Thói quen ăn rau rút tái, rau rút sống của nhân dân dễ dẫn đến việc bị nhiễm nhiều mầm bệnh nguy hiểm.
Rau rút, bà con miền Nam gọi là rau nhút (tên khoa học Neptunia oleraceae lour) thuộc họ đậu (Fabaceae) là loại rau ăn rất tốt. Từ rau rút có thể chế biến nhiều món ăn như: canh cua đồng nấu với rau rút, canh cua nấu với rau rút và khoai sọ, canh khoai môn nấu với rau rút, thịt lợn nạc... Đây là những món canh ngon, có mùi vị đặc biệt, rất dễ ăn. Tuy nhiên, rau rút phải ăn chín, tuyệt đối không được ăn tái, sống. Nhiều người thích ăn rau rút tái, sống cho giòn rất dễ mang bệnh. Bởi rau mọc dưới nước ở các hồ ao, ruộng nước, nên rau dễ bị nhiễm nhiều mầm bệnh nguy hiểm. Ngoài những bệnh truyền nhiễm đường tiêu hoá, rau rút còn là nơi trú ẩn của ấu trùng sán lá ruột, một loại sán lá ký sinh trong ruột người và một số gia súc, nhất là loài lợn.
Chu kỳ phát triển của sán lá ruột rất phức tạp, cần nhiều vật chủ, nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Đây là một loài sán nhỏ, dài 30 - 70mm, chiều ngang 14 - 15mm, ký sinh trong ruột người và súc vật bị bệnh, gây tác hại và đẻ trứng ở đấy. Trứng sán theo phân ra ngoài làm nhiễm bẩn các nguồn nước. Sau một thời gian, ấu trùng dần dần hình thành trong trứng. Sau 2 - 3 tuần lễ ấu trùng phát triển hoàn chỉnh trong trứng, phá vỡ vỏ trứng và ra ngoài tìm ốc để ký sinh. Sau khi vào ốc, ấu trùng tiếp tục phát triển thành ấu trùng có đuôi. Lúc này chúng lại bỏ ốc, sống bám vào một số cây thuỷ sinh như bèo, ngó sen, củ niễng, rau rút... Người và súc vật ăn phải những cây thuỷ sinh này chưa nấu chín sẽ ăn theo cả ấu trùng sán lá vào ruột. Khi vào cơ thể, ấu trùng bám vào ruột non, ký sinh và trưởng thành ở đấy.
 |
Rau rút chế biến được nhiều món ăn nhưng phải nấu chín |
Thời gian từ lúc ấu trùng vào cơ thể đến khi trưởng thành khoảng 90 ngày. Khi mắc bệnh, người bệnh bị mỏi mệt, thiếu máu nhẹ, sức khoẻ giảm sút. Khi bệnh toàn phát, bệnh nhân bị đau bụng kèm theo tiêu chảy. Phân lỏng, không có máu, nhưng nhày và có nhiều thức ăn không tiêu. Để phòng bệnh chúng ta không nên ăn những rau củ mọc dưới nước chưa nấu chín, trong đó có món nộm rau rút và những món rau rút sống hoặc chỉ trần tái.
Tình trạng bệnh ung thư tăng cao
Ước tính, năm 2010, VN có ít nhất 126.300 ca ung thư mắc mới, trong đó nam giới chiếm khoảng 72.000 ca. Thông tin trên được đưa ra tại hội thảo quốc gia phòng chống ung thư tổ chức ngày 7-10 ở Hà Nội.
Phát hiện mới nhất được GS Donald M.Parkin, Hội Phòng chống Ung thư Hoa Kỳ, công bố cho thấy thuốc lá không chỉ gây ra các loại ung thư phổi, vòm họng, thanh quản, lưỡi... mà còn là nguyên nhân dẫn tới ung thư cổ tử cung và ung thư đại trực tràng. Nghiên cứu này còn chỉ ra rằng thuốc lá là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu đối với các bệnh ung thư (chiếm 21%). Tiếp đó, yếu tố nhiễm khuẩn là nguyên nhân của 20% các ca tử vong do ung thư mà nguyên nhân là do thói quen ăn uống và chưa kiểm soát tốt các bệnh lây nhiễm, như: viêm siêu vi B, C gây viêm gan, virus HPV gây ung thư cổ tử cung, vi khuẩn H.pylori gây ung thư dạ dày... Cùng đó, chế độ ăn ít chất xơ và nghèo vitamin cũng là nguyên nhân của 5% các trường hợp ung thư nói chung.
Trong khi đó, theo GS.TS Nguyễn Bá Đức, Phó Chủ tịch Hội Ung thư Việt Nam, tỉ lệ mắc mới ung thư ở Việt Nam đang tăng nhanh. Chỉ riêng tại Bệnh viện K, từ năm 2005 đến 2009 có 71.610 bệnh nhân ung thư. So với giai đoạn 2001-2004, số bệnh nhân ung thư tăng 2,5 lần. Năm 2010, tỉ lệ mắc mới chung của mọi ung thư ở nam giới là 181,3/100.000 người, cao hơn nhiều so với năm 2000 (141/100.000 người). Những loại mắc mới tăng nhiều là ung thư phổi, thực quản, đại trực tràng và ung thư tiền liệt tuyến. Trong khi đó, ở nữ giới, con số này là 134,9/100.000 người, cũng cao hơn nhiều so với 10 năm trước đây (101,6/100.000 người). Thống kê mới nhất cũng cho thấy ung thư vú, dạ dày, phổi, đại trực tràng và ung thư giáp trạng vẫn gặp nhiều nhất. Đáng quan tâm là tỉ lệ ung thư vú ở giai đoạn sớm chỉ chiếm 35,8% trong khi giai đoạn 3 và 4 chiếm tới gần 65%. Tỉ lệ mắc ung thư tăng dần theo tuổi nhưng tăng nhiều ở độ tuổi từ 40-44 ở cả hai giới.
Nhiều quan niệm sai lệch
Báo động nhóm người trẻ Các thống kê của Bệnh viện K cho thấy ung thư đang có xu hướng tăng nhanh ở người trẻ. Số người trẻ mắc ung thư đại trực tràng tăng nhiều hơn ở thanh niên 17 - 18 tuổi, trong khi bệnh này thường xuất hiện ở người trên 40 tuổi. Đáng quan tâm là có đến 1/3 số bệnh nhân ung thư đại trực tràng đến điều trị ở giai đoạn muộn, phải dùng giải pháp hậu môn nhân tạo. Theo TS Nguyễn Quốc Bảo, Trưởng Khoa Ngoại đầu cổ Bệnh viện K, gần đây ung thư khoang miệng cũng gặp nhiều ở những thanh niên 18-20 tuổi. Nhiều trường hợp tới điều trị khá muộn vì nhầm tưởng bị nhiệt miệng. |
Theo GS.TS Nguyễn Bá Đức, ung thư không còn là bệnh nan y ở Việt Nam nhưng thực tế khảo sát tại 12 tỉnh, TP với hơn 12.000 người dân thì hầu hết còn nhiều quan niệm sai lệch. Vẫn còn tới 67,2% số người được hỏi cho rằng ung thư không thể chữa được và 35% cho rằng nếu “đụng” dao kéo vào sẽ di căn sớm và chóng chết. Nhiều người còn giấu bệnh, đi chữa bằng các phương pháp phản khoa học, mê tín dị đoan, chỉ khi bệnh đã quá nặng mới tới bệnh viện. Hậu quả là hơn 70% người bệnh khi phát hiện bệnh thì đã ở giai đoạn muộn, dẫn đến tỷ lệ tử vong rất cao.
GS Nguyễn Chấn Hùng, Chủ tịch Hội Ung thư thành phố Hồ Chí Minh, khẳng định chỉ 5% - 10% ung thư là do di truyền, còn lại ảnh hưởng từ việc “ăn gì, sống như thế nào, hít thở không khí ra sao”. Ở Việt Nam, các bệnh ung thư có nhiều người mắc phải vẫn là ung thư phổi, gan, dạ dày, ruột... Những bệnh này có liên quan nhiều đến thói quen ăn uống, sinh hoạt, môi trường, hoàn cảnh, nếp sống. Chẳng hạn, việc sử dụng các món ăn truyền thống được làm theo phương pháp muối mặn để dành; sử dụng các loại thực phẩm ăn nhanh, ăn nhiều đồ chiên, nướng, nhiều chất béo, ăn đồ sống...Ung thư là bệnh nguy hiểm nhưng có thể ngừa được bằng cách chích vaccine, bằng việc thay đổi thói quen ăn uống, dinh dưỡng, tập thể dục thể thao, bỏ bớt thuốc lá, bia, rượu... Theo thống kê, có tới 1/3 số người mắc ung thư hiện nay vốn có thể phòng ngừa, 1/3 có thể phát hiện sớm để điều trị tốt.
3. 50.000 euro cho cuộc chiến phòng chống ung thư vú
Đây là số tiền mà công ty Siemens cam kết quyên góp cho tổ chức phi lợi nhuận mang tên Susan G. Komen, tổ chức tài trợ cho các dự án cứu chữa bệnh nhân ung thư vú và phát động các chiến dịch tăng cường nhận thức về căn bệnh này trên thế giới nhân tháng tăng cường nhận thức về căn bệnh này năm nay (tháng 10). Cũng trong tháng 10, một chương trình về tăng cường hiểu biết của cộng đồng về bệnh ung thư vú trên toàn thế giới cũng được phát động thông qua việc kêu gọi những người sử dụng Internet gửi ảnh chân dung yêu thích của mình lên một trang web đặc biệt. Tại đó tất cả ảnh chân dung sẽ được ghép nối để tạo thành một dải ruy băng ảo màu hồng, biểu tượng của tình đoàn kết giữa các bệnh nhân bị ung thư vú.
Trên thế giới hiện có khoảng 10% phụ nữ bị ảnh hưởng bởi căn bệnh ung thư vú nhưng khá nhiều người trong số đó có được nhận thức đầy đủ cũng như biết cách phát hiện sớm về căn bệnh này.
Việt Nam là nước thứ 2 sở hữu công nghệ Immune Gamma”
Đó là khẳng định của ThS. Phạm Đức Thuận, Giám đốc trung tâm Công nghệ sinh học, Viện thực phẩm chức năng Việt Nam, khi trao đổi về công nghệ sản xuất immune gamma trong buổi phỏng vấn với chúng tôi về loại chế phẩm sinh học điều biến miễn dịch mới nhất hiện nay này.
Thực ra immune gamma có một lịch sử rất lâu đời. Từ hơn hai mươi năm trước, các nhà vi sinh học Đông Âu đã tiến hành nghiên cứu chiết tách thành vách tế bào vi khuẩn nhằm thu được những chế phẩm có tác dụng mạnh hơn đối với hệ miễn dịch nếu so sánh với vi khuẩn sống thông thường. Nghiên cứu này sau được phát triển và hoàn thiện tại Mỹ. Immune gamma là dòng sản phẩm mới nhất theo hướng nghiên cứu này.
Trên thực tế thử nghiệm lâm sàng, immune gamma giúp gia tăng hệ miễn dịch mạnh mẽ, bằng cách kích hoạt và “nuôi dưỡng” các tế bào lympho B (miễn dịch thể dịch) và lympho T (miễn dịch tế bào). Nhờ đó có thể giúp con người tránh khỏi đa số các bệnh lây nhiễm thường gặp, từ cảm cúm, viêm họng, viêm tai giữa … đến các loại bệnh phức tạp khác do nhiễm khuẩn gây nên. Ngoài ra immune gamma còn giúp hoàn thiện hệ tiêu hóa, bằng cách giúp tái tạo niêm mạc ruột, đồng thời cung cấp thức ăn cho hệ vi khuẩn chí trong ruột. Trong tương lai, immune gamma sẽ trở thành một chế phẩm đặc biệt có hiệu quả cho hệ miễn dịch, mở ra một cơ hội mới cho việc ứng dụng probiotic và công nghệ sinh học vào cuộc sống.
Khác với probiotics, immune gamma được sản xuất dựa trên việc chiết tách vi khuẩn Lactobacillus fermentum thuần chủng bằng công nghệ enzymes đặc hiệu thành những tiểu phân vô cùng nhỏ với cấu trúc peptidoglycan bền vững. Những enzymes này sẽ phân giải các liên kết peptydes của vỏ protein vi khuẩn, nhờ đó có thể “cắt” thành vách vi khuẩn thành vô số mảnh nhỏ với kích cỡ siêu nhỏ. Tiếp theo, chúng tôi lọc để tách rời nhân RND và các tạp chất, thu được chế phẩm immune gamma sạch. Có thể thấy, công nghệ này hoàn toàn khác biệt hẳn với công nghệ sản xuất probiotics, không chỉ đơn thuần là lên men hay nhân giống, mà đòi hỏi cả một quy trình công nghệ phức tạp với kỹ thuật cao.
Thế kỷ 21 là thế kỷ của Công nghệ sinh học, theo tôi immune - gamma chính là một trong số các sản phẩm tiêu biểu cho việc ứng dụng công nghệ sinh học kỹ thuật cao vào cuộc sống. Công nghệ immune gamma ngay sau khi được hoàn thiện đã được chuyển giao cho Viện Khoa học thực phẩm Việt Nam và đã được sản xuất thành công. Hiện nay, Trung tâm công nghệ sinh học thuộc Viện Thực phẩm chức năng Việt Nam cũng đang nắm vững công nghệ này, sẵn sàng để cung cấp nguyên liệu immune - gamma cho nhu cầu điều trị và hỗ trợ điều trị bệnh trong nước. Có thể nói, Việt Nam đã hoàn toàn làm chủ kỹ thuật và quy trình sản xuất, và là nước thứ hai sau Hoa Kỳ sở hữu công nghệ immune – gamma!
Mầm bệnh nguy hiểm trong toilet nhà bạn
Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới, hàng năm có khoảng 12,9 triệu trẻ em tử vong vì các loại bệnh tật trong đó có tới 4,3 triệu trẻ tử vong vì nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính. Trẻ nhỏ dưới 1 tuổi là nhóm trẻ dễ bị nhiễm khuẩn và mắc bệnh nhất. Việt Nam là nước nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa nên điều kiện để các loại vi khuẩn gây bệnh sinh sôi, phát tán rất thuận lợi. Tại Hội nghị khoa học bệnh phổi toàn quốc lần 3 tổ chức tại TPHCM, các chuyên gia y tế đầu ngành đã cho biết, nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính đối với trẻ dưới 5 tuổi là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu. Theo điều tra của Chương trình nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính quốc gia, tần suất mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở trẻ dưới 5 tuổi từ 4,1 lần/trẻ/năm. Mỗi năm, ước tính ở VN có khoảng 36-45 triệu lượt trẻ mắc nhiễm bệnh
Đứng sau nhiễm khuẩn hô hấp là các bệnh liên qua đến nhiễm khuẩn, viêm đường ruột. Trẻ em dưới 5 tuổi, tỷ lệ mắc bệnh từ 2-3 lần/một trẻ/năm ở nước phát triển. Ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, tỷ lệ này từ 10-18 lần/một trẻ/năm. Thống kê của Cục Y tế dự phòng, mỗi năm, các bệnh viện TW và địa phương ghi nhận trên 1 triệu người mắc các bệnh tiêu chảy, hội chứng lỵ, thương hàn…
Những tháng cao điểm như vào mùa hè, thời tiết nắng nóng, thay đổi thất thường thì lượng bệnh nhi tới khám và nhập viện điều trị lên tới hàng chục ngàn lượt. Tiêu biểu là đợt nắng nóng vừa qua, trẻ nhập viện vì tiêu chảy, viêm nhiễm đường hô hấp đông kỷ lục khiến BV và các nhân viên y tế phải vất vả, “gồng mình” khám và điều trị để giảm tải. Theo báo cáo về việc tái ưu tiên cho chiến dịch kiểm soát tiêu chảy quốc gia trong đó tập trung vào những vấn đề như diễn biến dịch tiêu chảy cấp ở các BV Nhi nói chung và BV Nhi TW nói riêng từ năm 1998 đến năm 2003 cho thấy, có hơn 54% trẻ bị tiêu chảy do Rotavirus gây ra, thường gặp nhất là trẻ dưới 5 tuổi. Riêng tại BV Nhi TW, tỉ lệ trẻ mắc tiêu chảy do Rotavirus chiếm 12% số lượng trẻ nhập viện.
Tại BV Nhiệt đới TPHCM, hàng năm cũng tiếp nhận điều trị nội trú khoảng 30.000 bệnh nhân và ngoại trú khoảng 150.000 bệnh nhân. Mô hình các bệnh truyền nhiễm điều trị tại bệnh viện đã có nhiều thay đổi so với thời gian trước đây để theo kịp tình hình diễn biến phức tạp của bệnh tật. 7 tháng đầu năm nay, tình hình dịch bệnh có sự song hành của nhiều loại bệnh truyền nhiễm như tả, nhiễm khuẩn hô hấp, sốt xuất huyết tay chân miệng... nên số lượng bệnh nhân đạt gần bằng số bệnh nhân của cả năm vào những năm trước. Riêng trong tháng 7, trong số khoảng 3 – 5 ngàn bệnh nhân tới khám thì đã có 15-20% trong số này phải nhập viện. Khoa Nhiễm của các BV Nhi trên địa bàn TP.HCM cũng ghi nhận hàng ngàn bệnh nhi nhập viện do nhiễm khuẩn hô hấp, tiêu chảy, bệnh tay chân miệng, trong đó 94% là các bệnh nhân dưới 36 tháng tuổi. Riêng bệnh tay chân miệng (qua đỉnh dịch tháng 2 – tháng 5) vẫn ghi nhận có 320 ca và dự báo sẽ lại tăng trở lại vào những tháng cuối năm nay (tháng 9-tháng 11).
Các chuyên gia về vệ sinh y tế công cộng cảnh báo, nguy cơ nhiễm khuẩn của trẻ chủ yếu từ gia đình, trường học mầm non, lớp học bán trú. Trong đó, ngoài việc nhiễm khuẩn qua thực phẩm thì chủ yếu trẻ vẫn bị nhiễm khuẩn từ không khí, môi trường hay các dụng cụ dọc tập, đặc biệt là nhà vệ sinh “bẩn”. Thậm chí, các loại vi khuẩn gây bệnh luôn tồn tại và sinh sôi trên tất cả các vật dụng trong nhà. Ổ vi khuẩn lớn nhất nhà vệ sinh, từ tay nắm cửa, sàn nhà, nắp, bệ và cần gạt nước của bồn. Ngay cả không khí trong toilet cũng có hàng triệu vi khuẩn bay lơ lửng trong đó và sẵn sàng... gây bệnh cho người tiếp xúc.
Theo TS.BS Trần Phủ Mạnh Siêu, Trưởng khoa Xét Nghiệm, Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới thành phố Hồ Chí Minh: “Toilet là nơi ẩm ướt, thiếu ánh sáng nên thường ẩn chứa nhiều mầm bệnh nguy hiểm từ vi rút, vi trùng đến ký sinh trùng gây ra những bệnh nặng, khó chịu cho bệnh nhân. Đa số các mầm bệnh lây từ toa lét đều ít nguy hiểm đối với người bình thường khỏe mạnh nhưng đối với những người suy giảm miễn dịch như trẻ em thì rất nguy hiểm vì bệnh dễ trở nặng, có khi tử vong..”. Vì vậy, vệ sinh toilet thường xuyên trở nên tối cần thiết. Và quan trọng không kém là vệ sinh đúng cách, sử dụng các sản phẩm tẩy rửa bồn cầu chuyên dụng để diệt khuẩn chứ không nên chùi rửa qua loa với nước hay bột giặt vì ngay cả bột giặt cũng không diệt sạch được vi khuẩn.
Ngoài ra, Tổ chức Y tế thế giới khuyên dùng trong tẩy rửa và khử trùng, nên sử dụng các sản phẩm có công thức kiềm, ví dụ như công thức của Vim. Đây là công thức có tác dụng tẩy sạch các vết bẩn, chất hữu cơ và tiêu diệt vi khuẩn hoàn toàn và hiệu quả. Chị Luyến, một nhân viên văn phòng tại quận 3 cho biết, chị đọc sách báo và truy cập trên mạng thấy nói về vi khuẩn trong nhà tắm, bồn cầu gây bệnh vàng da, tiêu chảy và nhiều bệnh nhiễm khuẩn nguy hiểm khác nên chị rất lo lắng. Tìm hiểu về cách vệ sinh toilet đúng cách từ các chuyên gia càng làm chị rùng mình hơn: “Hóa ra dùng bột giặt như nhà mình để cọ rửa bồn cầu không thể diệt được các loại vi khuẩn gây bệnh. Trước đến giờ mình thấy bồn cầu được vệ sinh trắng và sáng bóng thì yên tâm, giờ chắc phải xem lại vấn đề này mới được!”
Nan giải đối phó vi khuẩn bệnh viện
Vào bệnh viện để chữa bệnh nhưng không ít bệnh nhân lại bị mắc thêm bệnh viêm phổi do tình trạng nhiễm khuẩn từ chính nơi này.Theo Cục quản lý Khám chữa bệnh, Bộ y tế, nhiễm khuẩn trong các bệnh viện ở Việt Nam đang ở mức cao do điều kiện vệ sinh kém, tình trạng lạm dụng kháng sinh trong điều trị hoặc quá tải trong phẫu thuật ngoại khoa… Bệnh nhân (chủ yếu phụ nữ, người già, trẻ em) là đối tượng đặc biệt dễ bị mắc viêm phổi bệnh viện bởi họ bị suy giảm sức đề kháng nhiều nhất, dễ thương tổn hoặc thiếu dinh dưỡng…
Sau một tuần đầu tiên điều trị tại viện, cháu N.Đ.T, 6 tuổi, quê ở Bắc Giang, bị viêm màng não mủ đã có dấu hiệu hồi phục. Đột nhiên đến tuần thứ hai, cháu xuất hiện các triệu trứng sốt kèm theo ho, nôn ói hết thức ăn. Sau hội chẩn, các bác sĩ bệnh viện Nhi Trung ương xác nhận, cháu đang mắc thêm bệnh viêm phổi cấp. Theo bác sĩ điều trị, bệnh nhân nhập viện trong tình trạng sốt cao, co giật, loạn tri giác, thị giác, lại có thể trạng rất gầy, yếu nên rất dễ bị vi khuẩn bệnh viện tấn công.
 |
Bệnh viện luôn đông đúc, chật chội là nơi ẩn chứa nhiều vi khuẩn gây bệnh. Ảnh minh họa: Lê Hưng |
Không chỉ ở bệnh viện Nhi mà ở nhiều bệnh viện khác, việc đối phó với vi khuẩn bệnh viện cũng rất nan giải. Tại khoa Nhi bệnh viện Saint Paul, lượng bệnh nhân đến khám và điều trị lúc nào cũng đông nghẹt. Khu hành lang la liệt người lớn, trẻ em ngồi chờ khám. Một chị bế đứa con vừa được tiêm xong thản nhiên vứt miếng bông cầm máu ở vết tiêm ném xuống đất, mặc dù thùng rác chỉ cách đó mấi bước chân. Dọc nền hành lang này dễ dàng nhìn thấy có rất nhiều miếng bông còn dính máu như thế.
Tại khoa Ngoại tổng hợp bệnh viện Thanh Nhàn, vệ sinh trong phòng khá sạch sẽ. Tuy nhiên, bác sĩ ở đây cho biết ngoài việc thăm khám cho bệnh nhân, họ luôn phải nhắc nhở người nhà đi chăm sóc bệnh nhân thực hiện quy định đảm bảo vệ sinh cho bệnh viện. Ví như, bố của một bệnh nhi vừa mổ thoát vị bẹn, dù các bác sĩ đã dặn người nhà không được ngồi lên giường bệnh nhân nhưng người đàn ông này vẫn mặc kệ, hễ bác sĩ quay ra anh ta lại ngồi xuống. “Họ không hiểu được rằng, chỉ một hành động vô thức có thể gây nguy hiểm cho người bệnh, nhất là những người vừa trải qua phẫu thuật nguy cơ nhiễm trùng rất cao”, vị bác sĩ này cho biết.
Theo Bộ Y tế, để giảm nhiễm khuẩn bệnh viện, các bác sĩ tuân thủ nghiêm việc ngăn chặn sự lây chéo bệnh nhân-thầy thuốc-bệnh nhân, đồng thời kiểm soát nhiễm trùng bằng cách rửa tay, chăm sóc kỹ đường thở của bệnh nhân…Đối với bệnh nhân, sau mổ cần tập đi lại sớm, tập hít thở mạnh và tránh nằm lâu một chỗ.
75% mắc viêm phổi sau nhập viện
Theo thống kê của Bộ y tế, viêm phổi mắc phải trong bệnh viện thường xải ra sau 48 giờ bệnh nhân nhập viện. Trên 75% bệnh nhân mắc viêm phổi bệnh viện do đặt nội khí quản hai phẫu thuật ngực, bụng…và số người tử vong do biến chứng này lên tới trên 60%, cao gấp hai lần những người không bị mắc viêm phổi. Nguyên nhân chính được xác định là do người bệnh bị nhiễm vi khuẩn, vi nấm, vi-rút… kkháng sinh trong bệnh viện.
Điều tra tại bệnh viện Nhi Trung ương cho thấy, trong dịch khí quản của các bệnh nhi tại Khoa Sơ sinh và Điều trị tích cực có 15 loại vi khuẩn khác nhau và 36% bình ô xy và bình hút là nguồn lây bệnh chính. Tại Khoa Chấn thương sọ não, bệnh viện Thanh Nhàn- Hà Nội, mỗi năm có trên 5.000 ca vào viện, 12% số này bị hôn mê sâu. Do phải nằm điều trị thở máy trong thời gian dài, 25-28% bệnh nhân sau phẫu thuật mắc thêm viêm phổi ứ đọng. Mặc dù đã được dùng kháng sinh thế hệ ba, nhưng vẫn có 50% bệnh nhân tử vong. Theo Bộ Y tế, nếu mắc thêm viêm phổi bệnh viện, mỗi bệnh nhân sẽ kéo dài thời gian nằm viện thêm từ 9 – 24 ngày chi phí điều trị cũng tăng thêm từ 2 – 32 triệu đồng. Không chỉ có “lỗi” của bệnh viện, nhiều thói quen xấu của không ít y – bác sĩ và cả người nhà bệnh nhân và người bệnh như không rửa tay, mang bao tay, đeo khẩu trang… đã góp phần làm tăng nguy cơ lây nhiễm bệnh viêm phổi bệnh viện.
Kết quả điều tra theo vùng, cụm bệnh viện mới đây cho thấy tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện là 5,5-8%. Riêng tại Hà Nội, qua điều tra, giám sát tại 34 bệnh viện trong năm 2009, tỷ lệ này là 2,9%. Các nhà nghiên cứu y tế đưa ra 5 hậu quả đối với bệnh nhân: tăng tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ tử vong, ngày điều trị, chi phí điều trị và tăng sự kháng thuốc của vi sinh vật. Còn với nhân viên y tế, nguy cơ bị phơi nhiễm sau thương tổn do kim tiêm nhiễm khuẩn xuyên qua da từ một bệnh nhân nguồn dương tính là viêm gan C 10%, viêm gan B 22-40%, HIV 0,03%… |
Ngày càng nhiều người trẻ phải chạy thận nhân tạo
Đang ở lứa tuổi "bẽ gãy sừng trâu", nhưng nhiều người trẻ lại phải gắn chặt mình với chiếc máy chạy thận do bị suy thận nặng. Đáng nói, bệnh suy thận ở người trẻ thường phát hiện khi ở giai đoạn muộn do diễn tiến bệnh âm thầm.
 |
Dù nói đã "chai lỳ" với bệnh tật, nhưng mỗi khi nằm trên giường bệnh chạy thận, ánh mắt Thuận rất buồn (Ảnh: H.Hải) |
Có mặt tại khoa Thận nhân tạo (BV Bạch Mai) 6h chiều ngày 6/4, ngay tại dãy giường bệnh đầu là 2 thanh niên còn rất trẻ đang phải nằm lọc máu.
Còn rất trẻ, mới 19 tuổi, nhưng em Nguyễn Thị Thanh (Ứng Hòa, Hà Tây) cũng đã có thâm niên chạy thận hơn 1 năm nay. Năm 18 tuổi, khi đang là cô học sinh lớp 12 trường THPT Đại Cường, Ứng Hòa, Hà Tây, thì phát hiện mình bị suy thận độ 4. Thanh kể, thời điểm đó, sức khỏe của mình hoàn toàn bình thường, sau một buổi đi học về, bỗng dưng Thanh bị sốt, kèm theo hiện tượng phù nề chân, tay, rồi không đi tiểu được. Gia đình vội đưa em tới viện khám, nghĩ cũng chắc bệnh cúm sốt thông thường, nên khi bác sĩ thông báo Thanh bị suy thận giai đoạn 4, mỗi tuần phải chạy thận 3 lần tại khoa Thận nhân tạo thì cả gia đình đều sốc.
Kể từ thời điểm đó, Thanh nghỉ học hẳn, không dám đến trường mà chỉ ở nhà, tuần đến viện 3 lần lọc máu. Nhà nghèo, chưa có nghề nghiệp gì nên Thanh cũng không dám ở trọ tại viện cho gần, mà mỗi lần đi chạy thận đều có chị gái đèo đi, đến 7h tối, sau khi chạy xong thì hai chị em lại trở nhau về. “Em có bảo hiểm hộ nghèo, được bảo hiểm chi trả gần hết, thế mà mỗi tháng cũng phải trả thêm 300 ngàn, rồi chị gái lại mất thời gian, công sức chở em lên viện. Em thì yếu, chẳng làm gì giúp bố mẹ được, sao đành lấy thêm tiền của ông bà để ở trọ. Bố mẹ già rồi, vừa phải nuôi em, vừa phải cáng đáng thêm chi phí về bệnh tật, đau lòng lắm nhưng chẳng biết làm sao, em chẳng thể làm gì ra tiền”, nói rồi Thanh bật khóc.
Ngay cạnh giường của Thanh là chàng trai trẻ Nguyễn Duy Thuận (25 tuổi) đang nằm lọc máu. Đã có thâm niên 4 năm chạy thận do suy thận độ 4, nên Thuận đã “chai sạn”, chấp nhận bệnh tật của mình. “Khi đó mình mới 21 tuổi, đang là sinh viên đại học Mở Hà Nội, chẳng bao giờ nghĩ, trai trẻ khỏe khoắn như mình lại phải gắn với bệnh viện như bây giờ. Lúc đó mình cũng không thấy có dấu hiệu gì, chỉ là thấy người hay mệt mỏi, nhất là sau khi chơi thể thao nên mới đi khám. Khi bác sĩ trả kết quả, yêu cầu nhập viện chạy thận vì suy thận giai đoạn cuối, mình còn tưởng bác sĩ nhầm. Sau đó mới vội gọi về cho gia đình, cả nhà đều sốc, bản thân mình cũng sốc, giờ thì đã “chai lỳ” rồi”, Thuận chia sẻ.
Vì đang là sinh viên nên Thuận luôn phải chọn giờ lọc máu vào ca 3. Sau buổi học, đến viện lọc máu trong 3 tiếng rưỡi, rồi lại phóng xe về nhà tận Hoài Đức, Hà Nội. Đứng ngay cạnh Thuận để đợi đến lượt lọc máu, anh Bùi Hồng Quang (28 tuổi ở Đan Phượng, Hà Nội) trầm ngâm vì đã đi làm mấy năm rồi, mà anh chẳng giúp được gia đình chút gì về kinh tế. Toàn bộ tiền thu nhập chỉ đủ chi phí chạy thận, có những tháng, gia đình còn phải giúp thêm, nên đến giờ anh vẫn không dám nghĩ tới chuyện lập gia đình. Cũng chỉ từ những biểu hiện đau đầu, buồn nôn, chán ăn, thèm nước, Quang đi khám và rất ngỡ ngàng khi đã bị suy thận ở giai đoạn 3B và buộc phải lọc máu tuần 3 lần. Do BHYT trái tuyến nên mỗi tháng, anh phải trả viện phí là 3.640.000 đồng, trong khi mức lương chỉ 4,5 triệu/tháng. “Rất may mình còn có gia đình, có mọi người trong công ty ủng hộ. Sếp rất thông cảm, giúp đỡ mình. Sau chạy thận ca 4 là khoảng hơn 10h, mình về luôn công ty ngủ, sáng hôm sau đi làm luôn. Chứ nếu phải một mình đối mặt với căn bệnh này sẽ rất khó khăn”, anh Quang nói. Còn rất nhiều bệnh nhân trẻ khác đang lọc máu tại khoa Thận nhân tạo (BV Bạch Mai) đều phát hiện bệnh một cách tình cờ. Sau một buổi chơi thể thao, một ngày đi học về, họ bỗng thấy mệt mỏi, uể oải, bị sốt, phù nề… và khi đến viện khám, rất nhiều người trong số đó đã bị suy thận giai đoạn cuối, buộc phải lọc máu để duy trì sự sống.
 |
Trong khi ở các nước phát triển, độ tuổi phải chạy thận thường từ 60 tuổi trở lên, thì ở VN, rất nhiều bệnh nhân chạy thận là những người còn rất trẻ, do phát hiện bệnh muộn nên không thể điều trị bảo tồn. (Ảnh:H.Hải) |
“Chạy thận rất tốn kém”
“Trong khi người suy thận trên thế giới chủ yếu là người già, tuổi chạy thận trung bình từ 60 tuổi trở lên thì ở Việt Nam, suy thận giai đoạn cuối lại đang gặp ở rất nhiều người trẻ tuổi”. TS Nguyễn Cao Luận, trưởng khoa Thận nhân tạo Bệnh viện Bạch Mai chia sẻ. “Nhìn các bạn trẻ đang lứa tuổi đôi mươi, lẽ ra phải tràn đầy sức sống thì lại nằm mệt mỏi trên giường bệnh, gắn với chiếc máy chạy thận mà không khỏi đau lòng. Do chưa có thói quen đi khám sức khỏe định kỳ, chỉ đến khi có biểu hiện mệt mỏi, phù thũng, sốt… mới đi khám, thì hầu hết bệnh đã ở giai đoạn muộn. Khi đó, không có cách điều trị nào khác ngoài phải lọc máu đều đặn tại viện”.
Khi phải lọc máu, chi phí tốn kém hơn rất nhiều so với điều trị bảo tồn (suy thận ở giai đoạn đầu 1, 2) và thường phải sau 5-10 năm mới phải chạy thận, vì thế, TS Luận khuyến cáo việc phát hiện bệnh sớm là vô cùng quan trọng. Theo thống kê, khoảng 10% dân số bị suy thận ở các cấp độ, trong số đó 10% phải lọc máu (trong đó chỉ khoảng 10% số này được điều trị). Còn rất nhiều người bệnh khác, khi phát hiện bệnh, chỉ chạy thận được 1-2 lần rồi xin về để chết vì quá nghèo. “Chí phí điều trị cho bệnh nhân chạy thận nhân tạo là 7,5-8 triệu đồng/tháng, nếu lọc màng bụng là 9,5 triệu đồng/tháng. Theo nguyên tắc đồng chi trả, người nghèo có bảo hiểm y tế phải trả 300 – 400.000 đồng/tháng. Dù bệnh viện đã phân bổ lại nguồn thu để hỗ trợ một nửa phí điều trị cho bệnh nhân suy thận có bảo hiểm, nhưng rất nhiều người bệnh nghèo đến mức không có tiền chi phí sinh hoạt, ăn ở trong thời gian chạy thận, nhà neo người nên đành chấp nhận cái chết”, TS Luận cho biết.
Tuy nhiên, bệnh suy thận lại diễn biến rất âm thầm, khó nhận biết. Khi đã có biểu hiện như ăn không ngon, mệt bất thường, đi tiểu nhiều, uống nhiều nước, tiểu khó, tiểu máu, tiểu đục, đau bụng, đau dọc theo vùng cột sống thắt lưng, cao huyết áp, phù nề hay bị chuột rút… thì bệnh thường đã ở giai đoạn muộn. Vì thế, tất cả mọi người (kể cả những người trẻ) nên khám sức khỏe định kỳ, làm xét nghiệm cơ bản về về huyết học, tiết niệu 6 tháng/lần để phát hiện bệnh.
Kháng thể đơn dòng và hy vọng mới trong điều trị ung thư
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, bệnh ung thư ngày càng gia tăng về số người mắc bệnh, thể loại bệnh cũng như mức độ nguy hiểm. Các nhà khoa học thuộc nhiều quốc gia đã tốn không ít công sức, tiền bạc dành tâm huyết nghiên cứu những phương cách mới nhất, hiệu quả nhất nhằm làm thuyên giảm hay kéo dài thời gian sống còn cho người bệnh. Một trong những cách thức đó là điều trị trúng đích theo cá thể, đặc biệt đối với ung thư đại trực tràng, ung thư tế bào vẩy vùng đầu, cổ.
Mỗi người bệnh là một đích điều trị
Hiện nay, trong điều trị ung thư nói chung vẫn dựa vào các phương pháp kinh điển như phẫu thuật (ở giai đoạn sớm), xạ trị, hóa trị liệu (với các trường hợp ung thư lan rộng, khó lấy hết được khối u)... Việc sử dụng phương pháp ngoại khoa hay nội khoa, sử dụng phối hợp nhiều cách hay một cách ở những bệnh nhân cụ thể tại thời điểm nhất định còn phụ thuộc rất nhiều vào giai đoạn bệnh, cơ địa mỗi người bệnh. Điều trị trúng đích là một phần trong điều trị nội khoa ung thư. GS. Nguyễn Bá Đức - Phó Chủ tịch Hội Ung thư Việt Nam cho biết: Dựa vào những nghiên cứu rất sâu về sinh học phân tử của tế bào ung thư, người ta phát hiện ra rằng, tế bào ung thư phát triển vô hạn độ do không nhạy cảm với các tín hiệu chống tăng trưởng, giảm nhạy với hiện tượng chết tế bào, phát triển và duy trì mạng mạch máu (tăng sinh mạch) xâm lấn và di căn. Và muốn phát triển được, tế bào ung thư phải có các thụ thể tác động trên bề mặt của tế bào. Có thể ví mỗi tế bào là một viên gạch của cơ thể, vỏ ngoài có những ăng-ten nhận tín hiệu tác động, chỉ huy vào các nhân tế bào, có các gen của ADN của tế bào, ADN quyết định tế bào có tiếp tục nhân lên, ngừng lại hay là chết. Qua đó tìm ra những hoạt chất như kháng thể đơn dòng (cetuximab, panitumumab...) tác động vào từng đích phân tử trên bề mặt tế bào hay các hàng rào dẫn truyền nhằm ngăn chặn tín hiệu hoặc ngăn chặn dẫn truyền với mục đích cuối cùng là làm cho tế bào không phát triển. Tuy nhiên, đây cũng chỉ được coi là một phương pháp hỗ trợ để tăng thêm đáp ứng của người bệnh với các phương pháp điều trị khác, diệt tế bào ung thư nhưng nó cũng không thể áp dụng cho tất cả mọi trường hợp mà có sự lựa chọn riêng. Kháng thể đơn dòng điều trị trúng đích đặc biệt có tác dụng trong điều trị ung thư có đột biến gen KRAS (trong ung thư đại trực tràng thể hoang dã) hay thụ thể EGFR.
Kháng thể đơn dòng trong điều trị ung thư đại trực tràng
Các kháng thể đơn dòng cho phép điều trị đích bằng cách khóa chặt các phân tử đặc hiệu trên tế bào miễn dịch. BS. Wong Seng Weng- Giám đốc Y khoa, chuyên gia tư vấn về nội khoa và ung thư Singapore cho biết, mỗi năm có khoảng 1 triệu ca mắc mới ung thư đại trực tràng với tần suất tăng dần, tỷ lệ tử vong do bệnh cũng rất cao (khoảng 40-50%, có thể lên đến 70% ở các nước đang phát triển) nên nhu cầu tìm kiếm những điều trị mới tăng cao. Trong đó kháng thể đơn dòng sử dụng kết hợp với phương pháp điều trị ung thư khác như hóa trị được ví như là một liệu pháp điều trị đa mô thức nhằm cải thiện tình trạng bệnh, giảm tổng khối bướu, giảm triệu chứng, tăng thời gian sống còn, chuyển những trường hợp di căn thành mổ được. Ung thư đại trực tràng di căn đột biến KRAS (thể tự nhiên) được chứng minh rõ ràng với hiệu quả từ phương pháp này với tỷ lệ đáp ứng điều trị khoảng 60%, giảm nguy cơ tiến triển bệnh 32% (khi sử dụng kháng thể đơn dòng thể khảm IgG1). Để xác định đột biến KRAS và lựa chọn điều trị đích, người bệnh được làm một xét nghiệm riêng biệt, mẫu mô (có thể là mô tươi, mô đông lạnh hoặc cố định bằng paraffin) được gửi tới nơi xét nghiệm, nhà giải phẫu bệnh học xác nhận có mẫu ung thư và ADN mẫu được chuẩn bị để xét nghiệm KRAS, có thể sử dụng phản ứng PCR khuếch đại ADN và tìm đột biến này. Xét nghiệm KRAS có ý nghĩa quyết định trong việc lựa chọn có điều trị trúng đích hay không vì có đến 60% số người mắc ung thư đại trực tràng có gen KRAS đột biến, nếu áp dụng điều trị đích theo cá thể sẽ không có tác dụng nhưng hiện xét nghiệm này vẫn chưa được thực hiện thường quy tại Việt Nam.
Và ung thư tế bào vẩy
GS. Anthony Chan - Chủ nhiệm Khoa Ung bướu lâm sàng - Đại học y khoa Hồng Kông đã nghiên cứu nhiều bệnh nhân mắc ung thư tế bào vẩy vùng đầu cổ được điều trị bằng kháng thể đơn dòng kết hợp với hóa trị (liệu pháp điều trị đa mô thức) phát hiện ra rằng, kháng thể đơn dòng thể khảm IgG1 có tác dụng đặc hiệu kháng thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu mô (EGFR) khi nó ngăn chặn con đường dẫn truyền tín hiệu liên quan đến kiểm soát sự sinh tồn của tế bào ung thư, làm chậm sự tiến triển của chu trình tế bào, giảm tạo mạch máu nuôi, ngăn chặn quá trình xâm lấn và di căn của tế bào ung thư đến các cơ quan khác. Tuy nhiên, khi được điều trị, người bệnh có thể gặp một số tác dụng không mong muốn như viêm miệng (hay niêm mạc), nuốt khó, khô miệng, ban da dạng mụn, mệt mỏi...
Bệnh ung thư khi được phát hiện thường ở giai đoạn rất muộn, có khi đã di căn xa nên việc áp dụng một biện pháp điều trị là chưa đủ, có thể cần phải kết hợp nhiều biện pháp trên cơ sở bệnh tích của người bệnh. Điều trị đích theo cá thể được áp dụng, có thể chỉ sử dụng cho một số trường hợp đã chứng minh hiệu quả khi làm giảm được triệu chứng, kéo dài cuộc sống cho người bệnh. Hiện nay, do thuốc sử dụng trong điều trị trúng đích còn khá đắt nên phương pháp này mới được thực hiện tại một số bệnh viện ở thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và trên những bệnh nhân được lựa chọn kỹ lưỡng.
Điều trị trúng đích - Cơ hội mới cho người bệnh ung thư
Vừa qua, tại Hà Nội, Viện Nghiên cứu phòng chống ung thư phối hợp với Công ty Merck Serono vừa tổ chức hội thảo về điều trị trúng đích theo cá thể cho người bệnh ung thư đại trực tràng và ung thư tế bào vẩy vùng đầu cổ. Theo đó, người bệnh ung thư sẽ được điều trị theo từng cơ địa và bệnh tích nhằm giảm triệu chứng, tăng thời gian sống còn. Khi kết hợp với một số phương pháp điều trị ung thư kinh điển khác như hóa trị liệu, biện pháp này cũng có tác dụng ngăn chặn sự nhân lên của tế bào lạ, làm giảm số lượng khối u, thuyên giảm bệnh... Điều trị trúng đích đã được thực hiện ở nhiều nước như Singapore, Trung Quốc, Thái Lan... nhưng ở Việt Nam vẫn chưa được phổ biến rộng rãi do chi phí còn cao. Áp dụng phương pháp điều trị trúng đích - Cơ hội mới cho người bệnh ung thư sẽ được lựa chọn trong tương lai gần ở nước ta.
Với 8 cách ngăn ngừa lão hóa
Bước vào thời kỳ lão hoá, mọi hoạt động của cơ thể và đặc biệt là trí não đều không tránh khỏi qui luật tự nhiên của sự suy kém.Các chú ý sau đây chính là bí quyết giúp trí não luôn minh mẫn khi bước vào thời kỳ lão hoá.
Không ngừng vận động não bộ
Trong một vài năm trở lại đây, các nghiên cứu y học đã chỉ ra rằng: giữ cho não bộ luôn hoạt động tích cực, đặc biệt ở người già sẽ giúp cho tinh thần luôn minh mẫn và hạn chế tình trạng suy giảm trí nhớ. Các dạng vận động cho não bộ bao gồm các bài tập xếp hình, chơi ô chữ, đọc báo và suy ngẫm... rất tốt cho việc ngăn chặn suy giảm trí nhớ.
Hạn chế sử dụng thuốc
Sử dụng thuốc từ lâu đã trở thành một thói quen của nhiều người. Bất kỳ khi nào gặp phải vấn đề gì dù là nhỏ nhất về sức khoẻ, hay thậm chí cả những khi tình trạng sức khoẻ bình thường, người ta cũng sử dụng thuốc. Đó là các loại vitamin, thành phần bổ sung dưỡng chất, đa vi lượng...
Tuy nhiên, theo các bác sĩ, thì mọi loại thuốc bổ, vitamin... chỉ khiến chúng ta lãng phí tiền bạc chứ không hề mang lại lợi ích như nhiều người vẫn nghĩ. Thay vì lạm dụng các loại thuốc bổ này, để ngăn chặn lão hoá và giữ cho trí tuệ luôn minh mẫn, khoẻ mạnh, mỗi người cần tránh lạm dụng thuốc.
Tránh stress
Stress là một kẻ thù nguy hiểm đối với sức khoẻ hệ thần kinh và não bộ. Khi stress diễn ra, nồng độ các hoá chất có hại trong não tăng lên, đặc biệt ở vùng não có tên gọi hippocampus và khu vực não kiểm soát trí nhớ. Khi đó, não bị tác động mạnh và có thể dẫn tới những căng thẳng thần kinh không tốt cho sức khoẻ trí não. Để giảm stress và giữ cho trí tuệ được minh mẫn, tránh nguy cơ suy giảm trí nhớ, mỗi người nên tập luyện các bài tập giúp thư giãn hiệu quả như yoga, thiền... để tinh thần được thư thái và ngăn ngừa stress.
Ăn nhiều cá
Cá được xem là thực phẩm tốt cho trí não và mang lại hiệu quả ngăn ngừa các bệnh do lão hoá, bệnh tim mạch. Nhờ có loại thực phẩm này, người dân vùng biển thường có sức khoẻ tốt và tuổi thọ trung bình cao hơn các vùng khác. Theo nhiều nghiên cứu, trong cá có chứa rất nhiều axít béo omega3. Đây là thành phần thiết yếu cho sự phát triển của não bộ ở trẻ nhỏ, đồng thời có thể giúp ngăn chặn sự lão hoá và chứng suy giảm trí nhớ ở người già. Protein trong thịt cá là loại protein dễ hấp thu và không làm tăng cholesterol giống như các loại thịt giàu đạm khác.
Để cho nhan sắc được nghỉ ngơi
Giấc ngủ có tác dụng rất quan trọng đối với quá trình phục hồi cơ thể và sức khoẻ của não bộ. Ngủ đủ giấc không chỉ giúp cho da căng mịn, cơ thể khoẻ mạnh, tỉnh táo, mà não cũng được nghỉ ngơi đầy đủ sẽ hạn chế nguy cơ mắc chứng suy giảm trí nhớ và tình trạng căng thẳng do công việc bận rộn đem lại.
Chăm sóc cơ thể
Việc chăm sóc cơ thể cần chú ý tới chỉ số cân nặng và các chỉ số trong máu. Béo phì hiện là căn bệnh khá phổ biến và là nguyên nhân dẫn tới nhiều chứng bệnh khác chẳng hạn như: mỡ máu, bệnh về tim mạch, đường huyết ... và thậm chí cũng làm gia tăng nguy cơ lão hoá, mắc đột quị, suy giảm trí nhớ... Tự chăm sóc cơ thể, và tránh xa các thói quen xấu như hút thuốc lá, bia rượu, đồ ăn giàu chất béo... sẽ giúp cơ thể khoẻ mạnh, trí não luôn minh mẫn đồng thời phòng ngừa và phát hiện sớm các bệnh viêm nhiễm có hại cho cơ thể và trí não.
Chú ý tới chế độ ăn uống
Chế độ ăn uống tuỳ tiện có thể khiến cho cơ thể thiếu hoặc thừa dưỡng chất đều không có lợi cho sức khoẻ. Đặc biệt, chế độ ăn thiếu dưỡng chất có thể khiến cho trí não hoạt động uể oải, kém linh hoạt, trí nhớ giảm sút...Ngược lại, nếu ăn quá nhiều, không có sự kiểm soát có thể khiến cho cơ thể bị thừa chất, gây nên các bệnh như gút, tiểu đường, béo phì... mà ảnh hưởng của nó đều không có lợi cho hoạt động trí não.
Vận động thể chất - yếu tố quan trọng để đầu óc luôn minh mẫn
Tập thể dục thường xuyên, nhất là các bài tập nhẹ nhàng kèm theo nhạc như aerobic có tác dụng kích thích rất tốt đối với trí não và hệ tuần hoàn. Sự vận động giúp cải thiện lượng máu lưu thông lên não, khiến cho não bộ phát triển, tránh được nguy cơ đột quị, tắc nghẽn mạch máu và các nguy cơ suy giảm trí nhớ.
Trang bị thiết bị hiện đại giúp chẩn đoán sớm các bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn
Sáng 11/10, tại Hà Nội, BV Bệnh nhiệt đới TƯ đã tổ chức lễ khánh thành Khoa xét nghiệm của BV với sự tham dự của Công tước xứ York, Hoàng tử Andrew của Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland, Đại sứ Vương quốc Anh tại Việt Nam Mark Kent và Thứ trưởng Bộ Y tế Việt Nam Nguyễn Bá Thủy.
Đây là thành quả mới nhất trong quan hệ hợp tác giữa BV Bệnh nhiệt đới TƯ với tổ chức Wellcome Trust và Đơn vị nghiên cứu lâm sàng của Đại học Oxford (Anh). Khoa xét nghiệm của BV được đầu tư trang thiết bị hiện đại với 6 dàn máy RT-PCR giúp chẩn đoán sớm các bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn, virut và các đơn nguyên về phân lập, định danh vi khuẩn, sinh hóa miễn dịch, xét nghiệm HIV... đáp ứng nhu cầu xét nghiệm và nghiên cứu phục vụ công tác chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh truyền nhiễm tại Việt Nam. Được biết từ năm 2006, Trường ĐH Oxford đã đầu tư hơn 2 triệu USD cho việc cải tạo cơ sở hạ tầng, đầu tư một số trang thiết bị cho mảng lâm sàng và xét nghiệm tại BV Bệnh nhiệt đới TƯ.
Bệnh viện Thanh Nhàn, Hà Nội: 42% trẻ sơ sinh nhẹ cân mắc viêm ruột hoại tử
Số liệu thống kê này vừa được báo cáo tại Hội nghị khoa học Bệnh viện Thanh Nhàn tổ chức ngày 6/10/2010 dựa trên nghiên cứu về các trường hợp được điều trị tại đơn nguyên sơ sinh của bệnh viện. Sau trẻ sơ sinh nhẹ cân, số trẻ sơ sinh có tiền sử mổ đẻ, trẻ sinh dưới 36 tuần thai, nước ối bẩn, do suy thai hay dị tật bẩm sinh... cũng chiếm tỷ lệ tương đối cao. Ngoài ra, các yếu tố liên quan khác như mẹ mất sữa, trẻ phải ăn sữa ngoài, mẹ sử dụng oxytocin, mẹ bị nhiễm khuẩn cũng nâng tổng số trẻ bị viêm ruột hoại tử cần điều trị...
Dấu hiệu trẻ bị viêm ruột hoại tử được nhận biết khá dễ dàng khi trẻ bú kém, bỏ bú, bụng chướng, dịch dạ dày nâu nên tỷ lệ trẻ nhập viện sau 24 giờ đầu sau sinh khá cao, chiếm 74% kéo theo đó là số trẻ khỏi bệnh ra viện chiếm 56%...
Tìm ra cơ chế lây nhiễm HIV
Các nhà khoa học Australia vừa công bố "bức tranh" hoàn chỉnh nhất về cơ chế lây nhiễm trong cơ thể người của HIV/AIDS, mở ra những hướng nghiên cứu mới phương thuốc tiêu diệt virut chết người này. Nghiên cứu của các nhà khoa học thuộc Trung tâm virut học của Viện nghiên cứu y học Burnet đã giải thích cách thức HIV/AIDS giấu các bản sao của chúng trong các tế bào mà những phương thuốc điều trị thông thường không thể tiêu diệt được. Theo giới chuyên gia, khi xâm nhập các tế bào, HIV/AIDS có thể duy trì trạng thái "ngủ đông" một thời gian. Khi đó, các thuốc kháng loại virut này không thể sàng lọc và tiêu diệt những tế bào đã bị nhiễm mầm bệnh. Khi người bệnh ngừng sử dụng thuốc, những virut trốn trong các tế bào sẽ "tỉnh ngủ" và bắt đầu phát tác. Các nhà khoa học cho rằng việc hiểu được cơ chế nói trên của HIV/AIDS sẽ giúp họ nghiên cứu những loại thuốc mới tiêu diệt chúng từ giai đoạn còn trứng nước.
* Một số ảnh trong bài mang tính minh họa