Ngày 21-22/12/2010 tại TP. Hồ Chí Minh, Cục Y tế dự phòng-Bộ Y tế đã tổ chức Hội nghị đánh giá công tác phòng chống cúm A (H1N1) và các giải pháp ứng phó ở Việt Namvới sự tham dự của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Lãnh đạo các Viện thuộc hệ y tế dự phòng, Bệnh viện Nhiệt đới Trung ương và các chuyên gia y tế công cộng.
Tình hình cúm A (H1N1) ở Việt Nam
Theo đánh giá của Bộ Y tế, tình hình dịch cúm A (H1N1):kể từ trường hợp mắc cúm A (H1N1) đầu tiên được ghi nhận ngày 31/5/2009 đến 17/12/2010 Việt Nam đã có 11.251 ca xét nghiệm dương tính với cúm A (H1N1) được xác nhận, trong đó có 61 ca tử vong; thời điểm đỉnh dịch vào tháng 9/2010 sau đó giảm dần đến tháng 7/2010 cơ bản khống chế được trên phạm vi toàn quốc, các trường hợp tử vong phân bố ở cả 4 khu vực như miền Nam: (41,0%), Tây Nguyên (13,1%), miền Trung (13,1%) và miền Bắc: 32,8% tập trung cao nhất ở Hà Nội. Số ca mắc chủ yếu được phát hiện từ người nước ngoài nhập cảnh hoặc người Việt Nam đi công tác, học tập, du lịch ở các vùng dịch như Mỹ, Úc…hoặc không đi nước ngoài nhưng có tiếp xúc với người từ nước ngoài mang mầm bệnh về; nơi xảy dịch chủ yếu ở nơi tập trung đông người như trường học, công sở… Phía Nam có sự lưu hành với tỉ lệ cao các chủng vi rút cúm như hội chứng cúm (20,47%), viêm phổi nặng do vi rút(15.48%); các típ vi rút cúm lưu hành tại khu vực phía nam (A/H5, A/H3, A/H1, A/H1s và B), trong đó A/H3 và B là típ vi rút lưu hành ưu thế trên cả bệnh nhân hội chứng cúm lẫn viêm phổi nặng do vi rút.Mặc dù độc lực cúm A (H1N1) không cao và có vẻ hơi giống cúm mùa, nhưng khả năng biến chủng của virut cúm A, virut tự biến đổi tăng độc lực là rất lớn; dự báo trong năm 2011 dịch có thể xảy ra cùng lúc cả cúm mùa, cúm gia cầm (H5N1) và cúm đại dịch (H1N1).
Tổ chức chỉ đạo thực hiện
Trước nguy cơ lan rộng của đại dịch cúm toàn cầu, Chính phủ đã trực tiếp chỉ đạo phòng chống dịch quyết liệt, huy động cả hệ thống chính trị và các phương tiện thông tin đại chúng tham gia chống dịch; Chủ tịch UBND các cấp trực tiếp chỉ đạo triển khai các hoạt động chống dịch tại địa phương,ngành y tế: là Trưởng ban chỉ đạo quốc gia Phòng chống đại dịch cúm ở người, tham mưu về các hoạt động chống dịch, trực tiếp chỉ đạo việc triển khai các hoạt động kiểm soát dịch. Củng cố hoạt động ban chỉ đạo, đội cơ động chống dịch, xây dựng các phương án ứng phó đại dịch; chuẩn bị đáp ứng hậu cần: thuốc, hóa chất, thiết bị, giao ban công tác phòng chống dịch hàng tuần.
Giải pháp ứng phó đại dịch toàn cầu cúm A (H1N1)
Các biện pháp kiểm soát dịch được tăng cường triệt để ở các sân bay, cửa khẩu và hải cảng như đo thân nhiệt khách nhập cảnh, điền phiếu khai báo tình trạng sức khỏe; lấy bệnh phẩm ca nghi ngờ xét nghiệm, lập danh sách hành khách nhập cảnh. Báo cáo hàng ngày về các Viện Vệ sinh dịch tễ/Viện Pasteur lượng khách nhập cảnh, số ca nghi ngờ mắc cúm, danh sách khách nhập cảnh; xét nghiệm toàn bộ các ca nghi ngờ, tổng hợp danh sách ca xác định, báo cáo phản hồi hàng ngày:Điều tra ca bệnh và người tiếp xúc như truy tìm người đi cùng chuyến bay với ca bệnh lập danh sách người tiếp xúc, hành khách cùng chuyến bay, lấy mẫu, xét nghiệm toàn bộ người tiếp xúc gần. Tăng cường công tác truyền thông như thông báo trên ti vi các chuyến bay có ca bệnh, hướng dẫn thực hiện các biện pháp phòng chống. Trung tâm Kiểm dịch y tế quốc tế cách ly các trường hợp nghi ngờ và chuyển viện điều trị khi có kết quả xét nghiệm dương tính. Bệnh viện tổ chức khu vực cách ly, điều trị triệt để ca bệnh và cách ly bệnh nhân trong vòng 7 ngày kể từ khi hết các triệu chứng. Tăng cường giám sát các chùm ca bệnh tại cộng đồng, tại các điểm giám sát cúm quốc gia, các bệnh viện; kiểm soát các cửa khẩu quốc tế để phát hiện các trường hợp xâm nhập, tổ chức trực chống dịch 24/24; đối với các trường học, công sở: thực hiện theo dõi thân nhiệt và sức khỏe của học sinh, áp dụng các biện pháp cách ly đối với các trường hợp nghi ngờ nhiễm bệnh, sử dụng phòng hộ cá nhân và vệ sinh môi trường. 800 người được xếp vào các đội phản ứng nhanh và 3.303 người nằm trong hệ thống giám sát ở các tuyến y tế tỉnh, huyện; nhiều đoàn được cử đi chia sẻ học tập kinh nghiệm các nước trong khu vực. Hoàn thiện mô hình giám các bệnh truyền nhiễm bao gồm y tế tư nhân, y tế thôn bản; in ấn và cấp 11.000 cuốn tài liệu “Kế hoạch hành động Quốc gia phòng chống đại dịch cúm”; 10.140 cuốn “Hướng dẫn quốc gia về diễn tập” và nhiều tài liệu liên quan khác. Tổ chức 60 cuộc diễn tập PC Cúm tại tỉnh/huyện.
Cung cấp trang thiết bị bao gồm 15 máy đo thân nhiệt (sân bay, cửa khẩu), 100.000kg hóa chất khử trùng, 1.485 máy phun, máy hỗ trợ hô hấp tại các bệnh viện, hệ thống xét nghiệm PCR và RT-PCR, 500 bộ lấy mẫu bệnh phẩm, 79 xe điều tra ổ dịch, 32 xe tải nhỏ, 760.000 bộ quần áo bảo hộ , 1.500 máy tính cùng phần mềm giám sát bệnh truyền nhiễm và kết nối internet được trang bị cho 388 huyên; các phòng thí nghiệm của các viện Vệ sinh dịch tễ/Viện Pasteur được đầu tư, nâng cấp nhằm đáp ứng nhu cầu phát hiện bệnh.
Kế hoạch phòng chống cúm A (H1N1) trong năm 2011
Mặc dù Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã công bố hết đại dịch toàn cầu, nhưng ở Việt Nam mục tiêu giảm tỷ lệ mắc và tử vong do cúm A(H5N1) và cúm A(H1N1) gây ra, khống chế không để dịch lớn xảy ra và hạn chế tối đa tác động của đại dịch đến kinh tế xã hội.
Công tác giám sát, đáp ứng như củng cố và mở rộng các điểm giám sát cúm, tăng cường hoạt động của hệ thống kiểm dịch biên giới, tập huấn nâng cao năng lực giám sát, phát hiện và xử lý, duy trì chương trình FETP, triển khai phần mềm và mô hình hệ thống giám sát mới, tổ chức diễn tập, nâng cao chất lượng phòng xét nghiệm. Tập huấn chuyên môn (điều trị suy hô hấp, sử dụng trang thiết bị máy thở, chẩn đoán, xử lý đại dịch cúm, phòng chống lây nhiễm trong bệnh viện; nâng cấp phòng cách ly, nâng cao năng lực xét nghiệm, cung cấp phương tiện vận chuyển, trang thiết bị cho tuyến tỉnh, huyện. Truyền thông nâng cao kiến thức và hành vi cho cán bộ y tế, cho cộng đồng; nâng cao năng lực nghiên cứu: Dịch tễ học, virus, biện pháp phòng chống và vắc xin phòng bệnh. Tăng cường hợp tác quốc tế như phối hợp chặt chẽ với các tổ chức quốc tế trong việc triển khai các hoạt động chuẩn bị phòng chống đại dịch, chia sẻ thông tin, nâng cao chất lượng giám sát, điều trị cùng với tiếp tục tăng cường đầu tư nguồn lực, trang thiết bị cho các cơ sở y tế vùng trọng điểm dịch.