Năm 2009 với nhiều thách thức, khó khăn từ thiên tai, dịch bệnh, nhưng với nỗ lực và quyết tâm của ngành y tế, nhiều kết quả đã được khẳng định. Báo Sức khỏe và Đời sống xin đăng tải 10 thành tựu nổi bật của ngành trong năm qua.
1. Tại Kỳ họp thứ 4 ngày 14/11/2008, Quốc hội khóa XII thông qua Luật Bảo hiểm y tế (BHYT) số 25/2008/QH12, có hiệu lực từ ngày 01/7/2009; ngày 27/7/2009 Chính phủ ban hành Nghị định số 62/2009/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số điều Luật BHYT.
Luật BHYT quy định về chế độ, chính sách BHYT, bao gồm đối tượng, mức đóng, trách nhiệm và phương thức đóng BHYT, thẻ BHYT, phạm vi được hưởng BHYT, tổ chức khám bệnh, chữa bệnh cho người tham gia BHYT, thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh BHYT, quỹ BHYT, quyền và trách nhiệm của các bên liên quan đến BHYT.
Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Bảo hiểm y tế. |
2. Tại Kỳ họp thứ 6 ngày 23/11/2009 Quốc hội khóa XII thông qua Luật Khám, chữa bệnh, có hiệu lực từ ngày 01/01/2011, bãi bỏ Pháp lệnh hành nghề y dược tư nhân ngày 25/3/2003.
Luật Khám, chữa bệnh gồm 9 chương, 91 điều, quy định về quyền và nghĩa vụ của người bệnh, người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh và cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; điều kiện đối với người hành nghề khám bệnh và cơ sở khám chữa bệnh; các quy định chuyên môn kỹ thuật, áp dụng kỹ thuật, phương pháp mới trong khám bệnh, chữa bệnh; sai sót chuyên môn kỹ thuật và giải quyết khiếu nại tố cáo của người bệnh; các điều kiện bảo đảm công tác khám bệnh, chữa bệnh.
Luật Khám chữa bệnh đảm bảo công bằng, bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh giữa các cơ sở khám chữa bệnh của Nhà nước và tư nhân. Các loại hình dịch vụ y tế dù thuộc khu vực Nhà nước hay tư nhân đều hoạt động trong một mặt bằng pháp lý, không có sự phân biệt giữa hai khu vực này.
3. Ngày 1/4/2009, Bộ Chính trị đã có Kết luận số 42-KL/TW thông qua Đề án đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính (trong đó có tiền lương và giá dịch vụ y tế) đối với các cơ sở y tế công lập; Kết luận số 43-KL/TW về thực hiện Nghị quyết 46-NQ/TW về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới; Kết luận số 44-KL/TW về thực hiện Nghị quyết 47-NQ/TW về công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình. Trong đó:
-Bộ Chính trị khẳng định hệ thống y tế công lập phải giữ vai trò chủ đạo, đặc biệt trong việc giữ vững định hướng công bằng, hiệu quả, phát triển và bảo đảm an sinh xã hội, đồng ý về chủ trương đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính trong ngành y tế.
-Bộ Chính trị đánh giá cao kết quả 2,5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 46-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác bảo vệ chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới.
-Bộ Chính trị khẳng định kết quả đạt được trong công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình, tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 47 của Bộ Chính trị về công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình nhằm bảo đảm dân số ổn định, nâng cao chất lượng dân số và bảo đảm cơ cấu dân số hợp lý.
Công tác sản xuất dược được nâng cao. |
4. Đề án luân phiên cán bộ theo Quyết định số 1816/2008/QĐ-BYT ngày 26/5/2008, cử cán bộ chuyên môn luân phiên từ bệnh viện tuyến trên về hỗ trợ các bệnh viện tuyến dưới đã đạt được thành tựu nổi bật trong nâng cao chất lượng khám chữa bệnh của tuyến dưới, giảm tình trạng quá tải cho bệnh viện tuyến trên đồng thời chuyển giao công nghệ kỹ thuật và đào tạo cán bộ tại chỗ nhằm nâng cao tay nghề cho cán bộ y tế tuyến dưới.
Năm 2009, đã có 64 bệnh viện cử cán bộ đi luân phiên với tổng số 1.846 lượt, hỗ trợ 26 chuyên ngành; chuyển giao 1.023 kỹ thuật, trong đó 80,9% kỹ thuật bệnh viện tuyến dưới đã tự thực hiện được sau khi nhận chuyển giao; 16% thực hiện kỹ thuật còn chưa thành thạo và 3,1% kỹ thuật tuyến dưới chưa tự thực hiện được.
5. Thực hiện Nghị quyết 18/NQ-QH12, ngành y tế đã xây dựng Đề án đầu tư nâng cấp bệnh viện huyện, bệnh viện đa khoa liên huyện và đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp các bệnh viện chuyên khoa lao, tâm thần, ung bướu, chuyên khoa nhi, bệnh viện đa khoa tỉnh thuộc vùng miền núi, khó khăn bằng nguồn trái phiếu Chính phủ.
Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 47/QĐ-TTg và Quyết định số 930/QĐ-TTg cho phép sử dụng nguồn trái phiếu Chính phủ (trong gói 20.000 tỷ đồng) để thực hiện nâng cấp 621 cơ sở y tế tuyến huyện và 16 bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh vùng khó khăn và một số bệnh viện chuyên khoa, tạo điều kiện cho người dân được tiếp cận với dịch vụ y tế có chất lượng ngay tại địa phương.
6. Công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình đã có nhiều chuyển biến tích cực, 62 tỉnh/thành phố đã thành lập chi cục DS - KHHGĐ; tỷ lệ phát triển dân số có xu hướng giảm từ 1,31% năm 2005 xuống còn dưới 1,20% năm 2009 và dự kiến là 1,14% năm 2010. Tỷ lệ sinh con thứ 3 giảm từ 20,8% năm 2005 xuống còn 16% năm 2009; chất lượng dân số từng bước được cải thiện cả thể chất, trí tuệ và tinh thần. Chỉ số HID của Việt Nam đứng thứ 116/177, tăng 8 bậc so với năm 2005.
7. Công tác phòng chống dịch bệnh được tập trung triển khai kịp thời, đặc biệt đối với đại dịch cúm A/H1N1, hạn chế tới mức thấp nhất tỷ lệ mắc, chết và những tác động khác do đại dịch cúm A/H1N1 gây ra. Dịch cúm A/H1N1 ở người xuất hiện ca đầu tiên vào ngày 30/5/2009 đến hết tháng 11/2009, Việt Nam đã ghi nhận 11.083 ca dương tính với cúm A/H1N1, trong đó có 50 ca tử vong; tỷ lệ mắc/dân số là gần 0.013%; tỷ lệ chết/mắc là 0.45%.
Làm tốt công tác phòng chống dịch đã hạn chế được sự lây lan dịch. |
8. Thành lập mới các cơ sở y tế: Trường đại học Y Dược Vinh, Trường trung cấp Y tế Bắc Kạn (trên cơ sở Trung tâm đào tạo cán bộ y tế Bắc Kạn) và Trường Đặng Văn Ngữ (trên cơ sở lớp trung cấp trong Viện Sốt rét - Côn trùng, ký sinh trùng Trung ương). Thành lập 5 trường cao đẳng y tế trên cơ sở trường trung cấp y tế: Điện Biên, Sơn La, Hưng Yên, Ninh Bình, Lâm Đồng.
Thành lập Viện Kiểm nghiệm an toàn vệ sinh thực phẩm miền Bắc và Trung tâm an toàn vệ sinh thực phẩm miền Trung và miền Nam.
9. Công tác khoa học - công nghệ: Hoàn thành thử nghiệm lâm sàng giai đoạn II vaccin cúm A/H5N1 và sản xuất quy mô phòng thí nghiệm vaccin cúm A/H1N1, khả năng đưa vào sản xuất hàng loạt trong năm 2010.
10. Công tác dược: Bảo đảm ổn định giá thuốc trên thị trường, chỉ số giá đứng thứ 7 trong 10 nhóm hàng tiêu dùng thiết yếu. Tỷ trọng thuốc sản xuất trong nước đã tăng gần 10% so với năm trước, bảo đảm đủ thuốc cung cấp cho người dân. Chất lượng thuốc đã bảo đảm đạt tiêu chuẩn quốc tế và tiêu chuẩn GMP của Tổ chức Y tế Thế giới.