Có thể nói chưa bao giờ ngành y tế phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức trong kiểm soát dịch bệnh như hiện nay, muốn thực hiện được điều này một trong những mục tiêu quan trọng là phải đưa ra đượccác giải pháp nâng cao năng lực toàn diện cho hệ thống y tế dự phòng nhằm đáp ứng các yêu cầu cấp bách và lâu dài về cơ sở vật chất, nhân lực và trang thiết bị.
Để xây dựng và đưa ra các giải pháp phù hợp, Bộ Y tế đã tổ chức hai Hội nghị chuyên đề về công tác y tế dự phòng cho khu vực phía Bắc (Thừa Thiên-Huế trở ra) tại Hà Nội vào 24/11/2009 và khu vực phía Nam (từ Đà Nẵng trở vào) tại thành phố Hồ Chí Minh vào 15/12/2009 với sự có mặt của đại diện các bộ, ngành hữu quan; các vụ/cục chức năng thuộc Bộ Y tế, các Viện nghiên cứu thuộc hệ y tế dự phòng, các Trường đại học y-dược trong toàn quốc, Sở Y tế, Trung tâm Y tế dự phòng, Trung tâm Phòng chống sốt rét, Trung tâm phòng chống HIV/AIDS và Chi cục Vệ sinh an toàn thực phẩm 63 tỉnh, thành phố. Tại các Hội nghị này, Bộ Y tế đã có những báo cáo đánh giá về công tác phòng chống dịch bệnh, thực trạng và giải pháp thực hiện hoạt động phòng chống HIV/AIDS, các giải pháp triển khai hoạt động đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm; vấn đề nguồn lực tài chính cho y tế dự phòng, tình hình nhân lực và chế độ chính sách đối với cán bộ viên chức y tế dự phòng và giải pháp đào tạo nguồn nhân lực cho hệ y tế dự phòng. Lãnh đạo Bộ Y tế cũng đã lắng nghe các ý kiến phản ảnh từ Sở Y tế các tỉnh/thành phố, các Viện nghiên cứu, các Trường đại học Y-dược trước khi tổng hợp và đưa ra các giải pháp chiến lược với yêu cầu của công tác y tế dự phòng trong giai đoạn hiện nay.
 |  |
TS. Nguyễn Quốc Triệu Bộ trưởng Bộ Y tế; GS.TS Trịnh Quân Huấn Thứ trưởng Bộ Y tế chủ trì Hội nghị | PGS.TS Nguyễn Huy Nga, Cục trưởng Cục Y tế dự phòng và Môi trường trình bày tại hội nghị |
Theo báo cáo của Bộ Y tế trong vòng 40 năm qua, bên cạnh việc loại trừ được một số bệnh truyền nhiễm thì một số bệnh đã quay trở lại, đặc biệt là số lượng các ca mắc sốt xuất huyết đã tăng ít nhất 20 lần cùng với 30 bệnh truyền nhiễm mới xuất hiện như HIV/AIDS, Ebola, viêm gan vi rút, bò điên, SARS, tiêu chảy cấp nguyên nhân do phẩy khuẩn tả, cúm A (H5N1), cúm A (H1N1)…; số vụ ngộ độc thực phẩm không ngừng gia tăng với hàng ngàn người mắc và hàng chục người tử vong xảy ra ở hầu hết các tỉnh/thành phố trong cả nước là hiệu ứng của công tác bảo đảm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm ngoài tầm kiểm soát của ngành y tế; diễn biến tình hình dịch bệnh cũng như ô nhiễm thực phẩm ngày càng phức tạp cả về số lượng và quy mô đe dọa đến tính mạng cũng như sức khỏe và sức sản xuất của cộng đồng. Dự báo trong năm 2010 dịch cúm A (H1N1) tiếp tục lây lan trong cộng đồng, có thể tăng mạnh trong mùa đông xuân tới; dịch sốt xuất huyết có thể được khống chế nếu các địa phương có kế hoạch chủ động phòng chống dịch phù hợp và thực hiện quyết liệt, triệt để các biện pháp phòng chống dịch theo sự chỉ đạo của trung ương; dịch cúm A (H5N1) tiếp tục là nguy cơ tiềm ẩn nhất là trong mùa lạnh, điều kiện vi rút phát triển; dịch tiêu chảy cấp có thể xuất hiện trở lại vào dịp cuối năm do hiện tượng giao lưu, tụ tập ăn uống đông người cùng với sự gia tăng của các vụ ngộ độc thực phẩm; tình hình bệnh tả ở các nước trong khu vực vẫn có nguy cơ xảy ra, một số bệnh truyền nhiễm nguy hiểm mới nổi (Ebola, sốt thung lũng Rilf) đang xảy ra tại một số quốc gia trên thế giới có nguy cơ xâm nhập vào nước ta.
 |
Toàn cảnh Hội nghị Chuyên đề về công tác y tế dự phòng
|
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong phòng chống dịch bệnh và kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm, tuy nhiên hiện nay ngành y tế đang phải đối mặt với nhiều khó khăn tồn tại; qua các báo cáo của Bộ Y tế cũng như ý kiến phản ảnh từ các Sở Y tế địa phương thì tỷ lệ kinh phí dành cho y tế dự phòng trong tổng kinh phí dành cho y tế còn thấp, nguồn kinh phí của các địa phương dành cho công tác phòng chống dịch eo hẹp, không đáp ứng đủ nhu cầu, cơ chế cấp kinh phí cho hoạt động phòng chống dịch chậm và không đáp ứng được với tính chất khẩn cấp của công tác phòng chống dịch. Tình trạng thiếu hụt cán bộ xảy ra phổ biến tại tất cả các tuyến, tỷ lệ cán bộ được đào tạo chuyên ngành y tế dự phòng thấp, đặc biệt là tại tuyến huyện có tới 70% cán bộ chưa được đào tạo chuyên ngành; chế độ đãi ngộ cho cán bộ làm công tác y tế dự phòng còn thấp so với thu nhập chung của toàn xã hội dẫn đến hiện tượng chuyển, bỏ khỏi ngành xảy ra phổ biến ở nhiều đơn vị, nhiều địa phương và việc tuyển dụng mới cán bộ cho hệ thống y tế dự phòng gặp rất nhiều khó khăn nhất là tại tuyến huyện. Nhận thức của người dân về bệnh truyền nhiễm và các biện pháp phòng chống bệnh truyền nhiễm còn hạn chế, một bộ phận người dân vẫn còn sử dụng thực phẩm không hợp vệ sinh và ý thức vệ sinh chung còn thấp; sự hợp tác của người dân trong các hoạt động phòng chống sốt xuất huyết, đặc biệt là công tác phun hóa chất diệt muỗi, diệt loăng quăng/bọ gậy chưa cao. Các dự án cung cấp trang thiết bị ở nhiều địa phương chưa triển khai hoạt động được vì điều kiện cơ sở vật chất chưa đảm bảo, một số trang thiết bị phục vụ công tác phòng chống dịch bị hỏng hoặc chưa được bổ sung thay thế kịp thời; việc mua sắm thuốc, vật tư, hóa chất đòi hỏi nhiều thời gian đôi lúc không đáp ứng yêu cầu khẩn cấp của việc xử lý ổ dịch; đầu tư kinh phí đáp ứng phòng chống dịch chưa kịp thời, nhiều địa phương chưa đầu tư kinh phí đúng mức cho công tác phòng chống dịch. Việc giao lưu đi lại giữa các quốc gia, khu vực dễ dàng và phổ biến như hiện nay làm tăng nguy cơ lây lan dịch bệnh; đại dịch cúm A (H1N1) là dịch bệnh mới nổi xâm nhập vào Việt Nam lây lan nhanh và kéo dàitrong cộng đồng làm tiêu tốn nhiều nguồn lực; thời tiết thay đổi thất thường, mưa lũ xảy ra liên tục ở nhiều địa phương trong cả nước gây hiện tượng úng ngập trên diện rộng tạo điều kiện thuận lợi cho các mầm bệnh truyền nhiễm phát triển.
 |
PGS.TS Nguyễn Thanh Long, Cục trưởng Cục Phòng, chống HIV/AIDS trình bày tại hội nghị |
Đứng trước nguy cơ dịch bệnh và những khó khăn hiện hữu của hệ y tế dự phòng, tại Hội thảo Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Quốc Triệu đã chỉ đạo các đại biểu tham dự nêu thẳng thắn các vấn đề bức xúc của y tế dự phòng và đưa ra các giải pháp khắc phục phù hợp, tránh tình trạng “trên nóng dưới thờ ơ” , từ các ý kiến tồng hợp tại Hội thảo, Bộ Y tế sẽ tổng hợp báo cáo Chính phủ nhằm phát huy thế và lực của y tế dự phòng trong sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân. Hầu hết các địa phương, các đơn vị đều nêu những khó khăn trong y tế dự phòng hiện nay là vấn đề nhân lực gần như “lão hóa” do không được bổ sung nguồn nhân lực, đặc biệt là không có bác sĩ chuyên khoa y tế dự phòng, hầu hết các bác sĩ đang công tác tại hệ y tế dự phòng đều là bác sĩ đa khoa nên sẵn sàng “rũ áo ra đi” theo tiếng gọi của cơ chế thị trường; chế độ cho cán bộ làm công tác y tế dự phòng quá ít ỏi cộng với đồng lương quá thấp là một trong những nguyên nhân cơ bản không thu hút được nguồn nhân lực về hệ y tế dự phòng; mô hình tổ chức không ổn định về nguồn thu cũng như không có cán bộ kinh nghiệm; mô hình tổ chức y tế dự phòng chưa kịp chuyển đổi theo mô hình bệnh tật, mức đầu tư cho y tế dự phòng không phù hợp, cơ sở vật chất của hệ y tế dự phòng quá nghèo nàn, đặc biệt là tuyến huyện nên chưa thể đáp ứng nhu cầu kiểm soát dịch bệnh tại địa phương.
Hội thảo đã đề xuất các giải pháp chính của y tế dự phòng trong những năm tới, trước mắt là năm 2010:
Giải pháp về công tác phòng chống dịch
Tham mưu kịp thời cho Chính phủ ban hành các chính sách và biện pháp chống dịch phù hợp nhằm cụ thể hóa các nội dung của Luật phòng chống bệnh truyền nhiễm; xây dựng, ban hành và triển khai thực hiện các văn bản pháp quy về phòng chống bệnh truyền nhiễm; củng cố hệ y tế dự phòng từ trung ương đến địa phương, tăng cường đào tạo bác sĩ, bác sĩ định hướng, bác sĩ chuyên khoa I, chuyên khoa II chuyên ngành y tế dự phòng nhằm bổ sung tăng cường nguồn nhân lực; tổ chức các lớp đào tạo dịch tễ học thực địa ngắn hạn (3 tháng) và dài hạn (2 năm) cho cán bộ y tế dự phòng tuyến trung ương và tuyến tỉnh. Xây dựng chính sách cho cán bộ chống dịch, đi đôi với động viên khen thưởng kịp thời; chỉnh sửa và ban hành hướng dẫn giám sát các bệnh truyền nhiễm thường gặp và các bệnh truyền nhiễm mới nổi; áp dụng công nghệ thông tin, thiết lập hệ thống báo cáo trực tuyến, ngân hàng thông tin về các phản ứng sau tiêm chủng, từng bước thiết lập hệ thống cảnh giác vac xin; dự trữ sẵn sàng trang thiết bị, thuốc, vật tư, hóa chất chống dịch, hỗ trợ địa phương dập dịch kịp thời. Tổ chức các đoàn công tác đi giám sát, chỉ đạo địa phương thực hiện kế hoạch giám sát và phòng chống dịch; phối hợp chặt chẽ với các bộ ngành liên quan, tăng cường hợp tác quốc tế trong nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm, hỗ trợ song phương trong hoạt động phòng chống bệnh truyền nhiễm, tranh thủ sự hỗ trợ kinh phí từ các nước, các tổ chức phi chính phủ.
Kiến nghị chính quyền các cấp chỉ đạo triển khai quyết liệt công tác chống dịch cúm A (H1N1) theo tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và Ban chỉ đạo quốc gia phòng chống đại dịch cúm ở người, bố trí ngân sách cho công tác phòng chống dịch trong ngân sách y tế dự phòng theo Nghị quyết số 18/2008/QH2 ngày 3/6/2008 về đẩy mạnh thực hiện chính sách, pháp luật xã hội hóa để nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân, đặc biệt trong trường hợp đại dịch cúm A (H1N1) kéo dài; kiến nghị Nhà nước cần có chính sách đãi ngộ hợp lý cho cán bộ làm công tác phòng chống dịch về lương, phụ cấp lương, phụ cấp đặc biệt cho công tác phòng chống dịch; tăng hệ số lương cho cán bộ chuyên môn về y tế dự phòng để tạo sức thu hút nghề nghiệp.
Giải pháp về hoạt động phòng chống HIV/AIDS
Nhóm giải pháp về tăng cường hệ thống tổ chức phòng chống HIV/AIDS tại các tuyến: củng cố và hoàn thiện đội ngũ cán bộ, chính sách thu hút cán bộ tham gia công tác phòng chống HIV/AIDS, đào tạo nguồn nhân lực và tăng cường đầu tư cho các hoạt động phòng chống HIV/AIDS.
Nhóm giải pháp về chuyên môn kỹ thuật: chì đạo và xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật và hướng dẫn chuyên môn; thông tin, giáo dục và truyền thông thay đổi hành vi phòng lây nhiễm HIV; huy động cộng đồng và phối hợp liên ngành, can thiệp giảm tác hại và dự phòng lây nhiễm HIV; tư vấn, xét nghiệm tự nguyện; giám sát, theo dõi và đánh giá chương trình; điều trị và chăm sóc bệnh nhân AIDS; dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con.
Giải pháp về công tác vệ sinh an toàn thực phẩm
Hoàn thiện mạng lưới an toàn vệ sinh thực phẩm, hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về chất lượng, ổn định địa điểm làm việc, nhân lực và tiếp tục triển khai các hoạt động; đối với cấp huyện cần có Tổ an toàn vệ sinh thực phẩm trong Trung tâm y tế dự phòng; xây dự đề án tăng cường năng lực hệ thống an toàn vệ sinh thực phẩm tuyến tỉnh, thành phố; nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các Chi cục an toàn vệ sinh thực phẩm, cùng với tăng cường đào tạo cán bộ mới.
 |
Nhu cầu của người dân về thực phẩm sạch đang trở nên bức thiết (Ảnh: CH). |
Xây dựng kế hoạch bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm 2010 ở các địa phương, kế hoạch giai đoạn 2010-2015 và tổ chức triển khai theo kế hoạch; tăng cường vai trò quản lý nhà nước của UBND các cấp, coi công tác an toàn vệ sinh thực phẩm là nhiệm vụ chính trị, đưa mục tiêu bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm vào mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của địa phương; phối hợp chặt chẽ giữa Chi cục an toàn vệ sinh thực phẩm và Trung tâm y tế dự phòng, các Trung tâm chuyên môn trong ngành y tế; đầu tư trang thiết bị cho hệ thống kiểm nghiệm vệ sinh an toàn thực phẩm có đủ điều kiện về nhân lực, trang thiết bị, hóa chất để có thể kiểm tra thường xuyên đặc biệt là thực hiện công tác hậu kiểm một cách có kết quả. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật về chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm, nâng cao năng lực thanh tra chuyên ngành, đặc biệt là tăng cường công tác thanh kiểm tra các cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm quy mô vừa và nhỏ ở tuyến xã, phường, khu công nghiệp chế xuất.
Kiện toàn Ban chỉ đạo liên ngành, ban hành quy chế hoạt động của Ban chỉ đạo và Tổ công tác liên ngành tại các tỉnh/thành phố; đề xuất bổ sung lực lượng, kiện toàn tổ chức, cơ sở bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn. Thiết lập và duy trì chế độ thống kê báo cáo công tác quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm trong hệ thống tuyến quản lý theo quy định; tăng cường triển khai các hoạt động giám sát nguy cơ ô nhiễm thực phẩm, giám sát vụ ngộ độc thực phẩm và giải quyết nhanh chóng vấn đề ngộ độc thực phẩm tại địa phương.