Tình hình bệnh sán lá gan lớn ở Việt Nam có vẻ lắng dịu trong các tháng đầu năm 2010 là do nguồn thuốc điều trị đặc hiệu (triclabendazole) đã được cung cấp đầy đủ đến các cơ sở y tế, tuy nhiên sự “yên ả” này của bệnh sán lá gan lớn không mang tính bền vững và có nguy cơ bùng phát bất cứ lúc nào, nhất là ở các tỉnh có tỷ lệ nhiễm bệnh cao thuộc khu vực miền Trung-Việt Nam. Để đầu tư phòng chống bệnh tích cực cho cộng đồng, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn đã phối hợp với Viện Công nghệ sinh học và Viện Lâm sàng nhiệt đới Leopold thuộc Vương quốc Bỉ (Prince Leopold Institute Tropical Medicine, Department of Animal Health-Belgium) xây dựng một Dự án hợp tác quốc tế dài năm để đầu tư nghiên cứu và phòng chống bệnh này ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên.
Dự án hợp tác quốc tế về nghiên cứu dịch tễ học phân bố, môi trường nhiễm bệnh và phòng chống bệnh sán lá gan lớn ở người và động vật thuộc khu vực miền Trung-Việt Nam giữa Viện Công nghệ sinh học, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn và Viện Lâm sàng nhiệt đới Leopold thuộc Vương quốc Bỉ đã được Chính phủ Bỉ chấp nhận tài trợ thực hiện sau khi trải qua nhiều vòng tuyển chọn.
Ngày 9-10/8/2010 tại Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn, đoàn chuyên gia Bỉ gồm giáo sư-tiến sĩ Pierre Dorny-Trưởng khoa nghiên cứu sức khỏe động vật, tiến sĩ Sarah Gabriel-Trợ lý nghiên cứu của Viện Lâm sàng nhiệt đới Leopold đã làm việc với hai đối tác tại Việt Nam là PGS.TS. Lê Thanh Hòa-Trưởng khoa miễn dịch Viện Công nghệ sinh học và TS. Triệu Nguyên Trung-Viện trưởng Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn cùng Ban lãnh đạo và các cán bộ chủ chốt có liên quan đến hợp tác nghiên cứu của Viện. Trong hai ngày làm việc, các thành viên đối tác đã cùng nhau thảo luận kỹ về thực tế tình hình bệnh sán lá gan lớn ở Việt Nam để bổ sung hoàn chỉnh các mục tiêu nghiên cứu, nội dung hoạt động, thiết bị hỗ trợ nghiên cứu và kinh phí thực hiện dự án; đồng thời thăm các labo nghiên cứu và bệnh nhân sán lá gan lớn đang điều trị tại Phòng khám chuyên khoa của Viện, khảo sát thực địa một huyện thuộc tỉnh Bình Định và thu thập các mẫu sán từ gan động vật ăn cỏ (trâu, bò) tại lò mổ Bình Định.
|
Đoàn chuyên gia Bỉ thăm và làm việc với Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn |
Kết quả khảo sát cho thấy tỷ lệ bệnh nhân nhiễm bệnh sán lá gan lớn ở người vẫn phổ biến và phù hợp với tỷ lệ nhiễm sán (khoảng 60%) qua các mẫu sán lá gan lớn thu thập từ động vật ăn cỏ. Từ đầu năm 2010 đến nay, diễn biến tình hình bệnh sán lá gan lớn chưa có gì đặc biệt; theo số liệu thống kê chưa đầy đủ trong 7 tháng đầu năm 2010, số ca bệnh sán lá gan lớn mắc mới phát hiện ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên gần 2000 ca và số ca bệnh sán lá gan lớn đến tái khám khoảng 2500 ca, tập trung chủ yếu ở các tỉnh Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam và một số tỉnh, thành phố trong nước đến khám tại Phòng khám chuyên khoa của Viện, như vậy cũng tương tự như các năm trước số ca bệnh sán lá gan lớn phát hiện ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên chiếm khoảng 92% so với cả nước, tuy nhiên số ca đã phát hiện quay lại tái khám rất cao chưa rõ là do tái phát hay tái nhiễm ? So sánh diễn biến tình hình bệnh sán lá gan lớn từ thời điểm bùng phát năm 1996 đến nay, số ca bệnh mắc mới được phát hiện tăng, giảm thất thường và phụ thuộc nhiều vào nguồn thuốc điều trị đặc hiệu; chẳng hạn năm 2006 số ca bệnh gia tăng đến 3.838 ca, sau đó giảm xuống còn 2.196 ca (2007) và 2000 ca (2008) do được Tổ chức Y tế thế giới cung cấp thuốc điều trị triclabendazole; sang năm 2009 khi nguồn thuốc này “bị đứt” số ca bệnh sán lá gan lớn lại tiếp tục tăng vọt lên 4.300 ca (2009) và tiếp tục có xu hướng giảm trong 6 tháng đầu năm 2010 (2.200 ca) do các cơ sở y tế trong nước đã chủ động được nguồn cung ứng thuốc đặc hiệu (triclabendazole); nếu như nguồn cung ứng thuốc đặc hiệu này không được duy trì đều đặn chắc chắn số ca bệnh sẽ gia tăng trở lại như những năm trước đây, đồng thời cũng cho thấy một sự thật hiển nhiên về sự giảm số mắc bệnh sán lá gan lớn ở Việt Nam không mang tính bền vững và phản ảnh biện pháp duy nhất can thiệp bệnh sán lá gan lớn vẫn là khâu phát hiện, chẩn đoán và điều trị ca bệnh tại các cơ sở y tế; chưa có giải pháp khả thi để can thiệp tại cộng đồng và hạn chế môi trường nhiễm bệnh.
Đoàn chuyên gia Bỉ thăm các labo nghiên cứu tại Viện |
Với nguồn cung ứng thuốc điều trị rộng rãi, bệnh sán lá gan lớn “không còn tính thời sự” hoặc “không ồn ào” như trước đây, nhưng nếu nhìn vào thực trạng nhiễm bệnh và bản chất vấn đề thì chúng ta vẫn còn nhiều điều “quan ngại” khi số ca nhiễm bệnh trong 7 tháng đầu năm 2010 gần 2000 ca vẫn tập trung chủ yếu ở 7 tỉnh Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Đà Nẵng, Phú Yên, Khánh Hòa và Gia Lai. Vấn đề được dự án đặc biệt quan tâm là tại sao bệnh chỉ tập trung cao ở 7 tỉnh này, trong đó Bình Định, Quảng Ngãi có thể được coi là “trung tâm của ổ bệnh sán lá gan lớn” ? sự “thích nghi” của sán lá gan lớn ở người cùng với 60% nhiễm sán ở động vật ăn cỏ là nguồn bệnh phong phú để bệnh lan tràn rộng rãi ở cộng đồng. Nghiên cứu các yếu tố dịch tễ học phân bố bệnh sán lá gan lớn, chẩn đoán và điều trị bệnh sán lá gan lớn ở người, phối hợp giữa ngành y tế và ngành thú y hạn chế nguồn nhiễm bệnh từ động vật ăn cỏ gắn liền với cải thiện môi trường nhiễm bệnh cùng các biện pháp phòng chống bệnh bền vững.
Qua hai ngày làm việc, Dự án hợp tác nghiên cứu quốc tế về bệnh sán lá gan lớn đã được bổ sung đầy đủ thông tin từ các phía các đối tác trước khi phản biện lần cuối tại Vương Quốc Bỉ; theo kế hoạch dự án này sẽ được thực hiện trong 4 năm (2011-2015) với sự tham gia của các chuyên gia nghiên cứu hàng đầu của quốc tế và Việt Nam về sán lá gan lớn, nếu dự án được triển khai thì không chỉ người dân ở các tỉnh miền Trung-Tây Nguyên được hưởng lợi từ đầu tư của dự án về các biện pháp phòng chống bệnh bền vững, mà các cán bộ tham gia nghiên cứu còn có cơ hội nâng cao trình độ sau đại học (thạc sĩ, tiến sĩ) tại Vương Quốc Bỉ và khả năng kiểm soát dịch bệnh tại địa phương.