Tại Hội nghị đánh giá kết quả thực hiện công tác y tế năm 2009 và kế hoạch hoạt động năm 2010, Bộ Y tế đã nêu bật những thành quả y tế đạt được đồng thời cũng nhấn mạnh vào những vấn đề khó khăn tồn tại trong lĩnh vực kiểm soát dịch bệnh và vệ sinh an toàn thực phẩm.
Các điểm nhấn về công tác y tế năm 2009
Theo báo các của Bộ Y tế năm 2009 là năm kinh tế-xã hội có nhiều biến động, trong đó khủng hoảng kinh tế toàn cầu ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của ngành y tế; tình hình dịch bệnh trên thế giới cũng diễn ra hết sức phức tạp, đặc biệt là sự xuất hiện của đại dịch cúm A (H1N1) ở người với mức độ lây lan nhanh và tử vong cao. Việt Nam là một trong số các nước bị ảnh hưởng lớn của đại dịch cúm, đồng thời dịch sốt xuất huyết cũng bùng phát ở nhiều nơi; ngoài ra thiên tai, bão lụt liên tiếp xảy ra gây thiệt hại to lớn về tài sản, tính mạng cũng như đời sống và sức khỏe của nhân dân.
Điểm nổi bật trong công tác kiểm soát dịch bệnh của ngành y tế năm 2009 phải kể đến việc không chế đại dịch cúm A (H1N1) với 11.104 ca dương tính và 53 ca tử vong được ghi nhận từ tháng 5-12/2009, Việt Nam là một trong số ít nước có tỷ lệ tử vong thấp nhất. Bệnh sốt xuất huyết có 99.266 ca mắc tăng 2,9% và 83 ca tử vong giảm 16,2% so với cùng kỳ năm 2008; dịch sốt xuất huyết chủ yếu xảy ra tại các tỉnh thuộc khu vực miền Nam và miền Trung, tuy nhiên trong năm 2009 dịch sốt xuất huyết lại bùng phát tại một số tỉnh miền Bắc, trong đó Hà Nội ghi nhận có 16.034 ca mắc và 4 ca tử vong. Dịch tiêu chảy cấp nguy hiểm có 239 trường hợp dương tính với phẩy khuẩn tả, tỷ lệ mắc 0,15/100.000 dân giảm 95,1% so với cùng kỳ năm 2008. Bệnh sốt rét đã được khống chế với số ca mắc trong 10 tháng đầu năm 2009 là 48.786 và tử vong sốt rét là 19 ca, trong đó 80% số mắc sốt rét và 100% số ca tử vong sốt rét đều tập trung ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên và Nam Bộ-Lâm Đồng. Viêm não vi rút ghi nhận 898 ca mắc và 17 ca tử vong, viêm màng não do não mô cầu ghi nhận 343 ca mắc và 2 ca tử vong.
Nhìn chung các chỉ tiêu hoạt động chuyên môn y tế dự phòng năm 2009 đều đạt và vượt so với kế hoạch, công tác phòng chống dịch bệnh được triển khai kịp thời và có hiệu quả, khống chế kịp thời các vụ dịch như tiêu chảy cấp nguy hiểm nguyên nhân do phẩy khuẩn tả, sốt xuất huyết, sốt rét, cúm A (H5N1) ở người, giảm thiểu tác hại của đại dịch cúm A (H1N1); công tác phòng chống dịch bệnh trong và sau lũ lụt rất thành công, đặc biệt đã kịp thời xử lý môi trường, phun hóa chất diệt côn trùng, xử lý nguồn nước không để dịch bệnh xảy ra sau lũ lụt ở các tỉnh miền núi phía Bắc và miền Trung. Công tác truyền thông giáo dục sức khỏe, nâng cao kiến thức cho người dân về dinh dưỡng, bảo vệ môi trường, các hành vi hợp vệ sinh đã được thực hiện thường xuyên; Bộ Y tế đã chỉ đạo các địa phương tăng cường kiểm tra, giám sát chất lượng nước ăn uống, sinh hoạt, tình hình vệ sinh môi trường; tổ chức các buổi lễ phát động, chiến dịch tuyên truyền về nước sạch; xây dựng các tài liệu phục vụ việc tuyên truyền cộng đồng thực hiện các tiêu chí của làng văn hóa sức khỏe. Các hoạt động giám sát môi trường lao động, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho người lao động, phòng chống bệnh nghề nghiệp đã được triển khai có hiệu quả; chỉ đạo triển khai đồng bộ hoạt động phòng chống bệnh nghề nghiệp trong cả nước từ trung ương đến địa phương, chú trọng 30 tỉnh trọng điểm. Công tác phòng chống tai nạn thương tích, xây dựng cộng đồng an toàn đã được triển khai tại trung ương cũng như 63 tỉnh/thành phố.
|  |
Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Quốc Triệu phát biểu khai mạc Hội nghị | Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Quốc Triệu trả lời phỏng vấn trước phóng viên |
|  |
Thứ trưởng Bộ Y tế Trần Chí Liêm báo cáo kết quả thực hiện công tác y tế năm 2009, phương hướng nhiệm vụ và kế hoạch năm 2010. | PGS.TS Nguyễn Huy Nga-Cục trưởng Cục Y tế dự phòng và môi trường (Bộ Y tế) phát biểu tại Hội nghị |
Các hoạt động phòng chống HIV/AIDS có hiệu quả, dịch HIV có xu hướng chững lại và không tăng nhanh như như trước đây; theo số liệu cập nhật trên cả nước đã ghi nhận có 156.802 người đang sống với HIV/AIDS, trong đó có 34.391 bệnh nhân AIDS và từ đầu vụ dịch đến nay đã có 44.232 người tử vong do HIV/AIDS; kết quả giám sát phát hiện qua các năm cho thấy nhiễm HIV tập trung chủ yếu ở nhóm tuổi trẻ từ 20-39 tuổi, cho đến nay số người nhiễm HIV đã phát hiện ở trên 70% số xã/phường, 97% quận/huyện ở cả 63 tỉnh/thành phố trên cả nước. Chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống một số bệnh xã hội và bệnh dịch nguy hiểm như đã phát hiện và điều trịcho 99.000 bệnh nhân lao mọi thể, giảm tỷ lệ phát hiện lao mới (AFB+) xuống còn 64/100.000 dân, tỷ lệ điều trị khỏi AFB (+) mới > 85% vượt chỉ tiêu kế hoạch được giao. Công tác phòng chống phong đãkhám phát hiện cho 12.000.000 người, số bệnh nhân được phát hiện mới 550 người, trên 1.000 bệnh nhân được điều trị bằng đa hóa trị liệu, khoảng 1.000 bệnh nhân được phẫu thuật phục hồi chức năng, 12.000 bệnh nhân được chăm sóc tàn tật. Công tác tiêm chủng mở rộng, bảo vệ sức khỏe tâm thần cộng đồng, phòng chống ung thư cũng đạt được những kết quả khả quan.
 |
Các đại biểu tham dự Hội nghị |
Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm là một vấn đề đang được dư luận xã hội quan tâm liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành đã được ngành y tế triển khai thực hiện có hiệu quả.Theo báo cáo cập nhật trong năm 2009 cả nước xảy ra 152 vụ ngộ độc thực phẩm với 5.212 người mắc và 33 người tử vong, trong đó nguyên nhân ngộ độc thực phẩm do vi sinh chiếm 9.7%, do độc tố tự nhiên chiếm 19.3%, do hóa chất chiếm 0.6%, còn 70.3% số vụ ngộ độc không xác định được nguyên nhân; so với cùng kỳ năm 2008 tình hình ngộ độc thực phẩm có chiều hướng giảm mạnh: số vụ ngộ độc giảm 53 vụ (25.9%), số người mắc giảm 2.616 người (33.4%), số người đi viện giảm 1.888 người (31.3%) và số người tử vong giảm 26 trường hợp (42.6%). Kết quả này là nhờ công tác tuyên truyền phổ biến kiến thức và pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm đã bước đầu tạo sự chuyển biến về nhận thức của nhà quản lý, người sản xuất kinh doanh cũng như người tiêu dùng; công tác quản lý và bảo đảm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm có tiến bộ rõ rệt, điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm bước đầu được cải thiện, chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm được kiểm soát tốt hơn; đặc biệt là trong năm 2009 các Chi cục an toàn vệ sinh thực phẩm được thành lập ở các địa phương, việc kết hợp giữa Chi cục mới và Trung tâm Y tế dự phòng vẫn được duy trì tốt, có sự điều hành hiệu quả của các Sở Y tế đối với công tác thanh tra y tế nói chung và thanh tra chuyên ngành an toàn vệ sinh thực phẩm nói riêng.
Trong năm 2009 nhiều chính sách lớn của Đảng, Nhà nước liên quan trực tiếp đến hệ thống y tế được ban hành và đi vào cuộc sống, trong đó Luật Bảo hiểm y tế mới chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7/2009 và Luật Khám chữa bệnh có hiệu lực từ ngày 1/1/2010. Bộ Chính trị cũng có có những kết luận quan trọng liên quan đến định hướng tổ chức, hoạt động ngành y tế-dân số trong giai đoạn tới; đặc biệt là các kết luận thông qua đề án đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính bao gồm tiền lương và giá dịch vụ y tế đối với các cơ sở y tế công lập; kết luận về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới; kết luận về công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình. Trong đó Bộ Chính trị khẳng định hệ thống y tế công lập phải giữ vai trò chủ đạo, nhất là giữ vững định hướng công bằng, hiệu quả, phát triển và bảo đảm an sinh xã hội, đồng ý đổi mới về chủ trương đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính trong ngành y tế. Bộ Chính trị đánh giá cao kết quả của ngành y tế trong 2,5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 46-NQ/TW về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới; khẳng định kết quả đạt được trong công tác dân số-kế hoạch hóa gia đình nhằm bảo đảm dân số ổn định, nâng cao chất lượng dân số và bảo đảm cơ cấu dân số hợp lý. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 18/NQ-QH12 của Quốc hội về việc đẩy mạnh thực hiện chính sách, pháp luật xã hội hóa để nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân, đặc biệt là đề án đầu tư nâng cấp bệnh viện huyện, bệnh viện đa khoa liên huyện và đầu tư xây dựng, cải tạo nâng cấp các bệnh viện chuyên khoa lao, tâm thần, ung bướu, chuyên khoa nhi, bệnh viện đa khoa tỉnh thuộc vùng miền núi, khó khăn bằng nguồn trái phiếu Chính phủ.
Năm 2009 cũng là năm ngành y tế tiếp tục tập trung giải quyết các vấn đề nổi lên của y tế cơ sở, sự quá tải và chất lượng của hệ thống khám chữa bệnh, của công tác bảo hiểm y tế; khống chế và giải quyết các dịch bệnh và các vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, giải quyết và khắc phục hậu quả của thiên tai lũ lụt. Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao và kịp thời của Đảng, Chính phủ, sự phối hợp chặt chẽ có hiệu quả của các Bộ, Ngành, địa phương, sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, sự tham gia tích cực của nhân dân cùng với nỗ lực, quyết tâm cao của toàn ngành y tế trong công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, đóng góp quan trọng vào việc đảm bảo an sinh xã hội và thực hiện được các nhiệm vụ về phát triển kinh tế-xã hội của đất nước; đặc biệt là lần đầu tiên ngành y tế đã hoàn thành vượt kế hoạch 4/4 chỉ tiêu được Quốc hội giao và 15/15 chỉ tiêu được Chính phủ giao.  |
Việc cử cán bộ chuyên môn từ bệnh viện tuyến trên về hỗ trợ cho bệnh viện tuyến dưới theo đề án 1816 đã nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân. |
Một số khó khăn và thách thức về công tác y tế
Bên cạnh các thành quả đạt được ngành y tế cũng đang phải đối mặt với không ít các khó khăn thách thức đặc biệt là các vấn đề dịch bệnh, bệnh không lây nhiễm, điều kiện vệ sinh môi trường còn nhiều phức tạp; dự báo dịch bệnh cúm A (H1N1) tiếp tục lây lan nhanh trong cộng đồng, có thể tăng nhanh trong mùa đông xuân, số tử vong sẽ tiếp tục gia tăng trong năm 2010; dịch sốt xuất huyết vẫn diễn biến phức tạp. Nguyên nhân do biến đổi khí hậu cùng thời tiết mưa nắng bất thường gây lũ lụt trên diện rộng ảnh hưởng đến môi trường tạo điều kiện phát sinh nhiều bệnh dịch mới. Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm vẫn còn là vấn đề bức xúc trong nhân dân song công tác quản lý và đầu tư giải quyết chưa xứng tầm.
Thu nhập của cán bộ y tế dự phòng thấp, chế độ chính sách của nhà nước không đủ hấp dẫn thu hấp cán bộ giỏi về làm việc cho hệ thống y tế dự phòng; tổ chức y tế dự phòng tuyến tỉnh bị phân tán thành nhiều đơn vị, trong khi hệ y tế dự phòng còn rất thiếu về nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, trang thiết bị chưa đáp ứng được yêu cầu triển khai các hoạt động y tế dự phòng; chất lượng dịch vụ y tế chưa cao, điều kiện chăm sóc sức khỏe cho người nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số còn nhiều bất cập. Cơ chế tuyển dụng, chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ đối với cán bộ y tế ở khu vực miền núi, nông thôn, khu vực y tế công chưa phù hợp, chưa tương xứng với thời gian học tập, công sức lao động và môi trường, điều kiện làm việc nên dẫn đến tình trạng chuyển dịch cán bộ y tế từ miền núi, vùng khó khăn về đồng bằng, đô thị hoặc từ khu vực công lập ra khu vực ngoài công lập; nhiều bác sĩ, dược sĩ ra trường không công tác tại tại các cơ sở y tế mà chuyển sang làm công việc khác tại các thành phố lớn gây lãng phí nguồn nhân lực xã hội.  |
| Toàn cảnh Hội nghị |
Mức tăng ngân sách nhà nước đầu tư cho chăm sóc sức khỏe còn thấp chưa đáp ứng được các yêu cầu chi tiêu cơ bản của ngành do sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, cơ cấu bệnh tật thay đổi, nhu cầu khám chữa bệnh với chất lượng ngày càng cao làm chi phí y tế gia tăng với mức rất nhanh; việc phân bố ngân sách cho các đơn vị vẫn chủ yếu dựa trên các yếu tố đầu vào, chưa tính đến kết quả đầu ra và chất lượng dịch vụ đã cung cấp cho xã hội; định mức phân bố chi phí khám chữa bệnh cho người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi còn thấp làm ảnh hưởng đến khả năng cân đối quỹ bảo hiểm y tế. Chính sách viện phí còn chậm đổi mới, mới thu chi một phần các chi phí trực tiếp để thực hiện các dịch vụ, kỹ thuật y tế, chưa có sự khác biệt về cơ bản giữa các tuyến dẫn đến tình trạng bao cấp tràn lan kể cả những người giàu có khả năng chi trả, không khuyến khích người bệnh điều trị ở tuyến y tế cơ sở, hạn chế bảo hiểm y tế phát triển. Mức thu thấp, chưa công khai minh bạch khoản nào thu, khoản nào do nhà nước bảo đảm nên mang tính bình quân và chưa tính đến cân đối thu, chi của đơn vị dẫn đến hạn chế quyền tự chủ và tính năng động, sáng tạo của các nhà quản lý, kìm hãm năng suất, chất lượng phục vụ của các cơ cơ sở y tế.
Năng lực chuyên môn và quản lý y tế còn nhiều bất cập, thể hiện ở một số mảng việc ngành y tế còn khuyết điểm hoặc còn thiếu sót trong phản hồi thông tin, giải thích với nhân dân; cơ chế hoạt động đã bước đầu được đổi mới nhưng chưa thực sự phát huy tác dụng trong tư duy và hoạt động của nhiều đơn vị sự nghiệp y tế công lập vẫn còn mang tính bao cấp, chưa thích ứng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trọng tâm công tác y tế năm 2010
Phát huy những kết quả đạt được và khắc phục những khó khăn tồn tại trong năm 2009, công tác y tế năm 2010 tập trung vào 5 nhóm giải pháp về tổ chức, quản lý hệ thống y tế; giải pháp về cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính; giải pháp về xây dựng chính sách, pháp luật, nâng cao hiệu quả quản lý điều hành; giải pháp về kỹ thuật nghiệp vụ; giải pháp về đẩy mạnh xã hội hóa công tác y tế và mở rộng hợp tác quốc tế.
Theo đó công tác y tế dự phòng và vệ sinh an toàn thực phẩm tập trung mọi lực lượng tiếp tục triển khai các giải pháp kiểm soát, phòng chống dịch bệnh; tăng cường hệ thống thông tin báo cáo, xây dựng hệ thống cảnh báo dịch sớm và đáp ứng nhanh; giám sát, phát hiện và xử lý sớm ổ dịch, hạn chế thấp nhất tỷ lệ tử vong không để dịch lớn xảy ra; hạn chế bùng phát dịch cúm A (h5N1) ở người, hạn chế tỷ lệ mắc sốt xuất huyết; phòng chống kịp thời dịch tiêu chảy cấp nguy hiểm nguyên nhân do phẩy khuẩn tả, bệnh tay-chân-miệng; tích cực chủ động phòng chống dịch cúm A (H1N1), hạn chế tốc độ lây lan dịch bệnh, phát hiện sớm và điều trị kịp thời các ca bệnh hiện. Tăng cường thanh tra, kiểm tra giám sát vệ sinh an toàn thực phẩm; khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường tại các cơ sở y tế, hạn chế các yếu tố nguy cơ liên quan đến bệnh nghề nghiệp, tai nạ thương tích, tăng cường công tác y tế trường học, hoạt động phòng chống HIV/AIDS. Tuyên truyền vận động nhân dân hiểu và chủ động thực hiện các biện pháp tự phòng chống dịch bệnh, triển khai xây dựng phong trào làng văn hóa sức khỏe, phong trào vệ sinh nông thôn với 3 công trình nước sạch, nhà tắm, nhà tiêu hợp vệ sinh tiến tới xóa bỏ những tác hại đối với sức khỏe nhân dân do tập quán lối sống không lành mạnh, không hợp vệ sinh hoặc do môi trường bị ô nhiễm nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu giảm tỷ lệ mắc và chết của các bệnh truyền nhiễm gây dịch, hạn chế ảnh hưởng của bệnh dịch tới sự phát triển kinh tế-xã hội.
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình hành động nâng cao chất lượng khám chữa bệnh phục vụ người bệnh có thẻ bảo hiểm y tế; tuyên truyền vận động và thực hiện tốt chính sách hỗ trợ người cận nghèo mua thẻ bảo hiểm y tế. Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, chống quá tải , giảm dần tình trạng nằm ghép như nâng cao chất lượng chẩn đoán, điều trị để rút ngắn thời gian điều trị; tăng giường bệnh thông qua việc xây dựng mới, nâng cấp cơ sở, mở rộng buồng bệnh; đẩy mạnh việc thực hiện thí điểm luân phiên cán bộ cho tuyến dưới, tăng cường chỉ đạo tuyến và hỗ trợ chuyên môn kỹ thuật y tế; phát triển các cơ sở y tế ngoài công lập và triển khai các hình thức xã hội hóa công tác y tế.
Tăng cường đầu tư nâng cấp nhằm củng cố và phát triển các cơ sở đào tạo nhân lực y tế công lập, đẩy mạnh đào tạo cử tuyển, đào tạo theo địa chỉ; mở rộng các hình thức đào tạo nhằm đảm bảo nhân lực, số lượng, cơ cấu lao động cho các cơ sở y tế trong thời gian tới; mở thêm nhiều mã ngành mới, tăng chỉ tiêu tuyển sinh 10-20% so với năm 2009. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào công tác khám chữa bệnh, công tác y tế dự phòng, sản xuất thuốc, vác xin, sinh phẩm, quản lý nhà nước, hoạch định chính sách y tế phù hợp…; đảm bảo đủ thuốc thiết yếu phục vụ công tác điều trị, triển khai các biện pháp hữu hiệu nhằm bình ổn giá thuốc; phối hợp chặt chẽ với các địa phương, các bộ, ngành liên quan kiểm tra giám sát để đảm bảo chất lượng thuốc và sử dụng thuốc an toàn hợp lý; quy hoạch phát triển sản xuất và lưu thông phân phối thuốc, phát triển dược liệu và thuốc đông y.
Về công tác quản lý nhà nước, kế hoạch tài chính và hợp tác quốc tế Bộ Y tế tập trung xây dựng và trình Chính phủ thực hiện đề án đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính trong đó có tiền lương và giá dịch vụ y tế đối với các đơn vị sự nghiệp y tế công lập; đẩy mạnh việc thực hiện tự chủ toàn diện theo Nghị định 43/2005/NĐ-CP của Chính phủ; tập trung đầu tư nâng cấp bệnh viện huyện, bệnh viện đa khoa khu vực theo nguồn trái phiếu; huy động mọi nguồn lực đầu tư phát triển Trung tâm Y tế dự phòng tuyến huyện. Tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế song phương, đa phương, các tổ chức chính phủ, phi chính phủ, các tổ chức nhân hàng và tài chính nhằm tăng cường thu hút nguồn lực đầu tư, tiếp cận công nghệ mới và tiên tiến của thế giới, góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập trong lĩnh vực y dược.
Năm 2010 là năm cuối thực hiện nhiệm vụ kế hoạc phát triển kinh tế-xã hội 5 năm giai đoạn 2006-2010, dưới sự chỉ đạo của Đảng, Chính phủ và sự phối kết hợp của các bộ, ngành liên quan và các địa phương; ngành y tế sẽ quyết tâm phấn đấu tực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển sự nghiệp y tế năm 2010 và kế hoạch 5 năm ngành y tế giai đoạn 2006-2010.