Ngày 25/9/2009 tại Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương, Ban Chủ nhiệm dự án Quốc gia PCSR đã tổ chức duyệt kế hoạch phòng chống sốt rét năm 2009 và điều chỉnh biểu mẫu thống kê sốt rét phù hợp với giai đoạn hiện nay. Thành phần tham dự có Lãnh đạo và chuyên viên Phòng Kế hoạch tổng hợp, Phòng Tài chính kế toán của 3 Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng.
Các yêu cầu lập kế hoạch:
Theo hướng dẫn của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương, công tác lập kế hoạch phòng chống sốt rét năm 2009 phải đảm bảo sát nhu cầu thực tế về số lượng đối tượng có nguy cơ nhiễm sốt rét, các vùng trọng điểm sốt rét; đảm bảo cung cấp đủ thuốc miễn phí đến bệnh nhân, không để tình trạng thừa hoặc thiếu thuốc sốt rét ở các tuyến; đảm bảo độ bao phủ và chất lượng phòng chống véc tơ cho các đối tượng có nguy cơ cao; tăng cường giám sát dịch tễ, giáo dục truyền thông phòng chống sốt rét đối tượng đích và đào tạo lại về phòng chống sốt rét cho tuyến y tế cơ sở (xã, thôn bản). Chỉ định đúng các biện pháp chuyên môn, kỹ thuật của Dự án quốc gia PCSR.Thực hiện các mục chi đúng theo Thông tư liên tịch số 147/2007/TTLT-BTC-BYT ngày 12/12/2007 của Bộ Tài chính và Bộ Y tế về hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm và HIV/AIDS giai đoạn 2006-2010.
Trên cơ sở hướng dẫn này các địa phương và Bộ/ngành căn cứ vào kết quả “Phân vùng dịch tễ sốt rét và can thiệp” để thống kê chính xác các số huyện, số xã, số thôn bản, số dân nằm trong vùng sốt rét lưu hành nặng và vừa; số dân thường giao lưu vào vùng sốt rét và các đối tượng có nguy cơ nhiễm sốt rét cao để lập kế hoạch. Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương đưa ra các định mức kinh phí hỗ trợ hoạt động phòng chống sốt rét năm 2009:
- Kinh phí hỗ trợ giám sát dịch tễ sốt rét chủ yếu chi cho cán bộ tuyến trung ương và tuyến tỉnh làm công tác phòng chống sốt rét ở thực địa bao gồm cả chỉ đạo địa phương, điều tra, giám sát dịch tễ sốt rét, giám sát côn trùng sốt rét và chi phí thuê mướn xăng, xe…
 |
Hỗ trợ hoạt động truyền thông tại tuyến xã biên tập 50.000đ/trang/350 từ, phát thanh 50.000đ/lần. |
- Kinh phí giám sát sốt rét tuyến huyện chủ yếu chi cho cán bộ Trung tâm Y tế huyện vùng sốt rét nặng và vừa đi chỉ đạo giúp đỡ tuyến y tế cơ sở đóng trên địa bàn triển khai phòng chống sốt rét, giám sát dịch tễ, giám sát côn trùng… mỗi huyện 5 người ´ 25.000đ/ngày ´ 10 ngày = 15.000.000đ.
- Bồi dưỡng cán bộ xét nghiệm lam máu tìm KSTSR 1000đ/lam
- Bồi dưỡng người làm mồi bắt muỗi 50.000đ/người/đêm.
- Bồi dưỡng cho người trực tiếp phun, tẩm hóa chất 50.000đ/người/công
- Hỗ trợ tiền tàu xe cho cán bộ y tế xã, thôn bản lên huyện tập huấn.
- Hỗ trợ mỗi xã trọng điểm sốt rét thuộc vùng sốt rét lưu hành nặng và vừa 1 định xuất 100.000đ/tháng/xã ´ 12 tháng.
- Hỗ trợ điểm kính hiển vi đang hoạt động 100.000đ/1 điểm kính/tháng ´ 12 tháng
- Hỗ trợ hoạt động truyền thông tại tuyến xã biên tập 50.000đ/trang/350 từ, phát thanh 50.000đ/lần.
- Hỗ trợ người trực tiếp tham gia đội tuyên truyền cơ động trong các đợt chiến dịch 25.000đ/người/ngày.
- Hỗ trợ y tế thôn bản vùng sốt rét lưu hành nặng và vừa 50.000đ/tháng/thôn ´ 12 tháng.
Các khó khăn trong quá trình duyệt kế hoạch và bàn luận một số giải pháp tháo gỡ:
Tổng kinh phí chương trình quốc gia phòng chống sốt rét được duyệt cho năm 2009 là 85 tỷ đồng, tuy nhiên các mục chi lại quá lớn so với dự toán được duyệt như kinh phí mua hóa chất phun/tẩm, thuốc sốt rét, vật tư phòng chống sốt rét; kinh phí nghiên cứu khoa học, kinh phí đào tạo, học tập nghiên cứu, thông tin tuyên truyền, thi đua khen thưởng, hỗ trợ Báo Sức khỏe đời sống; kinh phí vận chuyển bảo quản hóa chất thuốc, vật tư; kinh phí chống dịch và kinh phí chi trả các định mức theo Thông tư 147 nêu trên.
|
Các mục chi kinh phí mua hóa chất phun/tẩm, thuốc sốt rét, vật tư phòng chống sốt rét...lại quá lớn so với dự toán được duyệt cho năm 2009 là 85 tỷ đồng(ảnh minh họa) |
1. Chỉ tiêu phòng chống sốt rét:
Trong bối cảnh tình hình sốt rét có xu hướng giảm thấp nhưng chưa mang tính bền vững và nguy cơ sốt rét còn cao, chỉ tiêu giảm chết hàng năm từ 5-10% là không thực tế với những tỉnh trọng điểm vì năm trước không có tử vong, nhưng năm sau tử vong có thể xảy ra bất cứ lúc nào, hơn nữa mỗi bệnh đều có số dao động tử vong ở mức độ cho phép; chỉ tiêu giảm mắc 5-10% cũng chưa thực sự thuyết phục ở những vùng sốt rét luôn có biến động.
Theo chúng tôi cần có sự tổng kết đánh giá lại kết quả thực hiện chỉ tiêu phòng chống sốt rét của từng giai đoạn: chuẩn bị (1977-1980), thanh toán sốt rét (1980-1990), phòng chống sốt rét giai đoạn sau sốt rét quay trở lại (1991-2000) và giai đoạn sốt rét ổn định (2001-2008) để đưa ra các chỉ tiêu phòng chống sốt rét xác đáng, có cơ sở khoa học và phù hợp với giai đoạn hiện nay; nên chăng có thể đề nghị Bộ Y tế đặtchỉ tiêu phòng chống sốt rét cho từng giai đoạn 3-5 năm thay vì đặt chỉ tiêu hàng năm thì việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia sẽ thực tế và hiệu quả hơn.
2. Nguồn kinh phí mua hóa chất, thuốc, vật tư phòng chống sốt rét và các nguồn chi hoạt động khác: 60%
|
Bồi dưỡng người làm mồi bắt muỗi 50.000đ/người/đêm |
Kinh phí mua hóa chất phun, tẩm màn phòng chống muỗi đốt chiếm đến 34% so với tổng kinh phí được cấp mặc dù Ban chủ nhiệm Dự án đã cố gắng giảm số diện phun tẩm cũng như dân số bảo vệ xuống gần 500.000 người. Theo chúng tôi biện pháp phòng chống véc tơ là hết sức quan trọng nhằm hạn chế sự lan truyền sốt rét, trong giai đoạn hiện nay sốt rét đã giảm thấp ở nhiều vùng việc cung cấp hóa chất phòng chống véc tơ không nên dàn trải, mà chỉ nên tập trung cho những vùng sốt rét trọng điểm hoặc các vùng có nguy cơ cao như Tây Nguyên, miền Trung, miền Đông Nam bộ, các tỉnh khu IV cũ và một số tỉnh miền núi phía Bắc thì sẽ tiết kiệm được kinh phí mua hóa chất phun, tẩm để chuyển sang thực hiện các yếu tố bền vững (củng cố điểm kính hiển vi, đào tạo màng lưới y tế cơ sở, truyền thống giáo dục nâng cao ý thức tự bảo vệ của người dân khi sống trong vùng sốt rét…).
Kinh phí mua thuốc sốt rét chiếm khoảng 8% so với tổng kinh phí được cấp do hiện nay tình hình sốt rét có xu hướng giảm nên các tỉnh cũng chủ động giảm nguồn dự toán thuốc sốt rét xuống từ 20-30% so với năm trước. Tuy nhiên việc duy trì một cơ số thuốc điều trị ở tất cả các tuyến là hết sức quan trọng để đảm bảo cho việc điều trị bệnh nhân sốt rét, tự điều trị (stand-by treatment) ở những vùng có nguy cơ cao và nguồn thuốc dự trữ phòng chống dịch ở những nơi có tình hình sốt rét biến động, khó kiểm soát, thiên tai bão lụt và nguy cơ xảy dịch cao.
 |
Hỗ trợ người trực tiếp tham gia đội tuyên truyền cơ động trong các đợt chiến dịch 25.000đ/người/ngày. |
Kinh phí mua vật tư phòng chống sốt rét (bình phun, kính hiển vi, dụng cụ và hóa chất xét nghiệm) chiếm tỷ lệ thấp khoảng 3,5%; kinh phí đào tạo, nghiên cứu khoa học, truyền thông giáo dục, khen thưởng, vận chuyển bảo quản, phòng chống dịch và kinh phí khác chiếm 14,5%
3. Nguồn kinh phí chi cho các định mức theo Thông tư 147: 40%
Nguồn chi cho các định mức theo Thông tư 147 (giám sát tuyến huyện, xã trọng điểm, thôn trọng điểm, y tế thôn bản đi tập huấn, giám sát dịch tễ sốt rét, soi lam xét nghiệm, mồi người bắt muỗi, hỗ trợ phun tẩm hóa chất, hỗ trợ điểm kính hiển vi) chiếm khoảng 40% so với tổng kinh phí được cấp. Tuy nhiên để tính toán chi trả cho hết các đối tượng được hưởng ở các địa phương là hết sức khó khăn, nhất là một số khoản chi quá cao trên diện rộng như công phun/tẩm (50.000đ), công bắt muỗi (50.000đ), công giám sát dịch tễ (25.000đ); đặc biệt là chi trả cho các thôn trọng điểm, xã trọng điểm, huyện trọng điểm và hỗ trợ các điểm kính hiển vi hoạt động ở các vùng sốt rét nặng và vừa.
 |
Tính toán chi trả cho hết các đối tượng được hưởng ở các địa phương là hết sức khó khăn, nhất là một số khoản chi quá cao trên diện rộng(ảnh minh họa) |
Trong quá trình duyệt kế hoạch năm 2009, Ban chủ nhiệm chương trình tính toán số xã sốt rét nặng và vừa trên cơ sở số liệu “Phân vùng sốt rét và thực hành” năm 2003 của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương, chắc chắn sẽ có sự chênh lệch lớn với số xã trọng điểm từ đề nghị của các địa phương, nên việc chi trả chế độ theo định mức theo Thông tư 147 sẽ còn gặp không ít khó khăn do nguồn kinh phí cấp từ chương trình quốc gia có hạn; đòi hỏi các đơn vị cần chủ động tự cân đối trên cơ sở nguồn kinh phí được cấp và đề nghị chính quyền địa phương hỗ trợ thêm.
Điều chỉnh biểu mẫu thống kê phòng chống sốt rét và một số công tác khác:
Cùng với duyệt kế hoạch phòng chống sốt rét năm 2009, lãnh đạo và chuyên viên các Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng còn thống nhất điều chỉnh biểu mẫu thống kê sốt rét cho các tuyến (tỉnh, huyện, xã) phù hợp với giai đoạn phòng chống sốt rét hiện nay dựa trên cơ sở các chỉ số tại Hội nghị Côn Minh (Trung Quốc) và yêu cầu báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO). Nguyên tắc điều chỉnh vẫn dựa trên nền các biểu mẫu thống kê trước đây để các tuyến dễ thực hiện và chỉ bổ sung thêm các mục hoặc các chỉ số phù hợp.
Trong bối cảnh bệnh sốt rét có chiều hướng giảm thấp, việc phòng chống các bệnh ký sinh trùng và các bệnh do véc tơ truyền chưa được đầu tư rõ ràng, trong khi Luật phòng chống bệnh truyền nhiễm đã được ban hành; Lãnh đạo các Viện cũng đã thống nhất trên nguyên tắc nên đổi tên Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng thành Viện nghiên cứu các bệnh nhiệt đới hoặc Viện y học nhiệt đới để phù hợp với chức năng nhiệm vụ hoạt động cũng như hợp tác quốc tế trong giai đoạn hiện nay. Các Viện sẽ viết bản đề án đề xuất tên Viện sau đó sẽ có cuộc họp Lãnh đạo giữa 3 Viện thống nhất tên chính thức trước khi trình Bộ Y tế và các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Sau khi tên mới của các Viện được chấp nhận, hệ thống chuyên khoa sốt rét các tỉnh cũng sẽ được đề nghị đổi tên cho cho phù hợp với tình hình mới.