Nhiều năm qua những nỗ lực hoạt động của hệ y tế dự phòng nước ta đã giảm tải áp lực điều trị tại các tuyến bệnh viện và dập tắt kịp thời các bệnh dịch nguy hiểm mới nổi như Hội chứng suy hô hấp cấp nặng (SARS), bệnh cúm A (H5N1), bệnh tiêu chảy cấp nguy hiểm nguyên nhân do phẩy khuẩn tả, bệnh tay-chân miệng, dịch sốt xuất huyết...đẫy lùi một cách bền vững các bệnh mang tính xã hộinhư bệnh sốt rét, bệnh dịch hạch, bệnh đậu mùa… góp phần quan trọng trong sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân.
Trong thành công chung của hệ y tế dự phòng; chuyên khoa phòng chống sốt rét, ký sinh trùng, côn trùng cũng đã giảm thấp được số mắc sốt rét, khống chế được tử vong và không để dịch sốt rét xảy ra trong nhiều năm nay; phát hiện và có biện pháp ngăn chặn kịp thời sự phát triển của bệnh sán lá gan lớn, tranh thủ mọi nguồn lực đầu tư để hạn chế tác hại của các bệnh giun sán đường ruột. Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi và những thành quả đạt được; hoạt động phòng chống sốt rét, ký sinh trùng, côn trùng còn gặp không ít khó khăn vướng mắc cần có biện pháp tháo gỡ.
Đặc điểm tình hình bệnh sốt rét, ký sinh trùng và côn trùng:
Với điều kiện tự nhiên và xã hội thuận lợi cho dịch bệnh phát triển, đồng bào địa phương nhiều tập quán lạc hậu, ý thức vệ sinh phòng bệnh hạn chế, lại thường xuyên đối mặt với bão lụt kéo dài nên các bệnh sốt rét, ký sinh trùng và côn trùng truyền có nguy cơ bùng phát thành dịch ở các vùng trọng điểm.
Bệnh sốt rét: là một trong những bệnh véc tơ truyền mang tính xã hội do có tỷ lệ chết, tỷ lệ mắc cao và khả năng gây dịch lớn làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ cộng đồng. Là khu vực trọng điểm sốt rét, từ năm 2000 đến nay mặc dù đã đạt nhiều kết quả thực hiện các mục tiêu giảm chết, giảm mắc và không để dịch sốt rét xảy ra; nhưng miền Trung-Tây Nguyên vẫn phải đối mặt với những khó khăn thách thức lớn trong phòng chống sốt rét với số chết chiếm trên 80% và mắc chiếm gần 50% so với cả nước tập trung ở các nhóm dân di biến động (dân di cư tự do, đi rừng, ngủ rẫy, giao lưu biên giới), hiệu quả các biện pháp tác động chưa cao, ý thức tự bảo vệ của người dân trong các vùng sốt rét lưu hành còn thấp, nguồn lực không ổn định, hoạt động của màng lưới y tế cơ sở huyện/xã/thôn bản còn hạn chế, đời sống kinh tế của cộng đồng dân tộc thiểu số chưa được cải thiện, thời tiết luôn biến động bất thường hầu hết các cơn bão hàng năm đều đổ vào khu vực này dẫn đến nguy cơ dịch sốt rét có thể bùng phát trở lại bất cứ lúc nào.
Bệnh giun sán ký sinh ở người: có mức độ nhiễm cao và đa dạng với tỉ lệ chung là 60%;trong đó giun đũa 35%, giun tóc 10%, giun móc 40%, sán lá gan lớn 12%, sán dây 6%, sán lá gan nhỏ 6%…; đặc biệt vài năm gần đây tình hình nhiễm bệnh sán lá gan lớn trở thành điểm nóng của cả nước với số mắc mới trên 3000 ca (2006), gần 2000 ca (2007). Bệnh giun sán đã để lại những tác hại không nhỏ như suy dinh dưỡng, thiếu máu và hạn chế khả năng lao động, thậm chí có thể gây nguy hiểm đến tính mạng con người như bệnh ấu trùng sán lợn, sán lá phổi, sán lá gan lớn…; tuy nhiên hiện nay bệnh giun sán vẫn được coi là “căn bệnh bị lãng quên” do triệu chứng bệnh diễn biến âm thầm, dễ bị che lấp bởi nhiều bệnh cấp tính khác nên không được quan tâm đúng mức và chưa có quy mô phòng chống.
 |
| Các bệnh nhân sốt xuất huyết đang điều trị tại Bệnh viện Đa Khoa tỉnh Phú Yên |
Bệnh sốt xuất huyết: tập trung chủ yếu ở các tỉnh ven biển miền Trung với số mắc hàng ngàn người và số chết hàng chục người mỗi năm; mặc dù Bộ Y tế đã có chương trình phòng chống sốt xuất huyết giao cho các Viện Vệ sinh dịch tễ thực hiện nhưng vẫn chưa thể kiểm soát được cả bệnh nhân lẫn véc tơ truyền bệnh, chưa ngăn chặn được nguồn phát sinh bệnh dịch nhất là ở các thành phố, đô thị hay nơi mật độ dân cư đông đúc.
Bệnh sán lá gan lớn: những năm gần đây Bệnh sán lá gan lớn (Fasciolasis) ngày càng phát triển và lan rộng đến 45 tỉnh/thành phố trong cả nước, trong đó tập trung cao ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên với số ca nhiễm mới chiếm 92% (2006) và 85% (2007) so với tổng số ca nhiễm sán lá gan lớn trong cả nước; nguyên nhân do người dân có thói quen ăn sống rau thủy sinh hoặc uống nước lã có nhiễm ấu trùng. Sự bộc phát và lây lan nhanh chóng của sán lá gan lớn là mối quan tâm lo lắng của cộng đồng do tác hại nghiêm trọng của bệnh với những triệu chứng tại chỗ ở gan hoặc toàn thân một cách rầm rộ, thậm chí đe dọa đến tính mạng bệnh nhân.
Ngoài ra một số bệnh ký sinh trùng như giun đũa chó, giun đầu gai, giun lươn, giun móc/mỏ, sán lá gan nhỏ, sán lá phổi, sán dây, ấu trùng sán lợn…; một số bệnh do véc tơ truyền như giun chỉ bạch huyết, viêm não Nhật Bản B và côn trùng lạ (bọ cánh cứng) đang tác động trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân.
Những vấn đề cần ưu tiên và giải pháp thực hiện:
Trước thực trạng dịch bệnh nêu trên, những vấn đề cần ưu tiên hàng đầu hiện nay là tiếp tục đẩy lùi bệnh sốt rét, khống chế sự gia tăng của bệnh sán lá gan lớn và các bệnh ký sinh trùng mới nổi; ngăn chặn sự phát triển của bệnh sốt xuất huyết và giun chỉ bạch huyết; đầu tư nghiên cứu và chỉ đạo phòng chống các bệnh ký sinh trùng và các bệnh do véc tơ truyền để đảm bảo thực hiện toàn diện chức năng nhiệm vụ Bộ Y tế giao.
Phát triển công tác truyền thông giáo dục- xã hội hoá phòng chống sốt rét, các bệnh ký sinh trùng và côn trùng truyền sâu rộng trong cộng đồng. Tăng cường chỉ đạo, giám sát, kiểm tra tình hình dịch bệnh tại các vùng trọng điểm nhằm phát hiện, xử lý và dự báo dịch kịp thời; chú trọng phòng chống sốt rét có hiệu quả cho dân di cư tự do, người đi rừng/ngủ rẫy, giao lưu biên giới và các công trình trọng điểm kinh tế của Nhà nước. Định hướng điều tra đánh giá tình hình nhiễm bệnh ký sinh trùng vàbệnh do côn trùng truyền nhằm xác định nguyên nhân gây bệnh, yếu tố truyền bệnh, phân bố dịch tễ học có cơ sở đề xuất biện pháp phòng chống hiệu quả. Đào tạo, tập huấn cho cán bộ y tế các tuyến về kiểm soát các bệnh do véc tơ truyền cũng như khả năng phát hiện, chẩn đoán và điều trị bệnh sán lá gan lớn ngay từ cơ sở.
Một số khó khăn trong hoạt động hiện nay:
Chưa có sự phân côngcụ thể về danh mục các bệnh y tế dự phòng:
Theo chức năng nhiệm vụ được giao hệ thống chuyên khoa phòng chống sốt rét, ký sinh trùng và côn trùng sẽ phải thực hiện nghiên cứu phòng chống bệnh sốt rét (Malaria); các bệnh ký sinh trùng (Parasitic Diseases) như giun, sán ký sinh đường ruột và đường máu; nấm (Mycose), đơn bào ký sinh; các bệnh do côn trùng truyền (Vector born Diseases) như sốt xuất huyết, giun chỉ bạch huyết, viêm não Nhật Bản B, sốt mò, sốt do ve truyền, leptospira và bệnh gây nên do các loài chân đốt (tiết túc y học) truyền.
Hiện nay Luật Y tế dự phòng đã chính thức ban hành và quy định rõ danh mục 57 bệnh nhóm A, nhóm B và nhóm C; nhưng vẫn chưa có sự phân công cụ thể của Bộ Y tế cho các Viện thuộc khối y tế dự phòng nên còn chồng chéo trong chức năng nhiệm vụ được giao và khó khăn trong việc xây dựng kế hoạch ngân sách và kinh phí thực hiện.
|
| Các cán bộ Viện sốt rét - KST-CT Quy Nhơn đang công tác tại tuyến cơ sở |
Khó khăn về nguồn nhân lực:
Hiện nay tại tuyến Viện cơ cấu cán bộ sau đại học, đại học và cao đẳng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, đặc biệt là tình trạng thiếu Bác sĩ y khoa và Dược sĩ đại học. Tại tuyến Trung tâm PCSR/Trung tâm YTDP vấn đề nhân lực cũng hết sức khó khăn, nhất là các cán bộ có năng lực nghiên cứu ứng dụng và tiếp nhận kỹ thuật công nghệ cao.
Nguyên nhân của việc thiếu nhân lực là do đặc thù chuyên ngành phải thực hiện các hoạt động công ích là chủ yếu, lại phụ trách khu vực trọng điểm đòi hỏi cán bộ phải thường xuyên có mặt ở cơ sở để phòng chống dịch bệnh, nhiều khó khăn gian khổ, thu nhập thấp; các bác sĩ y khoa và dược sĩ đại học khi tốt nghiệp ra trường không muốn về công tác tại hệ y tế dự phòng; thậm chí số bác sĩ hiện có lại muốn xin chuyển đến làm việc ở các bệnh viện thuộc thành phố lớn hoặc cơ sở y tế tư nhân có thu nhập cao hơn, nên với chế độ phụ cấp quá thấp của hệ y tế dự phòng hiện nay rất khó thu hút bác sĩ và dược sĩ.
Khó khăn về nguồn kinh phí:
Hiện nay mới chỉ có nguồn kinh phí chương trình phòng chống sốt rét mà không có nguồn kinh phí nghiên cứu chỉ đạo phòng chống các bệnh ký sinh trùng và côn trùng nên rất khó khăn trong việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ Bộ giao. Hoạt động phòng chống bệnh giun sán chủ yếu dựa vào sự hỗ trợ nhỏ lẻ của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) thông qua mô hình tẩy giun cho học sinh các trường tiểu học, các hoạt động phòng chống bệnh do véc tơ truyền hầu như không thực hiện được vì không có nguồn kinh phí hỗ trợ. Về các nguồn kinh phí hợp tác quốc tế cũng hết sức hạn hẹp vì không chủ động được các chương trình/dự án lớn nên các hoạt động chủ yếu vẫn dựa vào nguồn ngân sách thường xuyên và kinh phí chương trình phòng chống sốt rét.
Trong giai đoạn 2004-2008 có nhiều sự thay đổi về chính sách quản lý tài chính nên việc triển khai thực hiện còn lúng túng như thực hiện Nghị định 10, Nghị định 43, Nghị định115 nối tiếp nhau. Quá trình thực hiện Nghị định 43/NĐ-CP gặp nhiều khó khăn trong việc chi trả lương tăng thêm, thu nhập tăng thêm cho cán bộ viên chức và người lao động do là đơn vị đặc thù có nguồn thu thấp, không ổn định. Theo chỉ đạo của Bộ Y tế trong năm 2008, 11 đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ sẽ phải lập Đề án thực hiện Nghị định 115/2005/NĐ-CP quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của Tổ chức khoa học và công nghệ công lập; chắc chắn với những khó khăn gặp phải trong quá trình thực hiện Nghị định 43 thì việc thực hiện Nghị định 115 sẽ còn khó khăn hơn nhiều.
Khó khăn chính trong việc trình phê duyệt và sử dụng kinh phí:
Hàng năm được sự chỉ đạo và quan tâm của Bộ Y tế phê duyệt kinh phí ngân sách đều tăng so với năm trước nhưng tỉ lệ thấp vẫn chưa đáp ứng đủ so với nhu cầu hoạt động do chế độ, tiền lương thay đổi, trượt giátrong 2 năm gần đây.
Thông tư 147/TTLT-BTC-BYT ngày 12/12/2007 hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm và HIV/AIDS giai đoạn 2006-2010 áp dụng từ tháng 1/2008; tăng các chế độ giám sát dịch tễ từ 8.000đ lên 25.000đ/ngày, bắt muỗi từ 15.000đ lên 50.000đ/ngày, soi phát hiện ký sinh trùng sốt rét từ 300đ lên 1.000đ/lam nhưng không có nguồn kinh phí cấp bổ sung để chi trả.
Một số kiến nghị:
Về công tác chuyên môn:
Bộ Y tế cần có phân công trách nhiệm cụ thể từng bệnh trong danh mục bệnh cho các Viện để có cơ sở đầu tư nghiên cứu giải quyết những bức xúc trong phòng chống sốt rét, các bệnh ký sinh trùng và côn trùng đang là vấn đề trọng tâm hiện nay;
Xây dựng và thực hiện các đề tài cấp Bộ/cấp Nhà nước về phòng chống sốt rét có hiệu quả cho đối tượng đi rừng/ngủ rẫy, dân di cư tự do và điều tra phát hiện điều trị và phòng chống bệnh sán lá gan lớn, các bệnh do véc tơ truyền.
Về nhân lực và tổ chức:
Tăng cường đào tạo chính quy bác sĩ hệ y tế dự phòng, đào tạo nâng cấp từ y sĩ lên bác sĩ đối với cán bộ y tế dự phòng từ tuyến trung ương đến cơ sở; mở rộng đào tạohệ y tế dự phòng bằng các hình thức ưu tiên cho sinh viên có kết quả thi tuyển từ 25 điểm trở lên và đào tạo cử tuyển, đào tạo theo địa chỉ sau đó phân công về công tác ở các địa phương, đơn vị. Có chính sách thu hút nguồn nhân lực nhất là với đội ngũ cán bộ sau đại học, bác sĩ y khoa, dược sĩ đại học.
Cần có kế hoạch sắp xếp lại tổ chức bộ máy chuyên khoa phòng chống sốt rét, ký sinh trùng và côn trùng từ tuyến trung ương đến cơ sở phù hợp với cơ cấu bệnh tật hiện nay, đồng thời nâng cao được sức mạnh cũng như hiệu quả hoạt động.
Về kinh phí hoạt động:
Tăng kinh phí hàng năm 20% dự toán được duyệt, vì ngân sách đầu tư còn thấp không đáp ứng thực hiện các chức năng nhiệm vụ được giao; đầu tư kinh phí phòng chống bệnh sán lá gan lớn và các bệnh ký sinh trùng mới nổi, đầu tư kinh phí phòng chống bệnh sốt xuất huyết, giun chỉ bạch huyết và các bệnh do véc tơ truyền.
Cấp hỗ trợ thêm nguồn kinh phí thuộc các chương trình khác để thực hiện nghiên cứu và chỉ đạo các bệnh ký sinh trùng và các bệnh do côn trùng truyền như sốt xuất huyết, viêm não Nhật Bản B…; bổ sung khoản kinh phí để trả lương tăng thêm theo chế độ tăng lương của Nhà nước cho các đơn vị sự nghiệp y tế đặc thù, hoạt động mang tính công ích xã hội, nguồn thu thấp và không ổn định.
Về chế độ chính sách:
Nâng chế độ phụ cấp đặc biệt gấp nhiều lần đối với cán bộ làm côngtác y tếdự phòng nhằm thu hút bác sĩ. Nên có một chế độ ưu tiên về thang lương và nâng bậc lương cho cán bộ làm công tác y tế dự phòng so với những ngành nghề khác.