Giải Nobel Y học 2010 dành cho cha đẻ kỹ thuật thụ tinh ống nghiệm
Cha đẻ của kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) Robert Edwards (người Anh) đã nhận giải Nobel Y học 2010 do Ủy ban Nobel trao tặng vào ngày 4-10 tại Thụy Điển. Phần thưởng này lẽ ra được trao cho hai người là bác sĩ Robert Edwards và bác sĩ Patrick Steptoe, nhưng ông Steptoe đã qua đời năm 1988. Trước đó năm 2001, công trình của hai người nhận được giải thưởng danh giá về nghiên cứu y khoa Albert Lasker.
Mặc dù kỹ thuật thụ tinh ống nghiệm manh nha từ thế kỷ 19 nhưng đến năm 1955, kỹ thuật này mới được giáo sư người Anh Robert Edwards quyết tâm nghiên cứu. Ông phát hiện ra trứng người chỉ trưởng thành sau ít nhất 24 giờ để tìm cách giúp trứng thụ tinh trong ống nghiệm.
Năm 1968, ông Edwards đề nghị bác sĩ Patrick Steptoe, người có công trình ấn tượng liên quan tới kỹ thuật nội soi ổ bụng, hợp tác. Theo đó, bác sĩ Steptoe sẽ chọc hút trứng bằng kỹ thuật nội soi, còn giáo sư Edwards phụ trách việc thụ tinh cho trứng.
Bất chấp áp lực và sự công kích nặng của báo chí, dư luận, tôn giáo và nhiều nhà khoa học nổi tiếng thời đó, cả hai đã thực hiện 102 lần thụ tinh cho trứng và cấy vào cơ thể người nhưng đều thất bại. Có hai lần, người được cấy trứng mang thai nhưng sau đó một trường hợp phải bỏ thai vì thai nằm ngoài tử cung và một trường hợp bị sảy thai.
Năm 1977, hai bác sĩ gặp cặp vợ chồng hiếm muộn Lesley và John Brown do ống dẫn trứng của bà Lesley bị tắc. Ngày 10-11-1977, hoạt động chọc hút trứng bà Lesley được tiến hành. Tiếp theo đó là thụ tinh trong ống nghiệm, cấy trứng vào tử cung và chờ đợi trong khi cùng lúc phải chạy trốn báo chí. Ngày 25-7-1978, Louise Brown, đứa bé được thụ tinh ống nghiệm đầu tiên trên thế giới chào đời tại một bệnh viện nhỏ ở miền Bắc nước Anh. Louise Brown ra đời bằng phương pháp đẻ mổ, nặng 2,61kg.
Sau đó vào tháng 6-1980, đứa trẻ thụ tinh trong ống nghiệm đầu tiên của Úc ra đời. Năm 1981, đứa trẻ thụ tinh trong ống nghiệm đầu tiên của Mỹ ra đời. Thành công của ông Edwards và ông Steptoe được đánh giá là một trong những tiến bộ y học lớn nhất trong thế kỷ 20, mang lại hy vọng cho hàng triệu gia đình hiếm muộn. Đến nay, thế giới có khoảng 4 triệu trẻ em ra đời bằng phương pháp trên. “Đóng góp của hai ông giúp điều trị chứng vô sinh, một đóng góp y tế chữa trị cho rất nhiều người, khoảng hơn 10% cặp đôi trên thế giới”, Ủy ban Nobel cho biết.
Theo Ủy ban Nobel, phần thưởng dành cho ông trị giá 1,5 triệu đô la Mỹ.
Tóm tắt tiểu sử
Ông Robert G. Edwards sinh năm 1925 tại Manchester (Anh).
Sau thời gian phục vụ trong quân đội trong thế chiến 2, ông theo học sinh học tại Đại học Wales ở Bangor và Đại học Edinburgh tại Scotland.
Ông nhận bằng tiến sĩ năm 1955.
Ông trở thành khoa học của Viện nghiên cứu y khoa quốc gia Anh tại London năm 1958, nơi ông bắt đầu nghiên cứu về quá trình thụ tinh ở người.
Từ năm 1963, ông làm việc tại Đại học Cambridge và cho Trung tâm thụ tinh nhân tạo thế giới Bourn Hall Clinic, nơi ông cùng hợp tác với bác sĩ Patrick Steptoe.
Hiện, ông là giáo sư danh dự Cambridge.
Giải Nobel y học 2010 đầu tiên đã có chủ
Nhà khoa học Anh quốc, Robert Edwards, đã bước lên bục vinh quang, được chính thức tuyên bố là chủ nhân của giải Nobel Y học năm 2010 về công trình nghiên cứu "sự phát triển của con người trong liệu pháp thụ tinh ống nghiệm (IVF)". Sự kiện khoa học trọng đại tầm cỡ thế giới đó vừa diễn ra vào 4h30 ngày (4/10/2010) ở Stockholm, Vương Quốc Thụy Điển. Thành tựu lớn lao của nhà khoa học 85 tuổi (1925-2010) Robert Edwards đã mang đến hạnh phúc cho nhiều triệu cặp vợ chồng trên toàn thế giới nhờ được điều trị bệnh vô sinh bằng phương pháp IVF. Trong phương pháp IVF này, các tế bào trứng được thụ tinh ở bên ngoài cơ thể và phôi sinh ra sẽ được cấy vào tử cung người mẹ.
Robert G. Edwards sinh năm 1925 tại Manchester, nước Anh. Thế chiến thứ hai kết thúc, hoàn thành nghĩa vụ quân sự, ông vào học ngành Sinh học ở Đại học Wales ở Bangor và Đại học Edinburgh ở Scotland, ở đây ông nhận bằng tiến sĩ vào năm 1955 với một luận án về phát triển embryonal ở chuột.
Từ năm 1963, Edwards làm việc ở Cambridge, đầu tiên tại trường đại học và sau đó là tại Bourn Hall Clinic và thành lập trung tâm thụ tinh ống nghiệm đầu tiên trên thế giới. Edwards là giám đốc nghiên cứu nhiều năm và ông cũng là biên tập viên của một số tạp chí khoa học hàng đầu trong lĩnh vực thụ tinh. Hiện nay Robert Edwards là giáo sư danh dự tại Đại học Cambridge.
Với giải thưởng cao quý nhất Nobel về y học, GS Robert Edwards sẽ nhận được khoản tiền thưởng trị giá 10 triệu kronor (tương đương 1,5 triệu USD).
Chân dung tân chủ nhân giải Nobel Y học
Những nỗ lực không biết mệt mỏi của bác sĩ Robert Geoffrey Edwards trong những năm 1950, 1960, 1970 đã mang lại thành tựu to lớn cho Y học thế giới: phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm IVF (in vitro fertilization). Công sức mà Edwards và người đồng nghiệp Patrick Steptoe bỏ ra đã được tưởng thưởng với sự ra đời của Louise Brown, sản phẩm đầu tiên của phương pháp IVF vào năm 1978.
Giải Nobel cho cha đẻ phương pháp thụ tinh ống nghiệm
Vào lúc 11h47 đêm 25/7/1978, Y học thế giới đã có một bước đột phá với sự ra đời của cô bé Louise Brown tại bệnh viện Oldham. Giây phút đó đánh dấu sự thành công của phương pháp thụ tinh nhân tạo IVF và từ đó tới nay đã mang lại niềm hạnh phúc vô bờ bến cho hàng triệu cặp vợ chồng hiếm muộn trên toàn thế giới.
32 năm sau ngày chào đời của Louise Brown, bác sĩ Robert G. Edwards mới nhận được giải Nobel Y học. Trong khoảng thời gian hơn 3 thập kỷ ấy, thế giới Y học đã đổi thay rất nhiều và cô bé Louise Brown giờ đã làm mẹ của bé trai 4 tuổi Cameron. Khoảng thời gian ấy đã giúp con người nhận thức được công lao của vị bác sĩ Robert G. Edwards, người vừa mới đón sinh nhật thứ 85 vào tháng trước. Và giải Nobel cho ông là hệ quả tất yếu. Không có nhiều người bất ngờ khi Robert G. Edwards trở thành chủ nhân của giải Nobel đầu tiên trong năm 2010.
Một ngày trước khi chủ nhân giải Nobel Sinh lý học - Y học được xướng tên ở Stockholm, tờ nhật báo Svenska Dagbladet của Thụy Điển đã đánh giá Robert Edwards là ứng cử viên nặng ký nhất cho giải thưởng danh giá nhất của Y học thế giới. Robert Edwards đã vượt qua vị bác sĩ trẻ người Nhật Bản Shinya Yamanaka tới từ Đại học Kyoto, một ứng viên nặng ký khác của giải Nobel Y học 2010.
Ngay từ những năm 1950, Robert Edwards đã bắt đầu nghiên cứu cách thụ tinh trên cơ thể người. Tới năm 1963, Edwards được bổ nhiệm làm Giáo sư Đại học Cambridge và ông có thêm cơ hội nghiên cứu về các phương pháp thụ tinh mới.
Ông cùng với người cộng sự Patrick Steptoe - một bác sĩ phụ khoa của bệnh viện Oldham, đã nghiên cứu và phát triển phương pháp thụ tinh nhân tạo, được đặt tên là kỹ thuật IVF. Cả hai đã sáng lập phòng nghiên cứu Bourn Hall để phát triển phương pháp của mình và đào tạo các nhà nghiên cứu trẻ.
Từ năm 1968, Edwards và Steptoe đã làm một công việc tưởng như không tưởng: cho trứng thụ tinh với tinh trùng ở bên ngoài cơ thể và cấy phôi thu được vào tử cung người mẹ. Edwards và Steptoe đã bị dư luận phản đối dữ dội vì cho rằng phương pháp thụ tinh nhân tạo không phù hợp với các quy chuẩn đạo đức. Sau hơn 20 năm, phương pháp này đã được kiểm chứng với sự ra đời của bé Louise Joy Brown.
Tính từ năm 1978 tới nay, đã có hơn 4 triệu đứa trẻ trên thế giới ra đời nhờ phương pháp IVF. Theo phát ngôn của Ủy ban bầu chọn giải Nobel Sinh lý học - Y học thì phương pháp của Edwards và Steptoe có tác dụng trong việc chống vô sinh, căn bệnh có thể ảnh hưởng tới 10% số cặp vợ chồng trên phạm vi toàn cầu. Patrick Steptoe đã qua đời vào năm 1988 nên Robert Edwards là người duy nhất được trao giải Nobel Sinh lý học - Y học năm 2010. "Thành tựu của Edwards có tác dụng trong việc điều trị vô sinh, chứng bệnh có ảnh hưởng lớn tới nhân loại, với khoảng 10% số cặp vợ chồng trên toàn thế giới có nguy cơ mắc phải. Khoảng 4 triệu đứa trẻ đã ra đời nhờ phương pháp IVF.
Ngày hôm nay, phương pháp của Robert Edwards đã được kiểm chứng và mang lại niềm vui cho những người vô sinh trên toàn thế giới”, Ủy ban bầu chọn giải Nobel Sinh lý học - Y học đánh giá.
Theo Goran Hansson, thư ký Ủy ban bầu chọn giải thì do đã cao tuổi và sức khỏe không đảm bảo nên Giáo sư Edwards không thể tham dự buổi họp báo công bố kết quả trao giải. “Tôi đã nói chuyện với vợ Giáo sư Edwards. Bà ấy rất vui và khẳng định ông ấy cũng sẽ rất hạnh phúc”, Hansson phát biểu trước báo giới tại Stockholm. Robert Edwards sẽ chính thức nhận giải Nobel vào ngày 10/12 tới, cùng với chủ nhân các giải Nobel trong những lĩnh vực khác. Bác sĩ Edwards sẽ nhận được Huy chương Nobel, bằng chứng nhận và khoản tiền thưởng 10 triệu kronor Thụy Điển (tương đương 1,53 triệu USD).
Đôi nét về Robert Edwards -Robert Geoffrey Edwards sinh ngày 27/9/1925 tại Manchester, Anh; -Sau khi tốt nghiệp trường Trung học Trung tâm Manchester, ông theo học nghành Nông nghiệp ở Đại học Wales, Bangor và Đại học Edinburgh. -Edwards nhận bằng Tiến sĩ vào năm 1955. -Tới năm 1963, ông được bổ nhiệm làm Giáo sư Đại học danh giá Cambridge. -Ngoài công việc nghiên cứu khoa học, Edwards còn biên tập các ấn bản về Y học. Năm 2001, ông được trao giải Albert Lasker Clinical Medical Research Award, tài trợ bởi Quỹ Lasker, cho phương pháp IVF. -Năm 2007, Edwards xếp thứ 26 trong danh sách 100 nhân vật vĩ đại nhất thế giới đang sống do tờ Telegraph bầu chọn. -Tới 4/10/2010, Edwards trở thành chủ nhân giải Nobel Sinh lý học - Y học năm 2010. |
“Em bé trong ống nghiệm” nhận giải Nobel Y học
Nhà sinh lý học người Anh Robert G. Edwards đã vinh dự nhận giải Nobel Y học 2010 với công trình nghiên cứu khoa học phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm - phương pháp giúp hơn 4 triệu trẻ em trên thế giới được chào đời cho đến nay. Giải Nobel Y học 2010 vừa được công bố vào lúc 4h 30 chiều nay, 4/10 và giải thưởng này đã thuộc về nhà sinh lý học người Anh Robert G. Edwards với công trình nghiên cứu khoa học phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm.
Phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) là cho trứng và tinh trùng gặp nhau bên ngoài cơ thể. Với qui luật tự nhiên, chỉ có một tinh trùng chui được vào trứng và thụ tinh thành phôi. Tiến trình này được diễn ra trong phòng nuôi cấy. Sau khi thụ tinh, phôi được nuôi phát triển trong một thời gian ngắn sau đó được chuyển vào buồng tử cung. Bệnh nhân được thử máu 2 tuần sau khi đặt phôi vào để xác định có thai hay không.
Phương pháp này đã được nhà sinh lý học người Anh bắt đầu phát triển từ năm 1968. Bước ngoặt của công trình nghiên cứu này diễn ra vào năm 1978 khi đứa trẻ đầu tiên được ra đời tại bệnh viện Oldham General (Anh). Cho đến nay, phương pháp IVF đã giúp hơn 4 triệu trẻ em trên thế giới được chào đời. William Ledger, trưởng bộ môn sinh sản của Đại Học Sheffield nhận xét, giải thưởng dành cho ông Edwards là một sự nhìn nhận đúng đắn về những gì ông đã làm để thay đổi số phận của hàng triệu người trên hành tinh này.
Tuần này, mùa giải Nobel 2010 đã bắt đầu với việc công bố giải Y học tại Thụy Điển. Năm nay, nhân vật đoạt giải là một khoa học gia Anh quốc, người đã giúp cho ra đời phương pháp thụ tinh ống nghiệm, qua đó mang lại niềm hạnh phúc cho hàng triệu cặp vợ chồng hiếm muộn. Ngày 4/10, tên người trúng giải Nobel đã được Viện Hàn lâm Thụy Điển, công bố: đó là khoa học gia người Anh Robert Edwards. Những ngày tiếp theo, tên người chiến thắng trong các giải Vật lý, Hóa học, Kinh tế, Văn học và Hòa bình cũng sẽ được tiết lộ.
Đánh bại “cha đẻ” của thuốc tránh thai
Báo chí Anh cho biết Robert Edwards, 85 tuổi, và cộng sự quá cố của ông là Patrick Steptoe là các nhân vật có công trong việc phát triển công nghệ thụ tinh ống nghiệm, trong đó tế bào trứng được thụ tinh bên ngoài cơ thể người trước khi được cấy trở lại tử cung. Thành tựu chấn động của hai ông đã dẫn tới sự ra đời của đứa trẻ ống nghiệm đầu tiên trên thế giới, Louise Brown, hồi năm 1978. Kể từ đó, khoảng 4 triệu đứa trẻ ống nghiệm đã sinh ra trên thế giới. Edwards chưa có phản ứng gì với tin đoạt giải Nobel do đang bị mệt nhưng Mike Macnamee, giám đốc điều hành trung tâm điều trị thụ tinh ống nghiệm Bourn Hall, nơi Edwards giúp sức lập nên, đã đánh giá cao thành tích và sự cống hiến của ông. “Edwards là một trong những khoa học gia vĩ đại nhất của chúng tôi. Công trình nghiên cứu của ông trong đầu những năm 60 đã giúp tăng cường chất lượng sống của hàng triệu người trên toàn cầu” - Macnamee nói - “Tôi thật sự vui mừng khi người thầy vĩ đại, đồng nghiệp và người bạn của tôi đã được ghi nhận sự đóng góp theo cách này”.
Được biết chỉ vài giờ trước khi có thông tin chính thức về người chiến thắng, nhật báo Svenska Dagbladet của Thụy Điển đã dự đoán Edwards đoạt giải. Một số cái tên khác cũng được người ta nhắc tới. Đó là nhà khóa học Mỹ gốc Áo Carl Djerassi, người giúp tạo ra thuốc tránh thai cho nữ giới. Năm nay cũng là năm thứ 50 loại thuốc này xuất hiện trên thị trường. Ngoài ra các nhà nghiên cứu Mỹ là Gary Ruvkun và Victor Ambros cũng được đưa lên đầu danh sách đoạt giải với công trình nghiên cứu microRNA. MicroRNA được xem là dạng phổ biến nhất của RNA (chất biên dịch mã di truyền của DNA thành protein).
Việc nghiên cứu chúng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động nghiên cứu bệnh di truyền. Tuy nhiên họ đã không vượt qua được cái bóng khổng lồ của Edwards. Năm ngoái, giải Y học đã được trao cho 3 nhà khoa học người Mỹ là Elizabeth Blackburn (61 tuổi), Carol W.Greider (48 tuổi) và Jack W.Szostak (57 tuổi) với công trình nghiên cứu về bệnh ung thư và tuổi thọ con người. Công trình của họ đã thực sự giải đáp được hai bí ẩn: bằng cách nào các nhiễm sắc thể có thể sao chép một cách hoàn hảo trong khi các tế bào phân chia và làm sao chúng có thể tránh được sự lão hóa?
Đua nhau phỏng đoán các chủ nhân giải Nobel
Giống như mọi năm, không khí quanh giải Nobel đang nóng lên với các phỏng đoán xung quanh những người có khả năng giành giải. Theo thông lệ, tên người đoạt giải Vật lý và Hóa học sẽ được công bố lần lượt trong hai ngày 5/10 và 6/10. Tên người đoạt giải Văn học cũng sẽ được công bố vào ngày 7/10 và không ít người trong giới đã nhận định năm nay sẽ có một nhà thơ đoạt giải. Nếu chuyện này là hiện thực, đây sẽ là lần đầu tiên một nhà thơ đoạt giải Nobel kể từ năm 1996.
Danh sách các ứng viên số một cho giải Văn học gồm nhà thơ Algeria Assia Djebar. Bà sẽ phải cạnh tranh cùng các tác giả Tomas Transtroemer (Thụy Điển), Adonis (Syria) và Ko Un (Hàn Quốc). Những cái tên lớn khác như các tác giả người Canada Margaret Atwood và Alice Munro, các tiểu thuyết gia người Mỹ Philip Roth và Joyce Carol Oates, nhà văn Israel Amos Oz đã thường xuyên được đưa vào danh sách những người có khả năng giành giải trong nhiều năm. Biết đâu năm nay vận may sẽ mỉm cười với họ.
Năm ngoái, giải Văn học được trao cho tác giả người Đức Herta Mueller. Các tác phẩm của bà được Viện Hàn lâm Thụy Điển ngợi ca là “bằng sự dồn nén chất thơ và tính ngay thật của văn xuôi, bà đã mô tả vẻ đẹp của con người bị tước đoạt”. Những phỏng đoán cũng xuất hiện mạnh quanh giải Nobel Hòa bình, theo kế hoạch được công bố hôm 8/10 và sẽ là giải duy nhất được công bố ở Oslo, Na Uy. Năm ngoái, người đoạt giải là Tổng thống Mỹ Barack Obama. Việc ông đoạt giải dù mới chỉ nhậm chức chưa đầy một năm, trong bối cảnh Mỹ đang tham chiến ở Iraq và Afghanistan, đã gây chỉ trích nặng nề nhằm vào Hội đồng trao giải Nobel Na Uy.
Một số nhà quan sát vì thế dự đoán rằng nhân vật giành giải năm nay sẽ gây ít tranh cãi hơn, bao gồm nhà hoạt động nhân quyền người Afghanistan Sima Samar và Tòa án đặc biệt Sierra Leone. Giải Nobel kinh tế, được công bố vào ngày 11/10, sẽ khép lại danh sách những người đoạt giải năm nay. Được biết, mỗi cá nhân đoạt giải sẽ nhận 10 triệu krono Thụy Điển, theo tỉ giá quy đổi hiện hành là 1,49 triệu USD.
Giải Nobel Y học năm 2010 thuộc về nhà sinh lý học người Anh Robert Edwards nhờ thành tựu khai phá phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm (IVF)
Trên website chính thức Nobelprize.org, Hội đồng Nobel thuộc Viện Karolinska của Thụy Điển khẳng định: “Những thành tựu của ông (Edwards) mở ra khả năng chữa trị vô sinh, vốn ảnh hưởng đến hơn 10% cặp vợ chồng trên thế giới”. Hội đồng đánh giá những đóng góp của ông là “một cột mốc trong sự phát triển của y học hiện đại”. Nhà khoa học 85 tuổi sẽ nhận giải thưởng trị giá 10 triệu kroner (1,5 triệu USD).
Theo thông cáo trên Nobelprize.org, ông Edwards bắt đầu nghiên cứu IVF vào đầu thập niên 1950 và sớm nhận thấy đây có thể là cứu tinh cho những cặp vợ chồng hiếm muộn. Ông tiếp tục phát triển phương pháp này cùng chuyên gia phụ khoa Patrick Steptoe. Vào ngày 25.7.1978, Louise Brown trở thành đứa bé đầu tiên được sinh ra bằng IVF, đánh dấu một cuộc cách mạng trong chữa trị vô sinh. IVF là một phương pháp hiệu quả và an toàn. Khoảng 20-30% trứng được thụ tinh có thể cho ra đời một em bé và ít khi xảy ra biến chứng. Những cuộc nghiên cứu sau đó cho thấy những đứa trẻ “sinh ra trong ống nghiệm” cũng khỏe mạnh và phát triển bình thường. Theo Hội đồng Nobel, từ năm 1978 đến nay, khoảng 4 triệu trẻ em đã ra đời bằng phương pháp IVF. Louise Brown và những đứa trẻ IVF thế hệ đầu tiên cũng đã sinh con. “Đây có lẽ là bằng chứng tốt nhất cho sự thành công của liệu pháp IVF”.
Ông Edwards sinh năm 1925 ở thành phố Manchester. Sau khi phục vụ quân dịch trong Thế chiến 2, ông học sinh học tại Đại học xứ Wales ở Bangor và Đại học Edinburgh ở Scotland. Tại đây, ông lấy bằng tiến sĩ với luận án nghiên cứu về sự phát triển phôi ở chuột. Ông trở thành thành viên của Viện Nghiên cứu y khoa quốc gia ở London vào năm 1958 và bắt đầu nghiên cứu về quá trình thụ tinh ở người. Năm 1963, ông làm việc tại Cambridge, trước là tại đại học cùng tên và sau đó là Bệnh viện Bourn Hall, trung tâm IVF đầu tiên trên thế giới do ông và người cộng sự Steptoe sáng lập. Ông Edwards còn là chủ biên của nhiều chuyên san hàng đầu trong lĩnh vực thụ tinh. Nhà khoa học này hiện là giáo sư danh dự của Đại học Cambridge.
Theo AP, ngay từ trước khi giải Nobel Y học được công bố, giới quan sát đã nhận định chiến thắng năm nay khó lọt khỏi tay ông Edwards nhờ một trong những đột phá quan trọng nhất của y học. Rất tiếc là ông Steptoe đã qua đời vào năm 1988 nên không thể cùng chia sẻ vinh dự này. AP dẫn thông cáo của Bệnh viện Bourn Hall nói một trong những thời khắc tự hào nhất của ông Edwards là lúc biết được 1.000 trẻ đã chào đời bằng phương pháp IVF tại đây kể từ năm 1978. Thông cáo cũng cho biết sức khỏe của ông Edwards cũng đã yếu nên ông sẽ không trả lời phỏng vấn.
Vatican chỉ trích giải Nobel Y học 2010
Một quan chức Vatican cho rằng, việc trao giải Nobel Y học, tôn vinh người tiên phong trong phương pháp thụ tinh ống nghiệm là “hoàn toàn coi thường luân lý”. GS. Edwards và "em bé" đầu tiên được sinh ra từ ống nghiệm trong sinh nhật lần thứ 30 của cô. Ignacio Carrasco de Paula, người đứng đầu Viện hàn lâm Giáo hoàng, đánh giá giải thưởng đã bỏ qua những vấn đề đạo đức trong sinh sản. Ông khẳng định thụ tinh ống nghiệm đã dẫn đến sự hủy diệt một số lượng rất lớn phôi thai người.
Mặc dù thừa nhận, thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) đã mở ra một chương mới và quan trọng trong lĩnh vực sinh sản ở người, song ông cho rằng, sự lựa chọn của ủy ban giải thưởng Nobel là hoàn toàn không chấp nhận được. Bởi phương pháp sinh sản đó không đảm bảo được khả năng thành công của các trường hợp thụ tinh cũng như khả năng phát triển của phôi thai. Có rất nhiều trường hợp phải chết và bị bỏ đi. Người chiến thắng giải Nobel sẽ cần phải chịu trách nhiệm về điều đó. Ủy ban giải thưởng Nobel Y học đánh giá, công trình của giáo sư Edwards đã mang đến niềm vui cho những người vô sinh trên toàn thế giới. Kể từ năm 1978 đến nay, gần 4 triệu trẻ em đã được sinh ra từ phương pháp sử dụng thu tinh ống nghiệm để khắc phục khả năng sinh sản.
Thành tựu của ông đã là mở ra cơ hội được làm cha mẹ cho 10% các cặp vợ chồng trên thế giới không có khả năng sinh nở. Giáo sư Edwards với những nỗ lực không mệt mỏi suốt ba thập kỷ 1950-1960-1970 đã cho ra đời em bé đầu tiên, Louise Brown vào tháng Bảy năm 1978. Cô Brow cho biết giải thưởng trên là một tin tuyệt vời. Cô phát biểu: “Tôi và mẹ rất vui mừng vì một trong những người tiên phong về thụ tinh ống nghiệm đã được công nhận một cách xứng đáng”. “Chúng tôi giữ những tình cảm vô cùng yêu mến đối với Bob và gửi lời chúc mừng thân thiết đến ông và gia đình ông”.