độ giao ban hàng tháng từ dưới lên giữa xã, huyện, tỉnh được duy trì thường xuyên, nhờ đó thông tin được phân tích, kịp thời khống chế gia tăng sốt rét và nguy cơ xảy dịch. Nhiều tỉnh trong khu vực cũng đã chỉ đạo các tuyến xây dựng hệ thống dự báo dịch sớm, bước đầu phát huy vai trò trong giám sát dịch tễ.
Các địa phương gửi báo cáo sốt rét về Viện đúng thời gian quy định do đó Viện đã báo cáo kịp thời cho Bộ Y tế và phản hồi cho các địa phương.
Phòng chống vectơ
Viện đã cung cấp hoá chất phun tẩm cả năm, đảm bảo cho các tỉnh triển khai đúng kế hoạch phun tồn lưu bảo vệ cho 686.481 người, trong đó 549.761 lượt người được bảo vệ bằng màn tẩm, 136.720 lượt người được bảo vệ bằng phun tồn lưu trước khi mùa bệnh phát triển trong 6 tháng đầu năm 2010.
|
Giám sát chỉ đạo sốt rét tại địa phương |
Chẩn đoán, điều trị và quản lý thuốc sốt rét
Viện đã cấp đủ thuốc sốt rét đáp ứng yêu cầu điều trị BNSR của các cơ sở y tế, đồng thời tăng cường giám sát chẩn đoán, điều trị sốt rét và giám sát tử vong tại các tuyến.
Các tỉnh nâng cao chất lượng phát hiện sớm KSTSR tại các điểm kính hiển vi phục vụ điều trị kịp thời bệnh nhân sốt rét; trong 6 tháng đầu năm 2010 tất cả các tỉnh trong khu vực đều gửi lam kiểm tra về Viện, tỷ lệ sai sót chung là 0.16%, trong đó miền Trung sai sót 0.15%, Tây Nguyên sai sót 0.20% so với cùng kỳ năm 2009.
Truyền thông giáo dục và xã hội hoá PCSR
Các tỉnh tổ chức nói chuyện, phát thanh, thảo luận nhóm 37.843 lần cho 4.637.629 lượt người nghe; truyền thông trực tiếp tại hộ gia đình 7.354 lần cho 12.380 lượt người nghe; chiếu video và biểu diễn văn nghệ 516 buổi cho 5.353.589 lượt người xem; tổ chức ra quân thực hiện chiến dịch PCSR nhân ngày sốt rét thế giới 25-4 tại huyện trọng điểm có hiệu quả thiết thực nâng cao ý thức phòng chống sốt rét của cộng đồng.
Viện tổ chức Hội thi nâng cao kiến thức phòng chống sốt rét tại huyện An Lão (Bình Định), Tuyên Hóa (Quảng Bình), tổ chức phát động chiến dịch truyền thông phòng chống sốt rét nhân ngày sốt rét thế giới 25-4 tại huyện Phong Điền (Thừa Thiên-Huế).
Đào tạo và đào tạo lại
Viện tổ chức 10 lớp tập huấn “Chẩn đoán và điều trị sốt rét” cho 268 cán bộ tại các tuyến điều trị tỉnh/huyệnthuộc diện bao phủ dự án; trọng tâm đánh giá nguyên nhân gia tăng số mắc và tử vong sốt rét; chất lượng chẩn đoán và điều trị sốt rét tại các tuyến; điểm mới trong Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị sốt rét so với trước đây; lâm sàng, chẩn đoán, điều trị sốt rét thể thông thường; cơ chế bệnh sinh, điều trị đặc hiệu, hồi sức cấp cứu SRAT và phân tuyến điều trị; thay đổi về đánh giá lâm sàng, cận lâm sàng SRAT; các thuốc sốt rét hiện sử dụng và cơ sở phối hợp thuốc điều trị sốt rét đặc hiệu; tình hình KSTSR kháng thuốc, đánh giá kháng thuốc và hiệu lực thuốc điều trị; yêu cầu giám sát chẩn đoán, điều trị sốt rét.
Các tỉnh đã tiến hành đào tạo 59 lớp cho 1.852học viên là cán bộ y tế cơ sở xã, thôn bản, cán bộ điều trị tại bệnh viện, xét nghiệm viên các tuyến; tổ chức các lớp tập huấn chẩn đoán & điều trị sốt rét cho cán bộ tuyến xã và huyện thuộc Dự án QTC PCSR.
Nghiên cứu khoa học
Viện đã phối hợp với các tỉnh triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, cấp cơ sở và hợp tác quốc tế về dịch tễ, côn trùng, ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc, ký sinh trùng đường ruột, lâm sàng và điều trị sốt rét;
Duy trì sinh hoạt khoa học định kỳ, cập nhật thông tin chuyên ngành cũng như tình hình kiểm soát dịch bệnh trong nước và thế giới.
Quản lý chương trình phòng chống sốt rét
Phân phối và sử dụng thuốc sốt rét, hóa chất, vật tư phòng chống sốt rét
Viện đã cung cấp đủ thuốc sốt rét, vật tư, hóa chất theo kế hoạch cho các địa phương kịp thời triển khai chiến dịch phòng chống chống sốt rét trong năm;
Cử nhiều đoàn xuống các tỉnh kiểm tra, giám sát việc quản lý sử dụng và thanh quyết toán để đảm bảo hiệu quả triển khai bảo vệ cộng đồng.
Xây dựng kế hoạch phòng chống sốt rét hàng năm
Hàng năm Dự án QGPCSR tổ chức duyệt kế hoạch PCSR căn cứ vào thực tế tình hình sốt rét và nhu cầu thuốc sốt rét, hóa chất phun tẩm, vật tư, kinh phí từ các địa phương.
Tuy nhiên một số nguồn kinh phí ủy quyền của các địa phương (giám sát dịch tễ, lam xét nghiệm, đào tạo, truyền thông…) sau khi được Viện phê duyệt lại bị chương trình cắt giảm làm các tỉnh khó thực hiện kế hoạch phòng chống sốt rét.
Trọng tâm hoạt động phòng chống sốt rét trong 6 tháng cuối năm 2010
Mục tiêu phòng chống sốt rét năm 2010
Mục tiêu
- Giảm mắc sốt rét 5% so với 2009, năm 2010 còn 1,900/00 DSC;
- Giảm chết sốt rét 5% so với 2009, năm 2010 còn 0,0760/00 DSC;
- Ngăn chặn không để dịch sốt rét xảy ra, nếu có dịch phải dập tắt kịp thời;
- Phát triển các yếu tố bền vững và xã hội hóa phòng chống sốt rét.
Chỉ tiêu
- Dân số được bảo vệ bằng hóa chất diệt muỗi: 3.879.000 người, trong đó:
+ Bảo vệ bằng phun hóa chất tồn lưu:680.300 người;
+ Bảo vệ bằng màn tẩm hóa chất: 3.198.700 người.
- Số lượt người được điều trị sốt rét:280.000 người
- Số lam máu phát hiện:950.000 người
Trọng tâm hoạt động phòng chống sốt rét 6 tháng cuối năm 2010
Chỉ đạo và giám sát dịch tễ sốt rét
Tăng cường giám sát dịch tễ các vùng trọng điểm, ngăn chặn sự bùng nổ dịch sốt rét, hạn chế tử vong sốt rét ở các đối tượng di biến động khó kiểm soát.
Triển khai hoạt động đánh giá kết quả PCSR ở 30 huyện trọng điểm 2006-2010, trong đó miền Trung-Tây Nguyên có 8 huyện Hướng Hóa (Quảng Trị), Quế Sơn (Quảng Nam), Vân Canh (Bình Định), Sông Hinh (Phú Yên), Đức Linh (Bình Thuận), Ayunpa (Gia Lai), Đăk Tô (Kon Tum) và Krông Nô (Đăk Lăk)
Giám sát và phòng chống véc tơ
Nâng cao chất lượng phun tẩm hóa chất trong chiến dịch phòng chống sốt rét đợt 2/2010 để hạn chế sự lan truyền sốt rét trong mùa truyền bệnh.
Quản lý, sử dụng và bảo quản tốt bình phun, hóa chất diệt muỗi tránh thất thoát hư hỏng, xử lý bao bì đựng hóa chất diệt muỗi sau khi phun tẩm đúng quy định.
Giám sát và điều trị sốt rét
Tăng cường kiểm tra giám sát các tuyến bệnh viện có tử vong sốt rét tìm nguyên nhân, giải pháp hạn chế tử vong; nâng cao chất lượng điều trị sốt rét ở các vùng trọng điểm, nhất là phát hiện và điều trị sớm sốt rét cho dân di biến động.
Tổ chức “Hội thảo chẩn đoán và điều trị hạ tử vong sốt rét” do Tổ chức Y tế thế giới (WHO) tài trợ tại Gia Lai cuối tháng 8/2010.
Truyền thông giáo dục-xã hội hóa phòng chống sốt rét
Đẩy mạnh chiến dịch truyền thông giáo dục PCSR bằng các phương tiện và hình thức phù hợp ở các vùng trọng điểm sốt rét, vùng sâu, vùng xa.
Tăng cường vận động các nhóm dân di biến động vào vùng sốt rét mang theo màn, võng, thuốc tự điều trị để hạn chế mắc sốt rét; nếu bị mắc sốt rét phải đến ngay cơ sở y tế gần nhất để được khám và điều trị kịp thời.
Nâng cao chất lượng đào tạo và đào tạo lại về phòng chống sốt rét
Tuyển sinh Kỹ thuật viên xét nghiệm Khóa 33 (2010-2012) theo chỉ tiêu (80 chính quy và 40 vừa học vừa làm), tổ chức thi tốt nghiệp khóa 30 (2008-2010).
Tập huấn cho màng lưới cán bộ các tuyến về dịch tễ học, côn trùng, xét nghiệm KSTSR, chẩn đoán và điều trị sốt rét ngoài diện bao phủ của Dự án QTC PCSR.
Nghiên cứu khoa học, công nghệ thông tin và hợp tác quốc tế
Nghiệm thu 2 đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, tiếp tục triển khai các đề cấp cơ sở và hợp tác quốc tế đã được phê duyệt.
Xây dựng đề án công nghệ thông tin chuyên ngành theo chỉ đạo của Bộ Y tế, phát huy hiệu quả của Trang tin điện tử (Website) trong truyền thông giáo dục phòng chống sốt rét, các bệnh ký sinh trùng & côn trùng, nghiên cứu khoa học.
Quản lý thuốc sốt rét, hóa chất, vật tư, kinh phí phòng chống sốt rét
Phê duyệt kế hoạch PCSR năm 2011 của khu vực trước ngày 15/8/2010, tham gia Ban soạn thảo chiến lược PCSR giai đoạn 2011-2015 và tầm nhìn 2020.
Báo cáo quyết toán thuốc, hóa chất và vật tư đúng hạn, không để thuốc sốt rét và hóa chất quá hạn, kém phẩm chất hoặc thất thoát.
Xây dựng kế hoạch phòng chống sốt rét hàng năm từ địa phương phải sát và phù hợp với nhu cầu thực tế, tránh tình trạng thừa thiếu gây lãng phí và đảm bảo gửi kế hoạch phòng chống sốt rét hàng năm đúng thời gian quy định.
Thống nhất cơ cấu phân bổ kinh phí chương trình PCSR cũng như nguyên tắc làm việc của Ban chủ nhiệm chương trình phòng chống sốt rét để việc triển khai thực hiện kế hoạch PCSR hàng năm phù hợp với thực tế và đạt hiệu quả.