Ngày 20/3/2009, Ban Điều hành Dự án Quốc gia phòng chống sốt rét đã tổ chức cuộc họp nhằm xây dựng, cập nhật, bổ sung và rà soát lại mục tiêu Chiến lược quốc gia phòng chống sốt rét đến năm 2015 nhằm “Đề xuất Chiến lược quốc gia” theo các yêu cầu của Quỹ toàn cầu.
Việc định hướng Chiến lược quốc gia phòng chống sốt rét không chỉ đưa ra các giải pháp phòng chống sốt rét phù hợp ở Việt Nam mà còn nằm trong khuôn khổ “Chương trình thử nghiệm đầu tiên” (FLW-First Learning Wave) là một quy trình mới xin viện trợ của của Quỹ toàn cầu thông qua “Đề xuất chiến lược quốc gia” (NSAs-National Strategy Applications) tạo điều kiện cho những nước có chiến lược quốc gia xây dựng tốt có thể đệ trình chiến lược quốc gia của mình để xin Quỹ toàn cầu xem xét tài trợ thay vì phải thông qua các vòng đề xuất như trước đây. Việt Nam được coi là một trong những nước có tiềm năng được tham gia thực hiện chương trình này thông qua thư mời của Giám đốc Dự án Quỹ toàn cầu phòng chống AIDS, Lao và Sốt rét tới Chủ tịch CCM Việt Nam.
Được sự đồng ý của Bộ Y tế và CCM Việt Nam, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương đã chủ trì cuộc họp đề xuất chiến lược quốc gia với sự có mặt của đại diện Tổ chức Y tế thế giới tại Việt Nam, Lãnh đạo các Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng và các thành viên của Ban Điều hành Dự án Quốc gia phòng chống sốt rét. Nội dung cuộc tập trung xây dựng và đề xuất chiến lược phòng chống sốt rét ở Việt Nam từ nay đến năm 2015.
Kết quả phòng chống sốt rét giai đoạn 1995-2005
Theo báo cáo của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương chỉ trong vòng 10 năm (1995-2005) sau thời kỳ sốt rét bùng nổ (1991-1992) bệnh sốt rét từng bước bị đẩy lùi; đến năm 2005 số chết sốt rét đã giảm 94,8%, số mắc sốt rét giảm 85,1% so với năm 1995; sự bùng nổ dịch sốt rét được khống chế, ngoại trừ một vài ổ dịch nhỏ ở phạm vi thôn bản.
Tình hình sốt rét Việt Nam từ năm 1990 - 2005
Thành quả phòng chống sốt rét đạt được này là do Chương trình phòng chống sốt rét là một chương trình y tế quốc gia ưu tiên được đầu tư nguồn lực trong nước và viện trợ quốc tế, sự quan tâm chỉ đạo của các cấp, các ngành cùng sự nỗ lực phấn đấu của đội ngũ y tế chuyên ngành ở các tuyến; hoạt động phòng chống sốt rét dược thống nhất từ trung ương đến cơ sở, được lồng ghép với hệ thống y tế chung trong công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu và chương trình quân dân y kết hợp; thực hiện tốt công tác giám sát đánh giá tình hình sốt rét và nghiên cứu khoa học, tăng cường bảo vệ và ngăn ngừa dịch sốt rét ở các nhóm dân di biến động vào vùng sốt rét; phân vùng dịch tễ sốt rét để chỉ định các biện pháp thực hiện, nâng cao chất lượng hoạt động phòng chống sốt rét của màng lưới y tế cơ sở đi đôi với đẩy mạnh truyền thông giáo dục sức khỏe và xã hội hóa công tác phòng chống sốt rét. Như vậy với Chiến lược phòng chống sốt rét phù hợp và sáng tạo, đặc biệt là vai trò của các thuốc sốt rét hiệu lực cao (CV8, Artesunate) và các hoá chất phòng chống vector hiệu quả (Permethrin, Fendona, Icon) trong giảm chết, giảm mắc và khống chế dịch sốt rét góp phần quan trọng bảo vệ sức khỏe nhân dân và ổn định tình hình kinh tế, xã hội của đất nước được Đảng, Nhà nước và Tổ chức Y tế thế giới đánh giá cao.
Tuy nhiên bên cạnh những thành quả đạt được, công tác phòng chống sốt rét vẫn phải đối mặt với không ít những khó khăn thách thức do diễn biến sốt rét phức tạp, nguy cơ sốt rét quay trở lại rất lớn; vùng sốt rét rộng với trên 27,4 triệu dân sống trong vùng sốt rét lưu hành, giao lưu và di biến động dân cư rất lớn ngoài tầm kiểm soát của ngành y tế; hiểu biết và ý thức tự bảo vệ phòng chống sốt rét của đồng bào các dân tộc ít người, vùng sâu, vùng xa, biên giới còn hạn chế; màng lưới y tế cơ sở còn yếu về chuyên môn kỹ thuật, thiếu biên chế, không ổn định, thiếu kinh phí hoạt động; chưa có biện pháp phòng chống sốt rét hữu hiệu cho dân di cư tự do, đi rừng, ngủ rẫy và giao lưu biên giới; còn gặp nhiều khó khăn kỹ thuật như tỷ lệ ký sinh trùng kháng thuốc cao, mật độ muỗi truyền sốt rét gia tăng ở nhiều vùng; nguồn kinh phí phòng chống sốt rét được cấp không đáp ứng đủ nhu cầu thực hiện, chỉ có dự án Quỹ Toàn Cầu là nguồn quốc tế tài trợ duy nhất cho công tác phòng chống sốt rét; ở Việt Nam, trong khi đã nẩy sinh tư tưởng chủ quan và thiếu quan tâm chỉ đạo, đầu tư cho phòng chống sốt rét ở một số cấp chính quyền cũng như y tế địa phương.
Kế hoạch phòng chống sốt rét giai đoạn 2006-2015
Tình hình sốt rét trên thế giới và khu vực
Bệnh sốt rét vẫn là bệnh truyền nhiễm phổ biến và nguy hiểm, lưu hành ở trên 100 nước và khu vực trên thế giới làm 300-500 triệu người mắc, 1,5-2,7 triệu người chết hàng năm; đặc biệt là Châu phi, Nam Á và Nam Mỹ; theo số liệu của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) năm 2003, tỷ lệ mắc sốt rét của Việt Nam đứng thứ 4 so với 10 nước trong khu vực Tây Thái Bình Dương.
Sự cần thiết phải duy trì Dự án quốc gia phòng chống sốt rét
Mặc dù bệnh sốt rét tiếp tục bị đẩy lùi nhưng kết quả phòng chống sốt rét trong giai đoạn 1996-2005 chưa bền vững, tình hình dịch tễ sốt rét phức tạp và có nguy cơ xẩy dịch sốt rét ở nhiều nơi, tình hình sốt rét kháng thuốc trên toàn quốc là nghiêm trọng và lan rộng ở nhiều vùng với nhiều loại thuốc sốt rét; muỗi truyền bệnh chính tồn tại và phát triển mạnh ở vùng rừng núi và đồng bằng ven biểnvới mật độ cao, đốt người cả trong nhà và ngoài nhà. Nếu phòng chống sốt rét không được ưu tiên là chương trình mục tiêu quốc gia thì chắc chắn bệnh sốt rét sẽ quay trở lại và gây dịch lớn chết nhiều người như trước đây và các thành quả phòng chống sốt rét đạt được cũng nhưhàng nghìn tỷ đồng ngân sách Nhà nước đã đầu tư trong những năm qua sẽ trở nên lãng phí.
Mục tiêu phòng chống sốt rét giai đoạn 2006-2015 và các giải pháp chiến lược
Mục tiêu chung:
Tiếp tục đẩy lùi sốt rét và phát triển các yếu tố bền vững trong phòng chống sốt rét, thực hiện chiến lược loại trừ sốt rét ở các vùng sốt rét đã giảm thấp, một số vùng sốt rét lưu hành nhẹ đồng thời với chiến lược phòng chống sốt rét ở các vùng sốt rét lưu hành nặng và vừa.
Mục tiêu cụ thể :
- Giảm tỷ lệ mắc SR/1.000 dân dưới dưới 0,4/1.000 dân; giảm tỷ lệ chết SR/100.0000 dân năm 2010 và duy trì tỷ lệ chết dưới 0,02/100.000 dân đến năm 2015.
- Phát triển và củng cố các yếu tố bền vững ngăn ngừa sốt rét quay trở lại, phấn đấu đến năm 2015 ít nhất 50% số tỉnh đạt tiêu chí tiền loại trừ và loại trừ sốt rét theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới.
 |
Cần tiếp tục phát triển, củng cố và duy trì màng lưới y tế cơ sở trong công tác phòng chống sốt rét. |
Để đạt được các mục tiêu trên đến năm 2015, Ban Chủ nhiệm Dự án Quốc gia PCSR đã đưa ra các giải pháp về quản lý chương trình, giải pháp làm giảm mắc và giảm chết sốt rét, giải pháp về truyền thông giáo dục sức khỏe, giải pháp phòng chống dịch sốt rét; giải pháp phát triển, củng cố và duy trì màng lưới y tế cơ sở; giải pháp về đầu tư, về cơ chế chính sách, về tổ chức từ tuyến trung ương đến cơ sở và dự kiến nguồn ngân sách từ 2010-2015.
Từ những kết quả đạt được trong những năm qua và định hướng sốt rét đến năm 2015, Chiến lược phòng chống sốt rét ở Việt Nam được đề nghị chuyển đổi thành Chiến lược phòng chống và loại trừ sốt rét, điều này hoàn toàn phù hợp với thực trạng sốt rét ở nước ta hiện nay cũng như đáp ứng yêu cầu của thế giới về mục tiêu loại trừ sốt rét để bệnh sốt rét không còn là vấn đề sức khỏe lớn đối với con người.