Nguy cơ bùng nổ dịch sốt rét ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên
Theo báo cáo đánh giá của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn, bệnh nhân sốt rét (BNSR) toàn khu vực miền Trung-Tây Nguyên năm 2009 tăng 14,61%, trong đó miền Trung tăng 6,18%, Tây Nguyên tăng 26,58%; số trường hợp có ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) toàn khu vực tăng 55,72%, tỷ lệ KSTSR/lam tăng 49,22%, trong đó miền Trung tăng 35,58%, Tây Nguyên tăng 74,68%; sốt rét ác tính (SRAT) tăng 32,94%(113/85), trong đó miền Trung tăng 26,92% (66/52) và Tây Nguyên tăng 42,42%; tử vong sốt rét (TVSR) tăng 14,29% so với cùng kỳ năm 2008.
Điều đáng chú ý là năm 2009 tình hình sốt rét ở khu vực này biến động theo chiều hướng gia tăng trên diện rộng với 8/15 tỉnh/thành phố có BNSR tăng từ 15-77% (Gia Lai, Phú Yên, Bình Thuận, Đăk Lăk, Bình Định, Quảng Trị, Quảng Nam, Khánh Hòa); 13/15 tỉnh/thành phố có tỷ lệ KSTSR tăng từ 30-280% (Quảng Ngãi, Phú Yên, Bình Thuận, Gia Lai, Kon Tum, Đăk Lăk, Bình Định, Khánh Hòa, Quảng Nam, Đăk Nông, Ninh Thuận, Thừa Thiên-Huế, Quảng Trị); 9 tỉnh có tử vong sốt rét trong năm 2009, trong đó Gia Lai (3 ca), Phú Yên (3 ca), Ninh Thuận (3 ca), Đắc Lắk (2 ca); Quảng Bình (1 ca)Quảng Trị (1 ca), Khánh Hòa (1 ca), Kon Tum (1 ca) và Đắc Nông (1 ca).
Đây thực sự là những con số đáng báo động, nhất là sự gia tăng số mắc (BNSR),mầm bệnh (KSTSR) trong khi các véc tơ truyền bệnh chính (muỗi sốt rét Anopheles) đang có xu hướng phục hồi ở nhiều vùng nên khảnăng lan truyền rất cao và nguy cơ bùng nổ dịch sốt rét rất lớn vào các thời điểm đỉnh bệnh năm 2010 (tháng 3-4 và tháng 9-11) nếu không có những biện pháp khống chế kịp thời. Mặc dù các chỉ số sốt rét tăng cao ở nhiều địa phương nhưng nhờ dự báo sớm tình hình và tăng cường các biện pháp phòng chống sốt rét kịp thời nên đã khống chế dịch sốt rét xảy ra.
|
nguyên nhân gia tăng bệnh nhân sốt rét và tử vong sốt rét là do chưa có biện pháp phòng chống sốt rét khả thi cho các nhóm dân di biến động (dân đi rừng, ngủ rẫy, di cư tự do, giao lưu biên giới) |
Về nguyên nhân gia tăng bệnh nhân sốt rét và tử vong sốt rét là do chưa có biện pháp phòng chống sốt rét khả thi cho các nhóm dân di biến động (dân đi rừng, ngủ rẫy, di cư tự do, giao lưu biên giới), người dân chưa có ý thức tự bảo vệ khi sống trong vùng sốt rét lưu hành nặng, nhất là tỷ lệ ngủ màn thấp tạo điều kiện thuận lợi cho sự lan truyền bệnh tự nhiên trên diện rộng vào những thời điểm đỉnh cao của mùa truyền bệnh. Trên 80% các trường hợp tử vong sốt rét hàng năm cũng như năm 2009 đều tập trung từ tháng 7 đến tháng 12 là thời điểm đỉnh cao của mùa truyền bệnh và là thời vụ làm ăn trong vùng sốt rét lưu hành của cộng đồng các dân tộc ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên.Khả năng cắt đứt lan truyền sốt rét còn hạn chế tại khu vực biên giới Việt-Lào (Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế), đặc biệt là ở các đối tượng trẻ em < 15 tuổi, dân địa phương sang Lào làm rẫy/ngủ rẫy dài ngày kể cả người Lào sang biên giới Việt Nam, khó kiểm soát bệnh sốt rét giao lưu qua các đường tiểu ngạch, chưa có đề án hợp tác phòng chống sốt rét khả thi với nước bạn ở các vùng biên giới. Biện pháp cấp thuốc tự điều trị (Stand-by treatment) chưa hiệu quả đối với người đi rừng ngủ rẫy (chỉ đạt 50%), vectơ truyền bệnh chính (An.minimus, An.dirus) có xu hướng phục hồi và mầm bệnh (KSTSR) vẫn chiếm tỷ lệ cao trong dân trong khi các biện pháp phòng chống vectơ như phun hóa chất tồn lưu và tẩm.màn chưa có hiệu quả đối với những đối tượng này.Màng lưới y tế cơ sở (xã, thôn bản) cũng như các điểm kính hiển vi chưa phát hiện sớm và điều trị kịp thời bệnh nhân sốt rét, khả năng cấp cứu sốt rét ác tính của bệnh viện tuyến huyện còn hạn chế cùng với bệnh nhân không đến cơ sở y tế để được khám và điều trị nên dẫn đến các biến chứng muộn, tử vong sốt rét tăng cao.Bệnh viện tuyến huyện chưa đủ khả năng cấp cứu sốt rét ác tính mà chỉ là nơi cấp cứu ban đầu rồi chuyển lên bệnh viện tỉnh nên trên 80% số trường hợp tử vong đều tập trung ở bệnh viện tuyến tỉnh.Các vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới của khu vực miền Trung-Tây Nguyên đều thuộc vùng sốt rét lưu hành nặng có đặc điểm dịch tễ học sốt rét phức tạp thuận lợi cho sự lan truyền tự nhiên bệnh sốt rét.Năm 2009 thời tiết biến động bất thường tạo môi trường thuận lợi cho muỗi truyền bệnh phát triển, trong đó có 13/15 tỉnh miền Trung-Tây Nguyên bị ảnh hưởng trực tiếp bởi hai cơn bão số 9 (Ketsana) và 11 (Mirenae) làm mất hết tác dụng của biện pháp phun tẩm phòng chống véc tơ sốt rét; đặc biệt là các tỉnh có tâm bão đi qua hoặc bị ảnh hưởng bão lụt đến hai lần như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Kon Tum và Gia Lai. Mặc dù chương trình phòng chống sốt rét và các Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng đã hỗ trợ thuốc sốt rét, hóa chất, vật tư và kinh phí phòng chống dịch sốt rét cho các tỉnh bị ảnh hưởng bão lụt thực hiện bổ sung nhưng do diện thiên tai quá lớn và mức độ thiệt hại quá nặng nề nên việc khắc phục còn hạn chế.Ngoài ra cần đề cập đến quy luật phát sinh dịch theo chu kỳ 3-5 năm sau quá trình sốt rét giảm thấp trong vòng 20 năm trở lại đây (1991, 1995, 2000, 2003, 2006, 2009) cùng với tình trạng kinh tế của các cộng đồng dân tộc còn thấp dẫn đếnnguy cơ dịch sốt rét bùng phát trở lại bất cứ lúc nào nếu không có sự kiểm soát kịp thời.
|
Ý thức người dân về bệnh sốt rét chưa cao |
Các hoạt động phòng chống sốt rétđã thực hiện trong năm 2009
Về công tác tổ chức chỉ đạo
Dự báo tình hình sốt rét gia tăng tại các vùng trọng điểm, ngay từ đầu năm 2009 Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn đã đã gửi nhiều Công điện khẩn đến các Sở Y tế, Trung tâm Phòng chống sốt rét/Trung tâm Y tế dự phòng và các bệnh viện tuyến tỉnh cảnh báo nguy cơ sốt rét, chỉ đạo tăng cường các biện pháp phòng chống sốt rét tại các địa phương; đồng thời Lãnh đạo Viện cùng các khoa/phòng liên quan đã trực tiếp chỉ đạo phòng chống sốt rét tại các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đak Lak, Đak Nông, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận. Đặc biệt là Viện đã phối hợp với tỉnh Quảng Trị điều tra xác định nguyên nhân sốt rét gia tăng ở xã Xy thuộc huyện biên giới Hướng Hóa, xã Sơn Liên thuộc huyện Sơn Tây tỉnh Quảng Ngãi và áp dụng các biện pháp can thiệp nhằm ngăn chặn dịch.Viện đã chỉ đạo kịp thời các tỉnh chịu ảnh hưởng nặng nề của 2 cơn bão số 9 và số 11 áp dụng bổ sung các biện pháp điều trị, phòng chống vectơ khống chế nguy cơ xảy dịch tại các tỉnh này đồng thời đề nghị Bộ Y tế, Dự án Quốc gia Phòng chống sốt rét hỗ trợ vật tư, kinh phí phòng chống dịch cho các tỉnh bị ảnh hưởng nặng của cơn bão số 11 nhằm ngăn chặn khả năng bùng nổ dịch sốt rét sau bão lụt. Tổ chức Hội nghị giao ban phòng chống sốt rét, các bệnh ký sinh trùng khu vực miền Trung-Tây Nguyên 6 tháng đầu năm 2009, đánh giá kết quả 6 tháng đầu năm và đề xuất các giải pháp cho 6 tháng cuối năm 2009; dự báo tình hình sốt rét năm 2009 có biến động nên các tỉnh trong khu vực đó chủ động triển khai công tác phòng chống sốt rét kịp thời, các cấp chính quyền địa phương quan tâm chỉ đạo hoạt động phòng chống sốt rét tại các vùng trọng điểm.
Thực hiện sự chỉ đạo của Viện, các tỉnh trong khu vực đã kịp thời thông báo cho các huyện tăng cường biện pháp phòng chống sốt rét, bổ sung các biện pháp can thiệp ở vùng có nguy cơ gia tăng sốt rét như vùng dân di biến động, vùng biên giới, vùng sâu, vùng xa; cấp uỷ Đảng và chính quyền các cấp ở địa phương vẫn duy trì sự quan tâm chỉ đạo PCSR đúng mức, nhất là ở các vùng sốt rét trọng điểm. Màng lưới chuyên khoa sốt rét các tuyến đã chú trọng chỉ đạo nâng cao chất lượng các biện pháp chuyên môn kỹ thuật trong các chiến dịch PCSR và tích cực khống chế các vùng sốt rét có biến động (các khu vực có dân di cư tự do, đi rừng, ngủ rẫy và giao lưu biên giới) vào những lúc chịu ảnh hưởng xấu của thiên tai, bão lụt; màng lưới y tế cơ sở (y tế huyện, xã, thôn, bản, điểm kính hiển vi) đã tham gia tích cực các hoạt động kiểm soát sốt rét, tuy nhiên công tác phát hiện điều trị sớm và quản lý bệnh nhân sốt rét tại cơ sở còn nhiều khó khăn, nhất là vùng biên giới Việt Lào thuộc tỉnh Quảng Trị do chưa có sự hợp tác biên giới trong kiểm soát sốt rét.
 |
Công tác phòng chống sốt rét còn gặp nhiều khóa khăn do nhà dân còn ở xa, không tập trung và rừng núi hiểm trở |
Giám sát dịch tễ sốt rét và phòng chống dịch
Viện đã phối hợp với các tỉnh trong khu vực tổ chức nhiều đoàn giám sát dịch tễ sốt rét tại các vùng sốt rét trọng điểm và các vùng có nguy cơ sốt rét cao để đánh giá tình hình sốt rét, đề xuất giải pháp và khống chế nguy cơ sốt rét gia tăng. Năm 2009 đó tập trung giám sát tình hình sốt rét của các vùng trọng điểm, vùng biên giới đề xuất các biện pháp khống chế gia tăng mắc và xảy dịch. Tăng cường chỉ đạo nâng cao chất lượng các biện pháp PCSR và bổ sung các biện pháp phun tồn lưu hóa chất, tẩm màn và điều trị bệnh nhân ở những vùng có nguy cơ xảy dịch cao, nhất là vào thời gian chịu ảnh hưởng của bão lụt. Công tác giám sát dịch tễ vùng trọng điểm và chế độ giao ban hàng tháng từ dưới lên giữa xã, huyện, tỉnh được duy trì thường xuyên, nhờ đó thông tin được phân tích, kịp thời khống chế gia tăng sốt rét và nguy cơ xảy dịch. Nhiều tỉnh trong khu vực cũng đã chỉ đạo các tuyến xây dựng hệ thống dự báo dịch sớm, bước đầu phát huy vai trò trong công tác giám sát dịch tễ.
Các địa phương gửi báo cáo sốt rét về Viện đúng thời gian quy định do đó Viện đã báo cáo kịp thời cho Bộ Y tế và phản hồi cho các địa phương. Viện đã hoàn thành nâng cấp phần mềm Quản lý sốt rét theo yêu cầu của sự thay đổi biểu mẫu thống kê báo cáo, và đã tổ chức hướng dẫn cho cán bộ dịch tễ và thống kê của các tỉnh trong khu vực triển khai thực hiện. Phối hợp với các Viện sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng và các tỉnh trong khu vực thực hiện phân vùng dịch tễ & thực hành phòng chống sốt rét năm 2009; xây dựng chiến lược phòng chống và loại trừ sốt rét (2010-2015) và tầm nhìn 2020 và đề xuất chiến lược
Phòng chống vectơ
Viện đã cung cấp hoá chất phun tẩm cả năm, đảm bảo cho các tỉnh triển khai đúng kế hoạch phun tồn lưu bảo vệ cho 610.127 người, tẩm 1.495.163 màn bảo vệ cho 2.950.015 người; tuy nhiên hầu hết các vùng bị ảnh hưởng bão lụt trong các tháng cuối năm không còn tác dụng phòng chống véc tơ đã được cấp bổ sung hóa chất cho các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên, Ninh Thuận, Khánh Hòa, Gia Lai và Kon Tum kịp thời tăng cường biện pháp phòng chống véc tơ bổ sung khống chế lan truyền sốt rét và nguy cơ xảy dịch..
Chẩn đoán, điều trị và quản lý thuốc sốt rét
Viện đã cấp 250.500 liều thuốc sốt rét các loại theo kế hoạch năm 2009, đáp ứng yêu cầu điều trị bệnh nhân sốt rét của các cơ sở y tế trong khu vực, đặc biệt là thuốc sốt rét được cấp đến y tế thôn bản giúp cho công tác điều trị sớm bệnh nhân cũng như cấp tự điều trị cho các đối tượng làm ăn xa cơ sở y tế trong các vùng sốt rét lưu hành theo chỉ định.
Các tỉnh đã chỉ đạo tăng cường phát hiện sớm, điều trị kịp thời, phát huy hiệu quả hoạt động của các điểm kính hiển vi nhằm hạn chế sốt rét ác tính và tử vong do sốt rét. Trong 6 tháng đầu năm có 3 tỉnh không gửi lam kiểm tra kỹ thuật là Ninh Thuận, Kon Tum và Đăk Lắc; tuy nhiên 6 tháng cuối năm tất cả các tỉnh đều có gửi lam kiểm tra kỹ thuật Tỷ lệ gửi lam kiểm tra kỹ thuật chỉ đạt 36,72% theo yêu cầu số lam phải gửi, trong đó số lam (+) chỉ gửi 11,99% so với tổng số lam (+) đã được thống kê. Tỷ lệ sai sót chung theo hệ thống kiểm tra kỹ thuật là 0,07%; miền Trung sai sót 0,07%, Tây Nguyên sai sót 0,10%.
 |
Năm 2009 công tác hoạt động truyền thông giáo dục và xã hội hóa PCSR bước đầu có hiệu quả |
Truyền thông giáo dục và xã hội hoá PCSR
Hiệu quả truyền thông giáo dục và xã hội hóa phòng chống sốt rét là một trong những yếu tố bền vững nên được chú trọng triển khai bằng nhiều hình thức, các tỉnh miền Trung-Tây Nguyên tổ chức nói chuyện, phát thanh, thảo luận nhóm 81.025 lần cho 12.283.581 lượt người nghe; truyền thông trực tiếp tại hộ gia đình 10.338 lần cho 17.516 lượt người nghe; chiếu Video và biểu diễn văn nghệ 1.297 buổi cho 7.165.142 lượt người xem; phát 1.340 tranh và tờ rơi, xây dựng 16 pano truyền thông PCSR tại các vùng trọng điểm, vùng sâu, vùng xa và vùng có nguy cơ sốt rét cao. Mỗi tỉnh chọn một huyện trọng điểm để tổ chức ra quân thực hiện chiến dịch phòng chống sốt rét nhân ngày sốt rét thế giới 25-4 đã mang lại nhiều hiệu quả thiết thực trong việc nâng cao ý thức phòng chống sốt rét của cộng đồng.
Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn tiến hành tổ chức Hội thi nâng cao kiến thức phòng chống sốt rét tại huyện Hướng Hóa (Quảng Trị), Huyện Vân Canh (Bình Định), huyện Đakglấp (Đak Nông), tổ chức phát động chiến dịch truyền thông phòng chống sốt rét nhân ngày sốt rét thế giới 25-4 tại huyện Buôn Đôn (Đak Lak).
Đào tạo và đào tạo lại
Viện tiếp tục đào tạo 3 lớp Trung học xét nghiệm cạnh Viện. Tổ chức thi tốt nghiệp cho Khóa 30; phối hợp với Khoa Y Dược-Trường Đại học Tây Nguyên giảng dạy chuyên ngành ký sinh trùng và hướng dẫn các học viên cao học chuyên ngành ký sinh trùng và côn trùng. Tổ chức 1 lớp tập huấn nâng cao kỹ thuật cho cán bộ côn trùng tuyến tỉnh theo nguồn kinh phí Dự án Quốc gia PCSR và 14 lớp đào tạo lại về quản lý sốt rét tuyến huyện theo nguồn kinh phí của Dự án Quỹ toàn cầu PCSR; 1 lớp huấn luyện và thực hành ứng dụng phần mềm quản lý sốt rét (MMS) sau khi được nâng cấp.
Các tỉnh trong khu vực đã tiến hành đào tạo 1.028 lớp cho 24.955học viên là cán bộ y tế cơ sở xã, thôn bản, cán bộ điều trị tại bệnh viện, xét nghiệm viên các tuyến nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tại địa phương.
Nghiên cứu khoa học, công nghệ thông tin và hợp tác quốc tế
Các đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, cấp cơ sở và hợp tác quốc tế chủ yếu tập trung giải quyết các vấn đề tồn tại, bức xúc trong phòng chống sốt rét hiện nay như xác định cơ cấu ký sinh trùng sốt rét và sự phân bố ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên, nghiên cứu mô hình thí điểm thanh toán bệnh sốt rét ở quy mô tuyến huyện, nghiên cứu ký sinh trùng sốt rét (P.falciparum, P.vivax) kháng thuốc và đánh giá hiệu lực phác đồ phối hợp (ACT) trong điều trị sốt rét; xác định các loài véc tơ truyền bệnh sốt rét bằng kỹ thuật sinh học phân tử và mối quan hệ phả hệ trong phân loại các loài muỗi sốt rét trên cơ sở phân tích gen, đánh giá tình hình nhạy kháng của một số loài Anopheles đỗi với hóa chất diệt muỗi đang sử dụng hiện nay; nghiên cứu tỷ lệ nhiễm sán lá gan nhỏ, tỷ lệ nhiễm giun móc/mỏ và các yếu tố nguy cơ liên quan đến tỷ lệ nhiễm bệnh; tham gia Hội nghị khoa học chuyên ngành ký sinh trùng nhân 100 năm ngày sinh của Giáo sư Đặng Văn Ngữ tại Trường Đại học Y khoa Huế.
Ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin trong phạm vi chuyên ngành, đặc biệt là hiệu quả của Trang tin điện tử (Website) trong truyền thông giáo dục phòng chống sốt rét, phòng chống các bệnh ký sinh trùng & côn trùng, nghiên cứu khoa học.
Tiếp tục hợp tác với Quỹ toàn cầu phòng chống sốt rét (VGF), Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Ủy ban Y tế Hà Lan-Việt Nam (MCNV) triển khai các hoạt động nghiên cứu và phòng chống sốt rét theo kế hoạch; phối hợp với Viện nghiên cứu sốt rét Quân đội Australia (AAMI) và Viện Vệ sinh phòng dịch quân đội (MIHE) nghiên cứu về ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc.
Quản lý chương trình phòng chống sốt rét
Viện đã cung cấp đủ thuốc sốt rét, vật tư, hóa chất theo kế hoạch cho các địa phương kịp thời triển khai các đợt chiến dịch phòng chống chống sốt rét trong năm; đồng thời cử nhiều đoàn xuống các tỉnh kiểm tra, giám sát việc quản lý sử dụng và thanh quyết toán để đảm bảo hiệu quả triển khai bảo vệ cộng đồng.
Năm 2009 khu vực miền Trung-Tây Nguyên có 13/15 tỉnh chịu ảnh hưởng nặng nề bởi hai cơn bão số 9 (ketsana) và số 11 (Mirenae), đặc biệt là các tỉnh có tâm bão đi qua (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Kon Tum, Bình Định, Phú Yên) và các tỉnh bị bão lụt đến hai lần (Bình Định, Gia Lai) làm thiệt hại nặng nề về người và tài sản, trong đó các biện pháp phòng chống sốt rét vừa thực hiện bị cuốn trôi hết như màn tẩm cũng như hóa chất phun tồn lưu trên tường vách chống muỗi, nguy cơ bùng nổ dịch sốt rét ở các tỉnh này rất cao trên nền sốt rét đã gia tăng từ trước; Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn đã kịp thời kiểm tra và báo cáo Bộ Y tế, Dự án quốc gia PCSR hỗ trợ thuốc sốt rét (Arterakin/CV Artecan viên, Artesunat tiêm), màn tẩm, hóa chất phun tồn lưu, vật tư (kính hiển vi, bình bơm) và kinh phí phòng chống dịch trị giá khoảng 1,5 tỷ đồng giúp các tỉnh bị ảnh hưởng nặng bởi bão lụt thực hiện các biện pháp phòng chống sốt rét bổ sung.
Các giải pháp khống chế sốt rét trong năm 2010
Qua số liệu thống kê tháng 1/2010, các chỉ số sốt rét ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên vẫn tiếp tục gia tăng, dự báo sẽ tăng cao và có khả năng bùng nổ thành dịch vào các thời điểm đỉnh cao của mùa truyền bệnh sốt rét (tháng 4-6 và 9-11).
Mục tiêu của công tác phòng chống sốt rét năm 2010 là tiếp tục đẩy lùi bệnh sốt rét ở các vùng có nguy cơ cao, vùng sốt rét lưu hành nặng và phát triển các yếu tố bền vững nhằm ngăn chặn sốt rét quay trở lại. Giảm mắc sốt rét 5% so với 2009, năm 2010 còn 1,900/00 DSC; giảm chết sốt rét 5% so với 2009, năm 2010 còn 0,0760/00 DSC và ngăn chặn không để dịch sốt rét xảy ra, nếu có dịch phải dập tắt kịp thời; tiếp tục đẩy mạnh phát triển các yếu tố bền vững và xã hội hóa phòng chống sốt rét nhằm ngăn chặn sốt rét quay trở lại, duy trì thành quả phòng chống sốt rét lâu dài.
Các chỉ tiêu thực hiện: dân số được bảo vệ bằng hóa chất diệt muỗi: 3.879.000 người, trong đó bảo vệ bằng phun hóa chất tồn lưu 680.300 người, bảo vệ bằng màn tẩm hóa chất 3.198.700 người, số lượt người được điều trị sốt rét 280.000 người, số lam máu phát hiện 950.000 người. Trọng tâm hoạt động phòng chống sốt rét trong năm 2010 tập trung vào các hoạt động ưu tiên như sau:
Chỉ đạo và giám sát dịch tễ sốt rét
Chỉ đạo triển khai kế hoạch phòng chống sốt rét phù hợp với đặc thù của từng địa phương, tăng cường kiểm tra, giám sát dịch tễ sốt rét các vùng trọng điểm để phát hiện và xử lý, kịp thời ngăn chặn sốt rét gia tăng và bùng nổ thành dịch, hạn chế tử vong sốt rét ở các đối tượng di biến động khó kiểm soát (dân di cư tự do, đi rừng, ngủ rẫy, giao lưu biên giới). Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động giám sát dịch tễ của tuyến huyện, tuyến xã và các điểm kính hiển vi; duy trì họp giao ban hàng tháng ở tuyến cơ sở để nắm bắt tình hình sốt rét kịp thời giúp cho công tác chỉ đạo và phòng chống sốt rét có hiệu quả.
Tăng cường hiệu quả kết hợp quân dân y trong phòng chống sốt rét nhất là tại các vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Nâng cao chất lượng hệ thống báo cáo thống kê sốt rét đảm bảo nhanh chóng, chính xác, đặc biệt là ứng dụng phần mềm quản lý sốt rét MMS (Malaria Management System) có hiệu quả trong dự báo dịch sốt rét ở tuyến tỉnh và triển khai thực hiện ở một số huyện trọng điểm sốt rét có nguy cơ xảy dịch cao.
 |
chất lượng phun tẩm trong các đợt triển khai chiến dịch phòng chống véc tơ được nâng cao |
Giám sát và phòng chống véc tơ
Chỉ định phun tẩm hóa chất trên cơ sở phân vùng dịch tễ sốt rét & can thiệp và đảm bảo độ bao phủ theo kế hoạch được giao, nâng cao chất lượng kỹ thuật phun tẩm hóa chất bằng cách tập huấn kỹ thuật cho y tế cơ sở; tổ chức phối hợp kiểm tra, giám sát chất lượng phun tẩm trong các đợt triển khai chiến dịch phòng chống véc tơ.
Tuyên truyền vận động nhân dân nằm màn, đi rừng/ngủ rẫy phải mang theo màn nằm để bảo vệ cá nhân; cán bộ côn trùng tuyến tỉnh tiến hành giám sát véc tơ sốt rét ở các vùng trọng điểm, vùng có di biến động dân, đánh giá tác dụng tồn lưu hóa chất diệt muỗi trên màn và trên tường vách ở các vùng trọng điểm sốt rét để có biện pháp xử lý kịp thời và đề xuất biện pháp phòng chống véc tơ có hiệu quả.
Quản lý, sử dụng và bảo quản tốt bình phun, hóa chất diệt muỗi tránh thất thoát hư hỏng, xử lý bao bì đựng hóa chất diệt muỗi sau khi phun tẩm theo đúng quy định.
Giám sát và điều trị sốt rét
Tăng cường công tác kiểm tra và giám sát điều trị sốt rét ở các tuyến bệnh viện tỉnh, huyện, trạm y tế xã và điểm kính hiển vi ở các vùng trọng điểm sốt rét; cấp thuốc sốt rét tự điều trị đầy đủ cho đối tượng đi rừng, ngủ rẫy khi đi xa cơ sở y tế nhiều ngày; phát hiện sớm và điều trị sốt rét kịp thời cho các nhóm dân di biến động.
Cử đoàn điều trị phối hợp với các tuyến bệnh viện có tử vong sốt rét cao tìm nguyên nhân tử vong sốt rét, giải pháp nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều trị sốt rét để hạn chế tử vong sốt rét.
Tăng cường công tác quản lý, phân phối, sử dụng và bảo quản thuốc sốt rét; đảm bảo cung cấp đầy đủ thuốc sốt rét miến phí đến tận thôn bản; tổ chức tập huấn phác đồ chẩn đoán và điều trị sốt rét của Bộ Y tế mới ban hành.
Truyền thông giáo dục-xã hội hóa phòng chống sốt rét
Đẩy mạnh công tác truyền thông giáo dục-xã hội hóa phòng chống sốt rét (TTGD-XHHPCSR) bằng các phương tiện và hình thức phù hợp với từng địa phương, phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động của màng lưới truyền thông viên, phối hợp có hiệu quả với các đoàn thể, ban ngành địa phương để phát động chiến dịch TTGD-XHHPCSR; tổ chức rộng rãi hội thi kiến thức PCSR và truyền hình trực tuyến về phòng chống sốt rét ở các vùng trọng điểm sốt rét, vùng sâu, vùng xa; cung cấp đầy đủ các tài liệu, tranh ảnh, băng cassette, băng video về phòng chống sốt rét cho các tuyến.
Viện phối hợp với tỉnh Thừa Thiên-Huế tổ chức lễ phát động truyền thông ngày sốt rét thế giới 25-4-2010 tại huyện Hương Điền nhân 100 năm ngày sinh của GS. Đặng Văn Ngữ, hỗ trợ hai tỉnh Bình Định và Gia Lai tổ chức Hội thi kiến thức phòng chống sốt rét tại một số xã vùng sâu, vùng xa.
Nâng cao chất lượng đào tạo và đào tạo lại về phòng chống sốt rét
Đào tạo Kỹ thuật viên Trung học xét nghiệm theo chỉ tiêu của Bộ Y tế và Bộ Giáo dục-Đào tạo giao (80 chỉ tiêu chính quy và 40 chỉ tiêu vừa học vừa làm), hoàn tất thủ tục nâng cấp Khoa Đào tạo thành Trường Trung cấp kỹ thuật xét nghiệm khu vực miền Trung-Tây Nguyên. Phối hợp với các trường đại học, các viện nghiên cứu trong cả nước đào tạo đại học và sau đại học chuyên ngành ký sinh trùng.
Đào tạo lại hoặc tập huấn ngắn hạn cho màng lưới cán bộ các tuyến về dịch tễ học sốt rét, côn trùng sốt rét, chẩn đoán và điều trị sốt rét, kỹ thuật xét nghiệm ký sinh trùng sốt rét, kỹ năng truyền thông giáo dục phòng chống sốt rét theo kế hoạch của Dự án quốc gia PCSR, Dự án Quỹ toàn cầu PCSR và Tổ chức Y tế thế giới (WHO).
Nghiên cứu khoa học, công nghệ thông tin và hợp tác quốc tế
Các đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, cấp cơ sở và hợp tác quốc tế chủ yếu tập trung giải quyết các vấn đề tồn tại, bức xúc trong phòng chống sốt rét hiện nay như xác định cơ cấu ký sinh trùng sốt rét và sự phân bố ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên, nghiên cứu mô hình thí điểm thanh toán bệnh sốt rét ở quy mô tuyến huyện, nghiên cứu ký sinh trùng sốt rét (P.falciparum, P.vivax) kháng thuốc và đánh giá hiệu lực phác đồ phối hợp (ACT) trong điều trị sốt rét; xác định các loài véc tơ truyền bệnh sốt rét bằng kỹ thuật sinh học phân tử và mối quan hệ phả hệ trong phân loại các loài muỗi sốt rét trên cơ sở phân tích gen, đánh giá tình hình nhạy kháng của một số loài Anopheles đỗi với hóa chất diệt muỗi đang sử dụng hiện nay; nghiên cứu tỷ lệ nhiễm sán lá gan nhỏ, tỷ lệ nhiễm giun móc/mỏ và các yếu tố nguy cơ liên quan đến tỷ lệ nhiễm bệnh; tham gia Hội nghị khoa học chuyên ngành ký sinh trùng nhân 100 năm ngày sinh của Giáo sư Đặng Văn Ngữ tại Trường Đại học Y khoa Huế.
Ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin trong phạm vi chuyên ngành, đặc biệt là hiệu quả của Trang tin điện tử (Website) trong truyền thông giáo dục phòng chống sốt rét, phòng chống các bệnh ký sinh trùng & côn trùng, nghiên cứu khoa học.
Tiếp tục hợp tác với Quỹ toàn cầu phòng chống sốt rét (VGF), Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Ủy ban Y tế Hà Lan-Việt Nam (MCNV) triển khai các hoạt động nghiên cứu và phòng chống sốt rét theo kế hoạch; phối hợp với Viện nghiên cứu sốt rét Quân đội Australia (AAMI) và Viện Vệ sinh phòng dịch quân đội (MIHE) nghiên cứu về ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc.
Quản lý thuốc sốt rét, hóa chất, vật tư, kinh phí phòng chống sốt rét
Cung cấp đầy đủ và kịp thời thuốc sốt rét, hóa chất phun tẩm và vật tư phòng chống sốt rét để các tỉnh kịp triển khai các chiến dịch phòng chống sốt rét theo kế hoạch; tổ chức kiểm tra, giám sát việc sử dụng thuốc sốt rét, hóa chất, vật tư và kinh phí phòng chống sốt rét ở các tuyến.
Thực hiện tốt công tác quản lý và báo cáo vật tư, kinh phí phòng chống sốt rét theo quy định của Dự án quốc gia phòng chống sốt rét; báo cáo quyết toán thuốc, hóa chất và vật tư đúng hạn, sử dụng đúng kinh phí được cấp, không để thuốc sốt rét và hóa chất quá hạn, kém phẩm chất hoặc thất thoát.
Xây dựng kế hoạch phòng chống sốt rét hàng năm từ địa phương phải sát và phù hợp với nhu cầu thực tế, tránh tình trạng thừa thiếu gây lãng phí và đảm bảo gửi kế hoạch phòng chống sốt rét hàng năm đúng thời gian quy định.
Thống nhất cơ cấu phân bổ nguồn kinh phí chương trình phòng chống sốt rét cũng như nguyên tắc làm việc của Ban chủ nhiệm chương trình phòng chống sốt rét để việc triển khai thực hiện kế hoạch phòng chống sốt rét hàng năm phù hợp với thực tế và đạt hiệu quả mong muốn.