Mỗi giai đoạn phòng chống sốt rét cần phải có chiến lược phù hợp nhằm đạt được các mục tiêu đề ra, trên cơ sở chiến lược “Loại trừ sốt rét” (Malaria Elimination) của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và quy trình đề xuất “Chiến lược quốc gia” (National Strategy Applications) của Quỹ toàn cầu, các chuyên gia quốc tế và Việt Nam đã xây dựng chiến lược quốc gia phòng chống sốt rét giai đoạn 201-2015.
Hội thảo xây dựng kế hoạch và chiến lược quốc gia phòng chống sốt rét giai đoạn 2011-2015 được tổ chức trong hai ngày 16-17/6/2009 tại Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương nhằm đề xuất Bộ Y tế tiếp tục hỗ trợ đầu tư và đệ trình Quỹ toàn cầu xem xét tài trợ thay vì phải thông qua các vòng đề xuất như trước đây. Tham dự Hội thảo có các chuyên gia quốc tế giúp xây dựng dự án, đại diện Tổ chức Y tế thế giới (WHO) khu vực Tây Thái Bình Dương (WPRO), đại diện WHO tại Việt Nam, đại diện của các Vụ/Cục thuộc Bộ Y tế, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Lãnh đạo và chuyên viên các Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng, Ban Quản lý Dự án Quỹ toàn cầu Phòng chống sốt rét Việt Nam và Lãnh đạo 18 Trung tâm Y tế dự phòng/Trung tâm Phòng chống sốt rét đại diện cho các vùng sốt rét lưu hành nặng, vừa nhẹ trong cả nước.
 |
TS. Nguyễn Mạnh Hùng-Viện trưởng Viện Sốt rét- Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương-Chủ nhiệm Dự án Quốc gia PCSR trình bày chiến lược quốc gia phòng chống sốt rét của Việt Nam giai đoạn 2010-2015 |
Để có cơ sở xây dựng kế hoạch/chiến lược quốc gia phòng chống sốt rét trong giai đoạn 5 năm tiếp theo (2011-2015) phù hợp với tình hình thực tế hiện nay, Hội thảo đã nghe Dr. Eva Maria Christophel-Chuyên gia Tổ chức Y tế thế giới Tây Thái Bình Dương (WPRO) báo cáo chiến lược loại trừ sốt rét toàn cầu; TS. Nguyễn Mạnh Hùng-Viện trưởng Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương-Chủ nhiệm Dự án Quốc gia PCSR trình bày chiến lược quốc gia phòng chống sốt rét của Việt Nam giai đoạn 2010-2015, tóm tắt đánh giá của Ban hội thẩm kỹ thuật Quỹ toàn cầu về những điểm mạnh và điểm yếu của chiến lược quốc gia phòng chống sốt rét và những bài học kinh nghiệm phòng chống sốt rét ở Việt Nam giai đoạn 1976-1990; sau đó ông Joachim Gromotka-Trưởng nhóm chuyên gia tư vấn kỹ thuật đã giới thiệu phương pháp lập kế hoạch tiếp cận khung locgic và cùng với các đại biểu tham dự Hội thảo xây dựng cây vấn đề nhằm rút ra kế hoạch/các hoạt động chi tiết cho chương trình quốc gia phòng chống sốt rét ở Việt Nam.
Tình hình sốt rét trên thế giới và Việt Nam
Tình hình sốt rét trên thế giới
Theo báo cáo của Dr. Eva Maria Christophel-Chuyên gia WPRO, sau năm 1978 số nước vẫn còn sốt rét thế giới là 106/209 nước tập trung ở châu Phi (47/54 nước), châu Á (35/45 nước), châu Mỹ (21/49 nước), châu Âu (2/38 nước) và châu Đại dương (2/23 nước). Những yếu tố chính ở các nước đã tiêu diệt sốt rét là có tình hình chính trị ổn định, cam kết tài chính và chính trị vững chắc đối với tiêu diệt bệnh sốt rét, có cơ sở hạ tầng về kỹ thuật và tổ chức tốt, cán bộ được đào tạo chất lượng cao, hệ thống y tế chung được phát triển đầy đủ và hoạt động tốt, không có xung đột khách quan và chủ quan, không có sự di dân từ các nước láng giềng, sốt rét khởi đầu không ổn định hoặc ổn định ở mức độ thấp. Hiện nay ở khu vực Tây Thái Bình Dương bệnh sốt rét vẫn đang lưu hành ở các nước Tiểu vùng sông Mê Kông (Cambodia, Lào, Myanma, Thailand, Trung Quốc và Việt Nam), các nước quần đảo Tây Nam-Thái Bình Dương (Malaysia, Phillipines, Papua New Guinea, Solomon Islands, Vanuatu) với tổng số dân nguy cơ mắc sốt rét là 814.391.879 người. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta có các công cụ phòng chống sốt rét tốt như thuốc phối hợp có gốc Artemisinine (ACTs), thuốc tiêm dẫn chất Artemisinine (Artesunate), viên đạn đặt hậu môn Artesunate, thuốc dự phòng cho phụ nữ có thai nơi có sốt rét lan truyền ổn định, kính hiển vi và test chẩn đoán nhanh, màn tẩm hóa chất/màn tẩm hóa chất có tác dụng dài (long lasting net) bao gồm cả võng màn tẩm hóa chất, hóa chất tẩm màn bao gồm cả dạng viên/túi để tự tẩm và hóa chất có tác dụng lâu dài, phun tồn lưu, cơ sở dữ liệu sốt rét và mẫu báo cáo, sách và tài liệu hướng dẫn; nguồn kinh phí từ Quỹ toàn cầu cho sốt rét khoảng 650 triệu USD (đô la Mỹ) đã phê duyệt cho 8 nước lưu hành sốt rét, AusAID khoảng 25 triệu ASD (đô la Úc) cho các nước thuộc quần đảo Tây Nam-Thái Bình dương, USAID cho chương trình sốt rét Tiểu vùng sông Mê Kông, Nhật Bản…và nguồn hỗ trợ đào tạo từ ACT Malaria.
| |
Dr. Eva Maria Christophel-Chuyên gia Tổ chức Y tế thế giới Tây Thái Bình Dương (WPRO) báo cáo chiến lược loại trừ sốt rét toàn cầu | Ông Joachim Gromotka-Trưởng nhóm chuyên gia tư vấn kỹ thuật đã giới thiệu phương pháp lập kế hoạch tiếp cận khung locgic |
Những khó khăn và thách thức lớn của chương trình phòng chống sốt rét thế giới là chưa tiếp cận đầy đủ các biện pháp phòng chống sốt rét (chẩn đoán, liệu pháp phối hợp thuốc Artemisinine, điều trị tái phát sốt rét do P.vivax, diện bao phủ màn tẩm hóa chất, cách đây vài năm một số nước đã ngừng phun tồn lưu hóa chất), vấn đề sốt rét P.falciparum và sốt rét P.vivax đa kháng thuốc (bao gồm cả kháng Artemisinine), vẫn đề phác đồ điều trị, sử dụng Artemisinine điều trị đơn thuần, y tế tư nhân nhiều và không kiểm soát được, di dân trong nước và qua lại biên giới; quản lý chương trình bao gồm cán bộ y tế (số lượng và khả năng, môi trường hỗ trợ), tình nguyện viên (chức năng, nhiệm vụ, bồi dưỡng, thù lao), giám sát dịch bệnh và giám sát đánh giá kém, vấn đề về các chỉ số, tập trung các biện pháp can thiệp cho nhóm dân có nguy cơ cao (phụ nữ có thai, trẻ em, dân tộc thiểu số, dân sống trong vùng dịch tễ sinh thái…).
Chương trình PCSR ở Việt Nam, điểm mạnh, điểm yếu và những bài học kinh nghiệm
Theo báo cáo của TS. Nguyễn Mạnh Hùng-Viện trưởng Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương tình hình sốt rét Việt Nam năm 2008 đã có những bước cải thiện đáng kể so với gần 10 năm trước đây (2000), số bệnh nhân sốt rét giảm 39,1%; số chết do sốt rét giảm 41,2% và không có dịch lớn xảy ra; dân số được bảo vệ bằng hóa chất diệt muỗi hàng năm được duy trì từ 10 - 12 triệu dân, trong đó 1,5 - 3 triệu dân được bảo vệ bằng phun tồn lưu và 9 - 10,5 triệu dân được bảo vệ bằng tẩm màn, cung cấp đủ thuốc sốt rét các loại hàng năm từ 2 - 2,5 triệu liều đảm bảo cho việc điều trị bệnh nhân sốt rét ở cả nước, duy trì và phát triển các yếu tố bền vững trong phòng chống sốt rét. Tuy nhiên, nguồn kinh phí phòng chống sốt rét vẫn dựa vào nguồn ngân sách Nhà nước cấp hàng năm và các nguồn tài trợ của các chương trình/dự án quốc tế cũng như các tổ chức quốc tế (Dự án PCSR Việt Nam-Australia (VAMCP), Việt Nam-EC (VMCP), Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ toàn cầu (GF) còn kinh phí đóng góp của các địa phương hầu như không đáng kể. Chương trình phòng chống sốt rét ở Việt Nam đã đạt và vượt mức chỉ tiêu đề ra so với quy định của WHO cũng như của Bộ Y tế, góp phần tích cực giảm thấp gánh nặng sốt rét tại các địa phương và góp phần to lớn vào công cuộc bảo vệ sức khỏe nhân dân và phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, đặc biệt là đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, người nghèo vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới.
Về các điểm mạnh và điểm yếu trong phòng chống sốt rét ở Việt Nam, Đoàn chuyên gia kỹ thuật Quỹ toàn cầu đánh giá cao những thành quả đã đạt được nhưng cũng chỉ ra một số điểm hạn chế trong Chiến lược phòng chống sốt rét ở Việt Nam như ít đề cập đến các yếu tố văn hóa, xã hội có thể gây ảnh hưởng đến việc đạt được các mục tiêu (sự di biến động dân cư từ vùng này sang vùng khác), các mục tiêu cần phát triển cụ thể hơn nữa và cần kết hợp lại thành mục đích (goal) của Chiến lược quốc gia; chưa phân tích đầy đủ những tác động của môi trường, thay đổi của khí hậu có ảnh hưởng đến sốt rét, chưa xem xét đến tính bền vững như phát triển nguồn nhân lực, hợp tác biên giới; có ít bằng chứng về cơ sở pháp lý, chính sách, nghị định để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chương trình một cách hiệu quả, đặc biệt là những nhóm người ít được bảo vệ. Quá trình xây dựng và phê duyệt chiến lược quốc gia không có sự tham gia của các ban ngành liên quan ngoài Viện Sốt rét và Ban chỉ đạo dự án quốc gia vào bản kế hoạch/chiến lược mới này; chiến lược quốc gia về y tế dự phòng năm 2006 đề cập quá ngắn gọn rằng sốt rét là một trong 10 chương trình y tế quốc gia được ưu tiên, bản chiến lược quốc gia phòng chống sốt rét mới cũng đề cập ít đến sự liên kết của nó với chiến lược quốc gia về y tế dự phòng hoặc với chiến lược y tế quốc gia. Điểm yếu cần cải thiện trong việc thực hiện và quản lý chương trình là chưa mô tả đầy đủ sự tham gia của các tổ chức, ban ngành khác có vai quan trọng trong giúp đạt được các chỉ tiêu kế hoạch đề ra như Bộ Lao động & Thương binh xã hộ, Bộ Giao thông-vận tải, an ninh và các cơ quan đoàn thể, tổ chức dân sự xã hôi và các tổ chức phi chính phủ; có hai hệ thống song song cùng kiểm tra, giám sát, điều phối và mua sắm ở các tỉnh có Nhà nước và Quỹ toàn cầu tài trợ; chưa mô tả về kế hoạch phát triển nguồn nhân lực, quản lý đào tạo và tính bền vững hoặc sự phù hợp của cán bộ; cần làm rõ cơ cấu tổ chức, điều hành, chỉ đạo của Bộ Y tế trong việc quản lý và điều phối các hoạt động phòng chống sốt rét với chính quyền địa phương; kinh phí dành nhiều cho mua sắm nhưng chưa tả đầy đủ về chiến lược và hệ thống hậu cần, quản lý mua sắm và những trở ngại của nó. Kết quả giám sát và đánh giá mô tả rất ít về dòng chảy thông tin, phương phấp phân tích, xử lý số liệu và cơ chế phản hồi thông tin một cách có hệ thống trong khi số liệu thông tin thu thập rất đầy đủ; không có bản kế hoạch giám sát và đánh giá (M & E) cho chương trình phòng chống sốt rét, không có tài liệu mô tả các nghiên cứu can thiệp thích hợp, chưa đề cập đến kế hoạch đánh giá định kỳ giữa ngành y tế và các ban ngành liên quan. Hệ thống tài chính và kiểm toán không đề cập đến vấn đề ngân sách trong chương trình phòng chống sốt rét khi khả năng từ 2011 trở đi sốt rét không còn là chương trình ưu tiên của ngành y tế, tổng ngân sách thực hiện tương phản với nguồn ngân sách đã liệt kê trong bản kế hoạch/chiến lược, mức tăng chuẩn 5-10% khoản hỗ trợ của Chính phủ hàng năm, định mức chi sẽ áp dụng để trả phụ cấp ngày và thù lao hàng tháng.
Từ những thành công trên, bài học kinh nghiệm phòng chống sốt rét được rút ra là Chương trình PCSR được coi là một chương trình quốc gia ưu tiên được Chính phủ, Bộ Y tế quan tâm chỉ đạo và đầu tư nguồn lực trong nước cũng như các nguồn viện trợ quốc tế; hoạt động phòng chống sốt rét được thống nhất từ trung ương đến địa phương và lồng ghép với hệ thống y tế chung trong công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu và chương trình quân dân y kết hợp; có chiến lược phòng chống sốt rét phù hợp, sáng tạo, coi trọng công tác đánh giá tình hình sốt rét định kỳ và ứng dụng có hiệu quả các công trình nghên cứu khoa học trong phòng chống sốt rét; năng lực chuyên khoa phòng chống sốt rét của đội ngũ cán bộ y tế tuyến cơ sở (huyện, xã, thôn bản) được nâng cao, công tác truyền thông giáo dục sức khỏe & xã hội hóa phòng chống sốt rét được đẩy mạnh; có sự kết hợp tốt quân dân y và các đoàn thể xã hội trong phòng chống sốt rét cùng hiệu quả của các hoạt động hợp tác quốc tế.
Chiến lược Loại trừ sốt rét toàn cầu và định hướng phòng chống sốt rét ở Việt Nam
Chiến lược loại trừ sốt rét toàn cầu
Loại trừ sốt rét là cắt đứt sự lan truyền sốt rét do muỗi truyền bệnh sốt rét tại một vùng địa lý xác định, khác với phòng chống sốt rét là giảm gánh nặng bệnh tật tới mức không còn là vấn đề y tế công cộng và tiêu diệt sốt rét là giảm vĩnh viễn tỷ lệ mắc bệnh sốt rét trên toàn thế giới do một tác nhân gây bệnh cụ thể bằng zero (0).
WHO đã đưa ra chiến lược loại trừ sốt rét gồm 4 giai đoạn không giới hạn thời gian cho từng giai đoạn mà căn cứ vào tỷ lệ ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) trên dân số vùng sốt rét lưu hành hàng năm
Phòng chống sốt rét tích cực: đến khi đạt tỷ lệ KSTSR (+) < 5% tổng số ca sốt rét lâm sàng thì chuyển sang giai đoạn tiền loại trừ sốt rét, đơn vị để công nhận tiền loại trừ sốt rét tối thiểu là đơn vị huyện với số dân khoảng 100.000.
Tiền loại trừ sốt rét: tiếp tục triển khai các biện pháp phòng chống sốt rét tích cực để làm giảm tỷ lệ chết do sốt rét, tỷ lệ KSTSR (+) < 5% tổng số ca sốt rét lâm sàng (tương đương với < 5 KSTSR (+)/1.000 dân số vùng sốt rét lưu hành).
Loại trừ sốt rét: tiếp tục triển khai các biện pháp phòng chống sốt rét tích cực để làm giảm tỷ lệ chết do sốt rét, giảm tỷ lệ KSTSR (+) nội địa xuống < 1/1.000 dân số vùng sốt rét lưu hành, có nghĩa là < 100 ca mới ký sinh trùng ở một huyện có 100.000 dân.
Phòng chống sốt rét quay trở lại: tăng cường các biện pháp để củng cố và duy trì tỷ lệ ký sinh trùng (+) nội địa bằng zero (0).
Đến năm 2007 trên thế giới có 82 quốc gia đang triển khai Chiến lược phòng chống sốt rét, 11 quốc gia đang triển khai tiền loại trừ sốt rét, 10 quốc gia đang triển khai loại trừ sốt rét, 4 quốc gia đang triển khai giai đoạn đề phòng sốt rét quay trở lại và 95 quốc gia & vùng lãnh thổ được Tổ chức Y tế thế giới công nhận không còn bệnh sốt rét.
Các “gói” can thiệp do các chương trình hiện nay đang sử dụng |
Chiến lược phòng chống sốt rét và loại trừ sốt rét ở Việt Nam (2011-2015)
Mục tiêu chung:
Tiếp tục đẩy lùi bệnh sốt rét và phát triển các yếu tố bền vững trong phòng chống sốt rét, từng bước thực hiện chiến lược loại trừ sốt rét ở các vùng đã giảm thấp sốt rét nhiều năm và vùng sốt rét lưu hành nhẹ đồng thời với chiến lược phòng chống sốt rét ở các vùng sốt rét lưu hành nặng và vừa.
Mục tiêu cụ thể:
-Giảm tỷ lệ mắc < 0,5/1.000 dân vào năm 2015 (năm 2008 là 0,70/1.000 dân)
-Giảm và duy trì tỷ lệ chết < 0,02/100.000 dân đến năm 2015 (năm 2008 là 0,03/100.000 dân)
-Đến năm 2015 có 50% số tỉnh, thành thực hiện tiền loại trừ và loại trừ sốt rét theo tiêu chuẩn của WHO.
Những nội dung thực hiện tại Hội thảo xây dựng kế hoạch/chiến lược quốc gia phòng chống sốt rét giai đoạn 2011-2015
Từ mục tiêu Chiến lược loại trừ sốt rét trên thế giới và những góp ý của đoàn chuyên gia kỹ thuật Quỹ toàn cầu về chiến lược phòng chống sốt rét ở Việt Nam (2011-2015), Hội thảo đã tập trung xác định tìm ra nguyên nhân vì sao Việt Nam vẫn còn 25 triệu người (chưa tính khoảng 15 triệu dân di biến động khác) vẫn nằm trong vùng sốt rét lưu hành và tìm ra các giải pháp khắc phục các nguyên nhân đó.
Hội thảo đang xây dựng các giải pháp cụ thể nhằm khắc phục những vấn đề tồn tại như tình trạng thiếu màn, tỷ lệ ngủ màn thấp; dân di cư, di biến động, ngủ rừng, qua lại biên giới; phát hiện muộn, chẩn đoán muộn, điều trị chưa đúng; diện bao phủ phòng chống véc tơ không đầy đủ; chất lượng các biện pháp phòng chống véc tơ chưa bảo đảm; người dân vùng sâu/xa khóp tiếp cận các dịch vụ y tế/phòng chống sốt rét và tình trạng thiếu nguồn lực (bao gồm cả nguồn nhân lực và kinh phí thực hiện).
 |
Toàn cảnh Hội thảo |
Sau khi kết thúc Hội thảo các chuyên gia tư vấn của quốc tế cùng với các chuyên gia kỹ thuật của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương tiếp tục hoàn chỉnh bản kế hoạch/chiến lược để kịp thời đệ trình xin Quỹ toàn cầu xem xét tài trợ và bảo vệ trước Bộ Y tế cùng các Bộ/ngành hữu quan để Chiến lược phòng chống sốt rét và loại trừ sốt rét ở Việt Nam tiếp tục thực hiện trong giai đoạn tiếp theo (2011-2015).