Theo Bs. Trần Thị Thúy, Phó Trưởng Khoa Nhiễm-Bệnh viện Nhi đồng 2, Thành phố Hồ Chí Minh. Trong 10 tháng đầu năm 2009, có 881 bệnh nhi mắc bệnh sởi vào điều trị tại bệnh viện và 914 trường hợp bệnh điều trị ngoại trú. Riêng trong tháng 10 có 177 bệnh, 18 ngày tháng 11 có 166 bệnh vào viện và 1 trường hợp tử vong. Năm 2008 chỉ có 10 bệnh nhân. Bệnh sởi đang gia tăng đột biến tại Thành phố Hồ Chí Minh, 70% trẻ mắc bệnh do không tiêm phòng vaccine. Vì vậy cần chú ý đến vấn đề này để phòng bệnh cho trẻ.
Đặc điểm của bệnh sởi
Sởi là một bệnh truyền nhiễm cấp tính có thể gây dịch do virus sởi thuộc họ Paramyxovirus influenzae, giống Morbillivirus gây nên và thường gặp ở đối tượng trẻ em. Bệnh lây truyền qua đường hô hấp và biểu hiện triệu chứng sốt cao đột ngột, viêm long đường hô hấp, khám miệng có thể thấy nốt Koplik, sau đó phát ban, xen kẽ giữa các ban là các khoảng da lành tuần tự bắt đầu từ sau tai lan ra đầu, mặt, cổ và sau đó lan xuống thân mình, tứ chi. Khi ban đã lan xuống đến chi thì bắt đầu bay theo tuần tự như khi ban xuất hiện và để lại vết thâm vằn da hổ. Trường hợp nặng có thể phát ban kèm theo xuất huyết, biến chứng bội nhiễm vào các cơ quan nội tạng hoặc xuất hiện viêm não chất trắng sau sởi. Chẩn đoán xác định bệnh khi phân lập được virus sởi trong máu hoặc xét nghiệm huyết thanh học 2 lần bằng phản ứng ức chế ngưng kết hồng cầu thấy động lực kháng thể tăng gấp 4 lần hoặc xét nghiệm thấy xuất hiện IgM đặc hiệu trong huyết thanh bằng phản ứng Mac-Elisa. Biện pháp phòng bệnh sởi tốt nhất là sử dụng vaccine tiêm phòng sởi.
Các loại vaccine phòng bệnh sởi đang sử dụng
Vaccine phòng bệnh sởi hiện nay đang sử dụng có nhiều loại khác nhau. Loại vaccine sởi với tên thương mại là Rimevax do hãng GlaxoSmithKline Biologicals S.A. Bỉ sản xuất với thời gian bảo vệ trong nhiều năm. Rimevax dùng để tạo miễn dịch chủ động đối với bệnh sởi cho trẻ em và người lớn nhạy cảm. Lứa tuổi tiêm phòng tốt nhất là trẻ em từ 15 tháng tuổi trở lên. Tuy nhiên, có thể xem xét tiêm vaccine cho trẻ nhỏ hơn, trong những trường hợp này có thể cần tiêm nhắc lại vào lúc trẻ được 15 tháng tuổi hoặc sau đó. Những đối tượng đã được tiêm một loại vaccine sởi bất hoạt nên được tái chủng với một loại vaccine sống nhằm tránh các dạng sởi tự nhiên không điển hình, trầm trọng có thể xảy ra. Liều tiêm chủng thường sử dụng là 0,5 ml, tiêm dưới da. Loại vaccine sởi sống với tên thương mại là Rouvax do hãng Pasteur Merieux Connaught, Pháp sản xuất; có thời gian bảo vệ khoảng 10 năm. Vaccine Rouvax dùng để tiêm phòng ngừa bệnh sởi cho trẻ em từ 12 tháng tuổi. Có thể tiêm cho trẻ từ 9 tháng tuổi. Liều đầu tiên cho trẻ từ 12 đến 15 tháng tuổi thường được phối hợp với với vaccine phòng bệnh rubella và quai bị. Tuy nhiên, đối với trẻ em trong nhóm nguy cơ hoặc sống trong vùng lưu hành bệnh sởi thì tiêm lúc trẻ được 9 tháng tuổi, 6 tháng sau tiêm nhắc lại bằng mũi vaccine phòng bệnh sởi phối hợp với vaccine phòng bệnh quai bị và rubella. Tuổi tiêm phòng mũi thứ hai phụ thuộc vào chính sách quy định của Chương trình Tiêm chủng Mở rộng Quốc gia. Thông thường sử dụng liều 0,5 ml, tiêm bắp hoặc tiên dưới da.
 |
Tiêm phòng bệnh sởi khi trẻ còn nhỏ |
Ngoài các loại vaccine phòng bệnh sởi đơn thuần, còn có các loại vaccine phối hợp phòng bệnh sởi, quai bị và rubella khác nhau. Loại vaccine sống giảm độc lực phòng bệnh sởi, quai bị và rubella với tên thương mại là MMR II do hãng Merck & Co., Inc., Hoa Kỳ sản xuất, có thời gian bảo vệ hơn 11 năm. Vaccine tiêm cho trẻ từ 15 tháng tuổi trở lên. Nên tiêm liều thứ hai bằng vaccine MMR II hoặc vaccine sởi đơn giá. Ở những vùng mà bệnh sởi xuất hiện với tỷ lệ cao ở trẻ dưới 15 tháng tuổi thì có thể tiêm sớm hơn. Trẻ được tiêm vaccine khi chưa được 12 tháng tuổi cần được tiêm nhắc lại sau khi được 15 tháng tuổi. Hầu hết trẻ từ 12 đến 14 tháng tuổi đã có đáp ứng miễn dịch nhưng có thể tiêm liều nhắc lại khi trẻ đến tuổi đi học hoặc muộn hơn. Những trẻ chưa được tiêm vaccine sinh ra từ người mẹ mang thai mẫn cảm cần được tiêm vaccine phòng bệnh rubella sống giảm độc. Những trẻ cảm thụ với một hoặc nhiều bệnh của vaccine, cần được tiêm một vaccine đơn giá (sởi, quai bị hoặc rubella) hay một vaccine phối hợp phù hợp. Tuy nhiên, MMR II thích hợp đối với những người cảm thụ với bệnh quai bị, rubella và bệnh sởi. Nếu không có vaccine đơn giá thì nên dùng vaccine MMR II. Vaccine được tiêm vào dưới da, thường tiêm vào mặt ngoài phía trên cánh tay. Không tiêm vào mạch máu. Liều vaccine sử dụng giống nhau cho tất cả mọi người, trẻ em cũng như người lớn với 0,5 ml vaccine đã hồi chỉnh. Không tiêm globulin miễn dịch (IG) đồng thời với tiêm MMR II. Loại vaccine phòng bệnh sởi, quai bị, rubella với tên thương mại là Trimovax do hãng Pasteur Merieux Connaught, Pháp sản xuất; có thời gian bảo vệ hơn 10 năm. Vaccine phối hợp này được tiêm cho trẻ từ 12 tháng tuổi trở lên. Đối với trẻ em ở những môi trường đặc biệt như tại các trung tâm chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em thì vaccine có thể tiêm từ lúc 9 tháng tuổi. Tiêm một liều 0,5 ml cho trẻ từ 12 đến 15 tháng tuổi. Tuy nhiên, với những trẻ tiêm mũi đầu tiên trước khi được 12 tháng tuổi thì nên tiêm một liều thứ hai sau mũi đầu 6 tháng, nhất là trẻ sống trong các môi trường đặc biệt.
Chú ý phòng bệnh sởi cho trẻ bằng tiêm vaccine
Trong thời gian qua, Chương trình Tiêm chủng Mở rộng Quốc gia đã chăm sóc, bảo vệ tốt sức khỏe cho trẻ em với các hoạt động tiêm chủng vaccine phòng 6 bệnh bạch hầu, ho gà, uốn ván, lao, sởi và bại liệt. Bệnh sởi ở trẻ em nhờ chương trình tiêm chủng mở rộng đã được chủ động khống chế và dần dần bị loại trừ. Tuy nhiên hiện nay bệnh sởi ở Thành phố Hồ Chí Minh đã gia tăng đột biến, xảy ra trên 70% đối tượng trẻ em không được tiêm chủng, lây lan nhanh và có khả năng bùng phát dịch. Vì vậy, các bậc cha mẹ cần chú ý việc tiêm chủng vaccine phòng bệnh sởi cho trẻ em theo quy định của Chương trình Tiêm chủng Mở rộng Quốc gia để trẻ được bảo vệ tốt, tránh những hậu quả đáng tiếc xảy ra. Virus gây bệnh sởi có tính chất lây lan mạnh nên khi phát hiện thấy trẻ có các triệu chứng mắc phải như sốt cao kèm theo phát ban đỏ toàn thân, viêm long đường hô hấp trên ...... cần đến ngay cơ sở y tế gần nhất và thuận tiện nhất để được khám, phát hiện và có chỉ định điều trị kịp thời, hạn chế những biến chứng xấu có thể xảy ra có thể làm ảnh hưởng đến tính mạng của trẻ.