Tuổi trẻ
Người tiêu dùng đang “bội thực” sản phẩm gây hại
Ngày 23-9, tại hội thảo “Công nghệ xanh và vệ sinh an toàn thực phẩm” do Công ty Kirin VN tổ chức, ông Huỳnh Lê Thái Hòa - chi cục trưởng Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm TP.HCM - khuyến cáo vấn đề an toàn thực phẩm đang là nỗi lo lớn nhất, do người tiêu dùng ngày càng ít có cơ hội sử dụng thực phẩm tự nhiên, thay vào đó là các sản phẩm công nghiệp. Những sản phẩm này thường sử dụng hóa chất độc hại, khâu chế biến, bảo quản thường không đảm bảo vệ sinh, gây hại cho sức khỏe người tiêu dùng.
Theo ông Huỳnh Lê Thái Hòa, để bảo vệ mình trước thực phẩm không an toàn người tiêu dùng nên chú ý chọn mua hàng hóa có bao bì cẩn thận, nguồn gốc rõ ràng, nhãn mác đầy đủ thông tin về thành phần, hạn sử dụng, nơi bày bán cũng phải đảm bảo vệ sinh. Ngoài ra, người tiêu dùng nên tận dụng quyền của mình, phản ảnh đến các cơ quan chức năng nếu phát hiện sản phẩm của doanh nghiệp gây ảnh hưởng xấu cho sức khỏe.
Lao động
Hợp tác với Mỹ khắc phục hậu quả chất da cam: Sẽ ưu tiên vấn đề y tế
Hội nghị lần thứ sáu của Uỷ ban Cố vấn hỗn hợp Việt – Mỹ về chất da cam/dioxin (JAC) đã khai mạc ngày 22.9. Hội nghị đã đạt được sự nhất trí cao về ưu tiên cho vấn đề y tế trong việc khắc phục hậu quả của chất da cam/dioxin ở Việt Nam – tiến sĩ Kevin Teichman - đồng Chủ tịch phía Mỹ của JAC - cho biết. Tại cuộc họp, hai bên đã thảo luận các dự án y tế tiềm năng như sàng lọc dị tật ở trẻ sơ sinh, giám sát dự phòng ung thư và các dự án này sẽ được thúc đẩy với khoản tiền 3 triệu USD dành cho y tế trong số 18,5 triệu USD mà hồi tháng 4.2011 Quốc hội Mỹ đã phân bổ cho vấn đề khắc phục hậu quả chất da cam ở Việt Nam.
JAC cũng thảo luận các tiến bộ dự án tẩy độc ở sân bay Đà Nẵng. Dự án này sẽ được khởi công vào năm 2012 và dự kiến hoàn thành vào 2015. Tiến sĩ Teichman cho biết, Quốc hội Mỹ ngày càng quan tâm đến vấn đề khắc phục hậu quả chất da cam ở Việt Nam, đã có nhiều nghị sĩ Mỹ sang Việt Nam thăm các điểm nóng và ông hy vọng ngân sách của QH Mỹ cho vấn đề này sẽ tiếp tục xu hướng tăng như những năm vừa qua.
Tiến sĩ Lê Kế Sơn - đồng Chủ tịch JAC phía Việt Nam - khẳng định rằng đây là cuộc họp có nhiều kết quả nhất, đồng thuận nhất và hiệu quả nhất của JAC từ trước đến nay. Sự tham gia rộng rãi của đại diện giới khoa học, các tổ chức phi chính phủ hai bên, đại diện của một số đại sứ quán nước ngoài, cho thấy chất da cam không chỉ của riêng Việt Nam mà đã được quốc tế hóa.
Ông Sơn cho biết, dioxin ở sân bay Phù Cát sẽ được giải quyết trong năm tới, còn việc xử lý dioxin ở sân bay Biên Hòa khó khăn hơn và đề nghị phía Mỹ tích cực giúp đỡ việc này. Hiện chưa tính toán được khối lượng đất bùn cần xử lý và công nghệ nào sẽ được áp dụng để xử lý ô nhiễm dioxin tại sân bay Biên Hòa.
Tăng cường giám sát bệnh tay chân miệng tại nhà trẻ, mẫu giáo
Ngày 25.9, Sở Y tế Lâm Đồng cho biết: Số bệnh nhân tay-chân-miệng của tỉnh này trong tuần thứ 38 vừa qua đã giảm 7 ca so với tuần thứ 37 trước đó – 188 so với 195; tuy nhiên, nếu cộng dồn thì tổng số ca mắc bệnh tay-chân-miệng của tỉnh này hiện đã lên đến 1.066 ca, tăng 602 ca so với cuối tháng 8.2011.
Đặc biệt, tại Lâm Đồng, theo ghi nhân của ngành y tế, hiện đã có 2 ca trong tổng số hơn 1.000 ca nói trên đã tử vong (1 trường hợp ở thôn Ánh Mai 1, xã Lộc Châu, TP.Bảo Lộc và 1 trường hợp tại khu phố 2 thị trấn Liên Nghĩa, huyện Đức Trọng). Theo văn bản chỉ đạo mới nhất của Sở Y tế, các địa phương và đơn vị trong ngành tiếp tục đẩy mạnh hoạt động giám sát, kiểm tra công tác vệ sinh trường học tại các nhà trẻ, trường mẫu giáo; thực hiện đúng cách xử lý môi trường bằng hóa chất chloramin B, đặc biệt lưu ý hướng dẫn cách sử dụng và giám sát xử lý tại các nhà trẻ và trường mẫu giáo.
Sở Y tế Khánh Hòa cũng cho hay, từ đầu năm đến nay, các cơ sở y tế trên địa bàn toàn tỉnh đã tiếp nhận gần 950 ca mắc bệnh tay-chân-miệng - tăng đột biến so với nhiều năm gần đây và gấp hơn 22 lần so với cùng kỳ năm ngoái. Mặc dù chưa xảy ra tử vong, nhưng năm nay lần đầu tiên ghi nhận một số trường hợp biến chứng nặng: 5 ca có dấu hiệu thần kinh, 3 ca phải chuyển lên tuyến trên điều trị. Ngành y tế tỉnh Khánh Hòa đã và đang tích cực triển khai giám sát, lấy mẫu xét nghiệm và hướng dẫn điều trị bệnh TCM tại cộng đồng; đặc biệt chú trọng công tác tuyên truyền hướng dẫn xử lý vệ sinh môi trường, sát khuẩn vật dụng, đồ chơi trẻ em ở các trường mẫu giáo, nhà trẻ... Tất cả các phòng GDĐT cấp huyện đều phân công cán bộ chuyên trách phối hợp ngành y tế tổ chức phòng, chống dịch TCM trong hệ thống trường học.
Nhân dân
Đổi mới đào tạo nguồn nhân lực y tế chất lượng cao
Nguồn nhân lực y tế chất lượng cao không đồng nghĩa với học hàm, học vị cao nếu như họ không có đóng góp gì thật sự có giá trị về mặt khoa học trong suốt quá trình công tác hoặc nghiên cứu khoa học. Họ có thể chỉ là những bác sĩ, dược sĩ, kỹ thuật viên, hay điều dưỡng, hộ sinh, cử nhân y tế công cộng... được đào tạo, có tay nghề chuyên môn giỏi, đạo đức nghề nghiệp và thái độ giao tiếp ứng xử tốt, đáp ứng hiệu quả yêu cầu công việc và đóng góp thật sự cho sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân, đó chính là điều mà người dân mong đợi.
Số liệu điều tra gần đây của Trường đại học Kỹ thuật Y tế Hải Dương về nguồn nhân lực kỹ thuật viên (KTV) y tế tại 28 tỉnh miền bắc cho thấy: đội ngũ KTV y tế không những thiếu về số lượng mà còn yếu về chất lượng và không đồng bộ về chuyên ngành. Hầu hết ở trình độ trung cấp (96,5%), gần 50% số điều dưỡng viên làm công việc KTV y tế, nhất là thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao và chuyên ngành. Hơn nữa, do sự phát triển nhanh của hệ thống y tế tư nhân nên nhu cầu nhân lực y tế ngày càng lớn, điều đó thu hút nhiều cán bộ y tế (CBYT) giỏi, có kinh nghiệm từ các cơ sở y tế công lập, một khi sự gia tăng khác biệt về thu nhập và điều kiện làm việc của CBYT giữa các tuyến, các chuyên ngành sẽ góp phần gây nên tình trạng chuyển dịch CBYT. Vấn đề năng lực chuyên môn của CBYT còn nhiều bất cập, khó khăn: dưới 30% số CBYT có trình độ đại học làm việc trong các cơ sở công lập và tập trung nhiều ở tuyến tỉnh; ở tuyến xã chủ yếu trình độ trung và sơ cấp; khả năng đáp ứng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ở tuyến dưới thấp, vẫn sai sót trong chẩn đoán, điều trị, nhất là những bệnh không truyền nhiễm. Nguyên nhân do ít được đào tạo liên tục, đào tạo cập nhật, từ đó góp phần tạo nên sự quá tải ở các bệnh viện tuyến trên; chương trình đào tạo chậm đổi mới, cơ sở vật chất cho đào tạo còn thiếu thốn, chưa có mối liên hệ chặt chẽ trường - bệnh viện; chưa có hệ thống thi quốc gia cấp chứng chỉ hành nghề; việc kiểm định và công nhận chất lượng đào tạo còn hạn chế, kinh phí đầu tư cho đào tạo thấp... ảnh hưởng không nhỏ tới đào tạo nguồn nhân lực y tế chất lượng cao.
Từ thực trạng trên, để góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực y tế có chất lượng, một trong những việc cấp bách đòi hỏi đào tạo phải đột phá và đổi mới, chuyển hướng đào tạo dựa trên năng lực và thực hành, dựa vào bằng chứng. Muốn vậy các cơ sở đào tạo cần xác định lấy người học làm trung tâm, mọi hoạt động phải hướng về người học. Đào tạo theo nhu cầu xã hội, lấy việc nâng cao chất lượng hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của CBYT sau khi ra trường là vấn đề quyết định chất lượng đào tạo. Chỉ như vậy mới đáp ứng được mong đợi của người học và các cơ sở sử dụng nguồn nhân lực. Bên cạnh việc tập trung đào tạo phát triển và xây dựng đội ngũ giảng viên chất lượng cao, tăng cường cơ sở vật chất, đổi mới công tác quản lý, cơ chế tài chính, cần tập trung đổi mới mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học, phương pháp đánh giá để bảo đảm chuẩn đầu ra mà các chuyên ngành y - dược đã cam kết với xã hội.
Vấn đề là chúng ta đổi mới từ đâu? Đã đến lúc các cơ sở đào tạo cần dựa vào nơi sử dụng nguồn nhân lực, cơ quan quản lý và các hội nghề nghiệp y tế để nghiên cứu xác định lại vị trí, vai trò, yêu cầu của từng chuyên ngành, xác định cơ cấu nguồn lực về số lượng, trình độ đào tạo, định biên so với tỷ lệ giường bệnh, tỷ lệ dân số. Bên cạnh đó, cũng cần phải nghiên cứu mô hình sức khỏe và cơ cấu bệnh tật hiện nay để tập trung đổi mới nội dung chương trình đào tạo phù hợp. Từ yêu cầu thực tế cần bổ sung hoàn chỉnh nhiệm vụ của từng chuyên ngành; tiến hành đào tạo năng lực cần có của CBYT (bác sĩ, dược sĩ, điều dưỡng viên, kỹ thuật viên...) giúp họ sau khi ra trường hoàn thành có chất lượng và hiệu quả công việc được giao. Muốn vậy phải xây dựng những nhóm kỹ năng cốt lõi và những kiến thức thái độ "kỹ năng mềm", tránh tình trạng chỉ quan tâm tới đầu vào, tư duy ban phát kiến thức một chiều, kiến thức hàn lâm, chung chung, mà ít quan tâm kỹ năng thực hành, tới năng lực đầu ra. Chưa lắng nghe và tham khảo ý kiến của các cơ sở sử dụng nguồn nhân lực và các hội nghề nghiệp về chất lượng tay nghề, thái độ phục vụ và đạo đức nghề nghiệp của sản phẩm do trường đào tạo, cùng nhau hợp tác xây dựng, đánh giá chương trình, nhằm điều chỉnh chương trình đào tạo hợp lý theo nhu cầu xã hội. Hiện nay, chúng ta mới chỉ chú trọng tới đào tạo "phần cứng" kỹ năng nghề nghiệp mà còn xem nhẹ những "kỹ năng mềm", nhất là chưa coi trọng giáo dục y đức cho học sinh, sinh viên, chưa quan tâm đào tạo những kỹ năng sống, tư duy phản biện, học tập, nghiên cứu, giao tiếp ứng xử, v.v.
Năng lực là sự kết hợp giữa khả năng của CBYT với nhiệm vụ, nhưng phải phù hợp với văn hóa, đặc điểm, hoàn cảnh cụ thể xã hội yêu cầu. Trong quá trình xây dựng chương trình đào tạo dựa trên năng lực, cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, nhà quản lý và người sử dụng nguồn nhân lực và các hội nghề nghiệp. Trên cơ sở các tiêu chuẩn năng lực, các cơ sở đào tạo cần xây dựng chương trình, nội dung theo năng lực, thực hành dựa vào bằng chứng để nâng cao chất lượng đào tạo và cung ứng dịch vụ y tế bảo đảm hiệu quả, đúng luật và an toàn; áp dụng chương trình đào tạo của các nước tiên tiến nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng của các cơ sở y tế và hội nhập y tế quốc tế. Các bệnh viện, cơ sở y tế công lập và tư nhân phải xem việc đào tạo và kết hợp với nhà trường trong công tác đào tạo thực tập lâm sàng cho học sinh, sinh viên, vừa là nhiệm vụ, vừa là trách nhiệm, coi đây là giải pháp đầu tư để phát triển; đẩy mạnh hoạt động xã hội hóa theo hướng liên kết giữa nhà quản lý, cơ sở sử dụng nhân lực, cơ sở đào tạo và các hội nghề nghiệp y tế nhằm bảo đảm đào tạo nguồn nhân lực theo đúng nhu cầu xã hội, nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo, tránh tình trạng vừa thừa, vừa thiếu và lãng phí trong đào tạo và sử dụng. Tăng cường sự phối hợp với hội nghề nghiệp, chú ý lắng nghe những ý kiến tư vấn, phản biện quá trình đào tạo, nghiên cứu khoa học, đánh giá và kiểm định chất lượng đào tạo. Cơ sở đào tạo, cơ sở y tế và hội nghề nghiệp không chỉ phối kết hợp trong việc tổ chức sinh hoạt khoa học, cập nhật kiến thức và các kỹ thuật tiên tiến mà cần kết hợp trong nghiên cứu khoa học, đào tạo liên tục, đào tạo cập nhật theo chuyên đề cho CBYT sau khi tốt nghiệp, phù hợp với sự phát triển của khoa học và yêu cầu thực tiễn đặt ra.
Ở Việt Nam, khi chưa tiến hành kỳ thi quốc gia để cấp chứng chỉ hành nghề y dược, các cơ sở sử dụng nhân lực cần đổi mới cơ chế tuyển dụng. Nên chăng, xây dựng và sử dụng tiêu chuẩn năng lực trong việc tuyển chọn, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ, chứ không chỉ đơn thuần dựa vào bằng cấp. Cần tăng cường thanh tra, kiểm tra việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực y tế đã được đào tạo, xem việc đào tạo và sử dụng, đãi ngộ có đúng chuyên ngành không? Bên cạnh đó, cần mở rộng hợp tác giữa cơ sở đào tạo, hội nghề nghiệp các tổ chức trong và ngoài nước để chia sẻ kinh nghiệm, học tập, hợp tác lẫn nhau trong đào tạo, nghiên cứu khoa học và thực hành nhằm cung cấp nguồn nhân lực y tế chất lượng cao, phát triển theo kịp sự tiến bộ của khoa học công nghệ trong lĩnh vực y tế, đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho nhân dân.
Sẽ thiếu nguồn lực về chương trình phòng, chống HIV/AIDS
Theo số liệu của Bộ Tài chính, tổng kinh phí đầu tư cho công tác phòng, chống HIV/AIDS tăng liên tục trong những năm qua. Năm 2006 là hơn 424 tỷ đồng, trong đó từ nguồn viện trợ quốc tế là gần 330 tỷ đồng. Ðến năm 2010, tổng kinh phí đã lên đến 694 tỷ đồng, trong đó 534 tỷ đồng là nguồn viện trợ quốc tế. Qua số liệu trên cho thấy, ngân sách Nhà nước chi cho công tác phòng, chống HIV/AIDS tăng dần qua các năm, một số địa phương cũng đã có sự quan tâm đầu tư vốn đối ứng cho công tác phòng, chống HIV/AIDS.
Tuy nhiên, qua báo cáo của các địa phương, phần lớn kinh phí các địa phương đầu tư cho chương trình phòng, chống HIV/AIDS là không đáng kể. Trong khi đó, nhu cầu kinh phí cần thiết cho phòng, chống HIV/AIDS giai đoạn 2006 - 2010 vẫn thiếu hụt. Nếu như năm 2006 nhu cầu là 706 tỷ đồng, đáp ứng của ngân sách 424 tỷ đồng. Ðến năm 2010, nhu cầu là 1.219 tỷ đồng, đáp ứng của ngân sách là 694 tỷ đồng, so sánh nhu cầu và đáp ứng ngân sách là 56,93%.
Theo TS Nguyễn Thanh Long, Cục trưởng Phòng, chống HIV/AIDS (Bộ Y tế) cho biết, việc đầu tư kinh phí cho công tác phòng, chống HIV/AIDS giai đoạn 2006 - 2010 được hình thành từ các nguồn như ngân sách trung ương, ngân sách địa phương, nguồn viện trợ từ các tổ chức quốc tế và nguồn đóng góp của các cá nhân và tổ chức xã hội. Với tính chất của hoạt động phòng, chống HIV/AIDS là hoạt động cấp bách, có tính chất liên ngành trong toàn quốc, cho nên trong thời gian qua, Thủ tướng Chính phủ quyết định phê duyệt Dự án phòng, chống HIV/AIDS hoạt động theo cơ chế chương trình mục tiêu quốc gia. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, gần 70% kinh phí dành cho chương trình phòng, chống HIV/AIDS hiện nay do các tổ chức quốc tế tài trợ. Ðiều đó cũng sẽ là một thách thức lớn cho chương trình phòng, chống HIV/AIDS quốc gia trong bối cảnh nguồn hỗ trợ này đang có xu hướng giảm, nhất là khi nước ta đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình.
Còn theo báo cáo phân tích tài khoản y tế quốc gia và tính bền vững của chương trình HIV/AIDS (NHA/HAPSAT) tại Việt Nam, ước tính nguồn lực tài chính 2011- 2015 theo bối cảnh chính sách trung bình khoảng hơn 220 triệu USD. Nếu tính đến năm 2015, Việt Nam sẽ thiếu hụt gần 150 triệu USD cho chương trình phòng, chống HIV/AIDS. Chương trình phòng, chống HIV/AIDS thời gian tới sẽ đương đầu với nhiều thách thức, trong đó có những thách thức làm thế nào để duy trì tính bền vững của chương trình, duy trì những thành quả mà chúng ta đạt được; tiếp tục mở rộng các dịch vụ về dự phòng và điều trị trong bối cảnh nguồn lực hạn chế.
Ðể bảo đảm đầu tư cho chương trình phòng, chống HIV/AIDS một cách toàn diện Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 2331/QÐ-TTg phê duyệt Chương trình phòng, chống HIV/AIDS thành Chương trình mục tiêu quốc gia độc lập. Do vậy, việc tiếp tục duy trì chương trình phòng, chống HIV/AIDS thành chương trình mục tiêu quốc gia độc lập cho toàn bộ giai đoạn 2011 - 2015 cũng như việc tăng đầu tư ngân sách trong nước trong giai đoạn tới là một nhu cầu cấp thiết và rất cần được ưu tiên.
Cơ bản đạt các mục tiêu chính trong Chiến lược chăm sóc sức khỏe sinh sản
Nghiên cứu rà soát thực hiện Chiến lược quốc gia về chăm sóc sức khỏe sinh sản (CSSKSS) giai đoạn 2001-2010 được Bộ Y tế thực hiện cho thấy các mục tiêu chính của chiến lược cơ bản đều đạt được. Xu thế giảm sinh tiếp tục được duy trì và đã đạt được mức sinh thay thế; tình trạng SKSS cũng như sức khỏe trẻ em được cải thiện rõ rệt ở hầu hết các vùng, miền.
Xu thế giảm sinh tiếp tục được duy trì và đã đạt được mức sinh thay thế. Tỷ suất sinh đã giảm đồng đều, nhất là trong vòng năm năm gần đây, từ 2,25 (năm 2001) xuống 2,08 (năm 2008). Nhờ duy trì được xu thế giảm sinh, Việt Nam đã đạt được mức sinh thay thế trên phạm vi cả nước, đạt mục tiêu của Chiến lược Dân số Việt Nam 2001-2010. Tính đến 1/4/2009, tổng số dân Việt Nam là 85.789.573 người. Sau mười năm dân số tăng thêm 9,47 triệu người, thấp hơn dự kiến của Chiến lược Dân số Việt Nam. Về cơ bản, Việt Nam đã đạt được mục tiêu ổn định dân số sau hàng chục năm kiên trì và đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình. Tuy nhiên còn có sự khác biệt lớn về mức sinh ở các vùng, mức sinh còn cao ở một số tỉnh nghèo.
Theo niên giám thống kê y tế, kết quả tử vong mẹ năm 2007 là 75/100 nghìn. Nhưng theo điều tra của Viện Chiến lược và Chính sách y tế thực hiện năm 2008-2009 về tử vong mẹ, dự kiến chỉ số này sẽ không cao theo nhận định của các nhà hoạch định chính sách. Do vậy so với mục tiêu là tử vong mẹ sẽ giảm xuống còn 70/100 nghìn thì có khả năng sẽ đạt được. Tuy nhiên, hiện nay tử vong mẹ có sự chênh lệch lớn giữa các vùng, trong đó các khu vực miền núi, vùng xa có tỷ lệ cao hơn nhiều so với đồng bằng. Tử vong mẹ ở các tỉnh miền núi như Cao Bằng cao gấp gần mười lần so với những tỉnh ở đồng bằng sông Hồng.
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy tình trạng sức khỏe trẻ em được cải thiện rõ rệt. Các chỉ số liên quan đến tình trạng sức khỏe trẻ em đều được nâng cao. Tử vong trẻ em dưới một tuổi đã giảm mạnh từ những năm 1990 đến nay. Năm 2008, tỷ lệ tử vong trẻ em dưới một tuổi đã giảm còn có 15 phần nghìn, thấp hơn chỉ tiêu đề ra (16 phần nghìn). Phân tích chi tiết số liệu niên giám thống kê y tế theo từng vùng cho biết đã có năm trong số tám vùng sinh thái và 30/63 tỉnh đạt được mục tiêu hạ tỷ lệ tử vong dưới một tuổi vào năm 2008, sớm hơn hạn định. Bên cạnh đó vẫn còn những tỉnh, tỷ suất tử vong dưới một tuổi còn cao và khá xa mục tiêu cần đạt, thí dụ như: Vùng Ðông Bắc Bộ (Hà Giang, Cao Bằng) 40 phần nghìn; vùng Tây Bắc (Lai Châu và Ðiện Biên) 33 phần nghìn; Tây Nguyên (Kon Tum) 48 phần nghìn. Tuy số liệu về tử vong chu sinh hiện nay chưa có khả năng thu thập được (do không có trong hệ thống báo cáo của Bộ Y tế), nhưng theo báo cáo của Bộ Y tế năm 2009 thì tử vong sơ sinh chiếm phần lớn trong tổng số tử vong trẻ em, chiếm khoảng 52% số tử vong của trẻ em dưới năm tuổi và theo số liệu báo cáo ở các bệnh viện, tử vong sơ sinh (bao gồm cả tử vong chu sinh) chiếm tới hơn 70% số trẻ em dưới một tuổi. Như vậy có thể ước tính rằng tử vong chu sinh sẽ thấp hơn 16 phần nghìn. So với chỉ tiêu đặt ra về tử vong chu sinh là 18 phần nghìn, thì có thể chỉ tiêu tử vong chu sinh có thể đạt được mục tiêu.
Bên cạnh đó, các kết quả liên quan đến dinh dưỡng cho trẻ em cũng khá khả quan. Tỷ lệ trẻ dưới năm tuổi suy dinh dưỡng và trẻ sinh nhẹ cân dưới 2.500 gram thấp hơn nhiều so với chỉ tiêu đề ra (18,9% so với 20%; 3,4% so với 6% một cách tương ứng). Ðiều này cho thấy rằng tình trạng sức khỏe của trẻ em đã được cải thiện nhiều.
Hà Nội mới
Chủ động phòng, chống bệnh tay chân miệng trong trường học
Trao đổi với PV Hànôịmới ngày 23-9, ông Nguyễn Đắc Hùng - Trưởng phòng GD-ĐT quận Ba Đình - nơi có một trẻ mầm non vừa tử vong do bệnh tay chân miệng, cho biết: Ngay sau khi nhận được thông tin, Phòng GD-ĐT đã chỉ đạo các trường mầm non, tiểu học trên địa bàn chủ động liên hệ trực tiếp với Trung tâm y tế quận và nghiêm túc triển khai vệ sinh trường lớp và trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi … theo đúng hướng dẫn.
Hiện tại, trường mầm non nơi bệnh nhân theo học được tẩy rửa, khử trùng vào cuối buổi học hằng ngày, ngày hôm sau các bé vẫn có thể đến lớp bình thường. Riêng với toàn bộ trẻ tại lớp bệnh nhân học đang được nghỉ, trước mắt đến hết ngày 25-9. Việc đi học trở lại vào thời điểm nào sẽ thực hiện theo sự hướng dẫn của cơ quan y tế để bảo đảm an toàn sức khỏe cho trẻ.
Các trường khu vực lân cận trường mầm non này và trường tiểu học nơi anh bệnh nhân học cũng đã triển khai tổng vệ sinh. Việc rà soát sức khỏe của HS các trường mầm non, tiểu học trên địa bàn quận được chú trọng hơn. Đến chiều 23-9, các nhà trường chưa phát hiện trường hợp nào mắc bệnh tay chân miệng.
Chủ động, nghiêm túc thực hiện các biện pháp phòng, chống bệnh tay chân miệng nhằm hạn chế thấp nhất mức độ ảnh hưởng của bệnh đến sức khỏe của HS là chỉ đạo của lãnh đạo Sở GD-ĐT đối với các trường mầm non, tiểu học trên địa bàn TP. Các trường được yêu cầu tăng cường thiết bị y tế để kiểm tra sức khỏe cho mọi HS, đặc biệt là trẻ mầm non; quan tâm triển khai những biện pháp theo hướng dẫn của Bộ Y tế như: rửa tay cho trẻ nhiều lần trong ngày bằng xà phòng và nước sạch; không để trẻ mút tay hoặc đưa đồ chơi lên miệng; cho trẻ ăn chín, uống chín, không ăn chung thìa bát; thường xuyên vệ sinh đồ chơi, sàn nhà bằng xà phòng, Cloramin B 2% hoặc các chất sát khuẩn thông thường. Yêu cầu được nhấn mạnh với các cô giáo trực tiếp trông trẻ là thường xuyên theo dõi sức khỏe của trẻ, khi thấy có dấu hiệu sốt và xuất hiện nốt phỏng, báo ngay cho gia đình để đưa đi khám, điều trị kịp thời.
Lo ngại vi phạm an toàn vệ sinh thực phẩm
Kết quả thanh tra các cơ sở cung cấp suất ăn sẵn, bếp ăn tập thể của Sở Y tế TP Hồ Chí Minh cho thấy, có tới 81,6% cơ sở vi phạm về an toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP). Cùng với đó, hàng loạt vụ thực phẩm không rõ nguồn gốc, quá hạn sử dụng… đang tồn kho hoặc đã bán ra thị trường bị các cơ quan chức năng phát hiện, khiến người tiêu dùng (NTD) thực sự lo ngại về độ an toàn của những sản phẩm sử dụng hằng ngày.
Hầu hết có vi phạm
Phó Chánh Thanh tra Sở Y tế TP Hồ Chí Minh Phạm Kim Bình cho biết, 6 tháng đầu năm, kiểm tra 105 cơ sở thì có đến 85 cơ sở vi phạm (chiếm 81,6%). Các vi phạm biểu hiện từ khâu nguyên liệu cho đến tận bàn ăn… Đáng lo là không chỉ các cơ sở không được cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn ATVSTP vi phạm, mà cả các cơ sở đã được cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn cũng vi phạm (74 cơ sở vi phạm trên tổng số 94 cơ sở được kiểm tra).
Chất lượng nguyên liệu là đáng lo ngại nhất, hàng loạt vụ thực phẩm bị phát hiện quá hạn sử dụng, không đạt vệ sinh, hư hỏng, mốc... Giữa tháng 9-2011, Đoàn kiểm tra liên ngành ATVSTP kiểm tra tại quận Tân Phú phát hiện kho hàng đông lạnh của một doanh nghiệp trong khu công nghiệp Tân Bình chứa gần 15 tấn thịt động vật không rõ nguồn gốc xuất xứ cũng như hạn sử dụng. Không những thế, toàn bộ số thịt này đã biến chất, chuyển màu đen, may mà chưa được tiêu thụ. Thanh tra Sở Y tế cũng cho biết, trong 6 tháng đầu năm, cơ quan chức năng đã tịch thu, tiêu hủy gần 600kg trứng gia cầm, thịt lợn, bò, dê, mì, bún… không bảo đảm chất lượng. Việc hàng loạt vụ sử dụng dầu thực vật phế thải tái chế để chế biến thực phẩm đã bị Cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường (cơ quan đại diện phía Nam - C49B) phát hiện và xử lý, hàng loạt vụ sản xuất thực phẩm gần nhà vệ sinh, sử dụng phụ gia độc hại, rau, củ, quả nhiễm thuốc bảo vệ thực vật, thủy sản nhiễm kháng sinh, hóa chất diệt nấm mốc… càng khiến người tiêu dùng thêm lo lắng.
Chính vì chất lượng thực phẩm không bảo đảm nên các vụ ngộ độc tập thể đã liên tục xảy ra. Ông Huỳnh Lê Thái Hòa, Chi cục trưởng Chi cục ATVSTP cho biết, từ đầu năm đến nay đã có 5 vụ ngộ độc thực phẩm tập thể xảy ra trên địa bàn TP, trong đó có 3 vụ ngộ độc lớn (hơn 30 người).
Nhiều lỗ hổng trong quản lý
TP Hồ Chí Minh hiện có gần 50 nghìn cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm. Trong khi đó, theo ông Huỳnh Lê Thái Hòa, công tác kiểm tra giám sát chất lượng ATVSTP còn tồn tại nhiều lỗ hổng quá lớn, đặc biệt là ở cấp cơ sở. Có thể dễ dàng nhận thấy điều này qua số liệu thanh, kiểm tra. Năm 2010, Đoàn thanh tra Sở Y tế kiểm tra, phát hiện có đến 81% cơ sở cung cấp thức ăn sẵn, bếp ăn tập thể vi phạm, trong khi thanh tra quận, huyện chỉ phát hiện được 13,7%. Tương tự, 6 tháng đầu năm nay, Thanh tra Sở phát hiện 81% cơ sở vi phạm thì thanh tra quận, huyện chỉ phát hiện 38,8% (!?). Bên cạnh đó, việc thanh, kiểm tra theo đợt thường có thông báo trước khiến các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm càng dễ đối phó.
Theo Giáo sư Chu Phạm Ngọc Sơn - Phó Chủ tịch Liên hiệp Các hội khoa học và kỹ thuật TP, Chủ tịch Hội Hóa học TP, Giám đốc Trung tâm Dịch vụ phân tích thí nghiệm TP Hồ Chí Minh - một trong những mối lo ngại hiện nay chính là nguồn thực phẩm hầu hết phải nhập từ các chợ đầu mối, do hoạt động sản xuất của TP chỉ đáp ứng được 20% nhu cầu tiêu thụ. Đáng lo là hoạt động kiểm soát ATVSTP từ cửa ngõ TP chưa được chặt chẽ, nhất là đối với rau, củ, quả và thịt động vật. Trong khi đó, công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này hiện vẫn chồng chéo, khó quy trách nhiệm cụ thể. Việc kiểm tra chất lượng hàng hóa gặp nhiều hạn chế do thiếu phòng thí nghiệm có năng lực, trong khi việc xã hội hóa công tác phân tích, kiểm nghiệm cho các đơn vị ngoài chức năng (trường, viện nghiên cứu…) mới ở giai đoạn đầu...
Có thể thấy, muốn giải quyết "bài toán" ATVSTP phải có những biện pháp đồng bộ và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng, đặc biệt là NTD phải biết tự bảo vệ bằng cách cẩn trọng lựa chọn thực phẩm sử dụng hằng ngày.
Nguy cơ cạn kiệt nguồn dược liệu quý
Nguồn tài nguyên dược liệu phong phú cùng với vốn kinh nghiệm của cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã tạo thuận lợi cho việc nghiên cứu, chiết xuất các loại hoạt chất, tạo ra hàng nghìn loại thuốc mới. Tuy nhiên, điều đáng lo là nhiều loại dược liệu quý đang dần cạn kiệt.
Mỏ vàng dược liệu
Theo thống kê của Viện Dược liệu, hiện Việt Nam đã ghi nhận 3.948 loài thực vật và nấm lớn, 52 loài tảo biển, 408 loài động vật và 75 loại khoáng vật có công dụng làm thuốc. Kết quả này cho thấy nguồn dược liệu ở nước ta rất phong phú. Trong thực tế, con số nêu trên có thể còn tăng thêm nếu điều tra cụ thể hơn đối với một số nhóm động - thực vật tiềm năng.
Theo Bộ Y tế, từ nguồn tài nguyên dược liệu phong phú, nhiều loài cây thuốc đã được sử dụng để chiết tách các hoạt chất làm thuốc như Rutin từ hoa hòe, Berberin từ vàng đắng, Vinblanstin và Vincristin từ dừa cạn, Artemisinin từ thanh hao hoa vàng, Methol và tinh dầu từ bạc hà, Beta caroten từ gấc; Đ-strophantin từ hạt quả sừng dê, Shikimic acid từ hồi… Để đáp ứng nhu cầu chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân, các viện nghiên cứu, công ty dược trong cả nước đã đầu tư nghiên cứu, sản xuất nhiều loại thực phẩm chức năng và thuốc từ dược liệu. Đơn cử như công trình nghiên cứu thuốc Eupolin chữa bỏng từ cây cỏ lào của Viện Bỏng quốc gia Lê Hữu Trác; điều chế thuốc tiêm Rotundin sulfat từ củ bình vôi của Học viện Quân y; sản xuất viên nang điều trị phì đại lành tính tuyến tiền liệt từ trinh nữ hoàng cung của Công ty Dược liệu trung ương II; sản xuất Embin làm thuốc tẩy sán từ loài chua ngút và Ampelop từ chè dây điều trị viêm loét dạ dày - hành tá tràng của Công ty cổ phần Traphaco; sản xuất thuốc tiêm Artesunat làm thuốc sốt rét của Trường Đại học Dược Hà Nội; sản xuất viên nang Uphamorin từ rễ và thân cây nhàu làm thuốc tăng cường hệ miễn dịch của Trường Đại học Y Hà Nội. Ngoài ra là công trình nghiên cứu, sản xuất thuốc nhỏ mũi Agerhinin từ cây ngũ sắc; nghiên cứu thuốc chữa u xơ tuyến tiền liệt từ náng hoa trắng, thuốc hỗ trợ điều trị ung thư từ nấm cổ linh chi; thuốc điều trị thương hàn và lị trực khuẩn Geravina từ lão quan thảo; Abivina từ bồ bồ của Viện Dược liệu…
Trong thời gian qua, đã có hơn 3.000 loại thuốc có nguồn gốc từ dược liệu đã được cấp số đăng ký, chiếm gần 1/3 số thuốc trong nước được cấp số đăng ký. Trong số trên 300 đơn vị sản xuất thuốc đông dược, có nhiều đơn vị phát triển tốt cả về số lượng mặt hàng cũng như chất lượng sản phẩm. Nhiều mặt hàng thuốc đông dược của các cơ sở sản xuất này đã được xuất khẩu, được thị trường nước ngoài chấp nhận.
Cần sự liên kết "4 nhà"
Do nhu cầu sử dụng các loài dược liệu làm thuốc ngày càng tăng, việc khai thác liên tục trong nhiều năm mà không chú ý đầy đủ tới sự tái sinh, cộng thêm nạn phá rừng đã làm cho nguồn tài nguyên dược liệu Việt Nam bị giảm sút nghiêm trọng, nhiều loài đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng.
Theo Viện Dược liệu, diện tích đất trồng dược liệu trong cộng đồng hiện đã bị thu hẹp đáng kể, thậm chí một số vùng trồng cây thuốc truyền thống đã không còn nữa. Nhiều cây thuốc Nam như hương nhu tía, đậu ván trắng, ý dĩ, ngải máu, tam thất gừng… đang có xu hướng bị lãng quên. Nhiều giống, loài cây thuốc nước ngoài đã từng được đưa vào sản xuất đại trà ở nước ta, nay trở lại tình trạng phụ thuộc vào nhập khẩu. Điển hình như cây vàng đắng, trong giai đoạn 1980 - 1990 có mức khai thác trung bình từ 1.000 đến 2.500 tấn/năm nhưng đến năm 1991-1995 chỉ còn 200 tấn/năm và từ 1995 đến nay, cơ bản ở Việt Nam không còn vàng đắng để khai thác. Một số cây có nhu cầu sử dụng và giá trị kinh tế cao như ba kích, đảng sâm, các loài hoàng tinh thuộc chi Disporopsis và Polygonatum, bình vôi (Stephania spp.)… vốn khá phổ biến ở các tỉnh miền núi phía Bắc, nhưng nay đã bị suy giảm nghiêm trọng, được đưa vào Sách Đỏ Việt Nam.
Nhà nước đang triển khai nhiều chính sách bảo tồn và phát triển nguồn dược liệu. Hiện ở Việt Nam đã hình thành được một số vùng trồng dược liệu quý như sâm Ngọc Linh, trinh nữ hoàng cung, hồi… Tuy vậy, ông Trần Bình Duyên, Công ty CP Dược trung ương Mediplantex cho rằng, để bảo tồn nguồn dược liệu, đồng thời phát triển được các sản phẩm từ dược liệu thì cần giải pháp với sự liên kết "4 nhà": Nhà nước, doanh nghiệp, nhà nông và nhà khoa học. Nếu không phân định rõ trách nhiệm, quyền lợi, quyền hạn và cơ chế quản lý liên quan đến "4 nhà" một cách cụ thể thì dược liệu vẫn chỉ dừng lại ở giới hạn tự phát, phân tán, cạnh tranh vô tổ chức, khai thác kiệt quệ từng loài một như đang diễn ra và hậu quả là hằng năm chúng ta vẫn phải nhập hàng chục ngàn tấn dược liệu cho nhu cầu trong nước.
Sức khỏe & Đời sống
Ngành Y tế các tỉnh ven biển chủ động đối phó với thời tiết xấu
Trước diễn biến bất thường của thời tiết, ngày 23/9, Bộ Y tế đã gửi công điện yêu cầu Sở Y tế các tỉnh, thành phố ven biển từ Quảng Bình tới Cà Mau yêu cầu khẩn trương triển khai công tác phòng chống mưa lũ. Trước đó, ngày 22/9, Bộ Y tế cũng có công điện gửi Sở Y tế các tỉnh ven biển từ Quảng Ninh tới Kiên Giang và các đơn vị trực thuộc Bộ Y tế chủ động ứng phó với thời tiết xấu trên biển có khả năng mạnh lên thành áp thấp gần bờ và mưa to trên đất liền. Theo đó, các đơn vị y tế trên cần phát huy phương châm 4 tại chỗ, hạn chế thấp nhất thiệt hại do thời tiết xấu gây ra; rà soát nguồn lực, nhân lực phòng chống thảm họa thiên tai, sẵn sàng triển khai các phương án bảo vệ, hỗ trợ hoặc di dời cơ sở y tế để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho bệnh nhân, cán bộ y tế, trang thiết bị y tế tại các vùng có nguy cơ bị ảnh hưởng do thời tiết xấu gây ra. Riêng Sở Y tế các tỉnh từ Thanh Hóa đến Bình Thuận trực ban, trực cấp cứu 24/24 giờ, sẵn sàng cấp cứu miễn phí cho nạn nhân do ảnh hưởng của gió mạnh, mưa lũ gây ra…
Bệnh tay – chân – miệng diễn biến phức tạp
Đúng như dự báo của các cơ quan chức năng, kể từ sau ngày khai giảng năm học mới, tình hình bệnh tay - chân - miệng (TCM) vẫn diễn biến hết sức phức tạp. Theo báo cáo của Bộ Y tế gửi Chính phủ, tính từ đầu năm đến ngày 15/9/2011, cả nước đã ghi nhận 52.321 trường hợp mắc bệnh TCM tại 61 địa phương trong đó đã có 109 trường hợp tử vong tại 22 tỉnh, thành phố.
Thừa Thiên Huế: Chỉ có 20 -30 % người dân hiểu biết về bệnh TCM
Ngày 20/9, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã họp với Sở Y tế cùng các ban ngành liên quan của tỉnh bàn biện pháp phòng chống bệnh TCM. Ông Ngô Hòa, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh đã chỉ đạo cuộc họp. Theo Sở Y tế Thừa Thiên Huế, từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh có 109 ca mắc bệnh TCM, trong đó thành phố Huế nhiều nhất (41 ca), Phong Điền 21 ca. Ngay từ đầu năm, Sở Y tế kết hợp với các ngành liên quan thực hiện tốt kế hoạch phòng chống bệnh. Sở đã hướng dẫn các cơ sở y tế thu dung, điều trị bệnh nhân, hạn chế lây lan rộng. Tuy nhiên, qua kiểm tra trong cộng đồng, chỉ có 20 - 30% người dân hiểu biết về bệnh này. Tại cuộc họp, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế yêu cầu tăng cường phối hợp giữa các cơ sở y tế địa phương và Trung ương điều trị bệnh nhân. Sở Tài chính, Sở Kế hoạch Đầu tư có phương án hỗ trợ kinh phí để thực hiện tốt công tác phòng chống dịch bệnh.
Quảng Ngãi: Dành 1 tháng tổng vệ sinh môi trường phòng, chống bệnh TCM
Ông Lê Quang Thích - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi vừa ký Quyết định số 1384 ra quân tổng vệ sinh môi trường phòng, chống bệnh TCM trên phạm vi toàn tỉnh. Thời gian tiến hành chiến dịch từ ngày 25/9 - 25/10/2011, vào các buổi sáng thứ 7 và chủ nhật hằng tuần. Bổ sung kinh phí cho chiến dịch này là 674 triệu đồng. Tiếp tục duy trì các hoạt động vệ sinh môi trường, vệ sinh cá nhân tại hộ gia đình, cộng đồng đến cuối năm.
Tuyên truyền để tất cả các thành viên trong gia đình thực hiện rửa tay bằng nước sạch với xà phòng trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh hoặc sau khi chăm sóc trẻ bị bệnh; thực hiện ăn chín, uống chín, sử dụng nguồn nước sạch; xử lý phân hợp vệ sinh, tiêu diệt ruồi, nhặng.
Với các trường mẫu giáo, mầm non, nhà trẻ, nhóm trẻ gia đình tổ chức vệ sinh môi trường ít nhất 2 lần/tuần. Những trường có trẻ mắc bệnh tiến hành khử khuẩn hằng ngày bề mặt và các vật dụng của trẻ, bàn ghế trong 2 tuần liên tiếp kể từ khi trẻ mắc bệnh cuối cùng. Các cơ sở y tế tiến hành khử khuẩn bề mặt giường bệnh, buồng bệnh bằng chloramin B 2%. Theo ghi nhận, từ khi Quảng Ngãi xuất hiện bệnh TCM vào tháng 4/2011 đến nay, số bệnh nhân mắc TCM là 5.602 trường hợp, có 5 ca tử vong.
Bạc Liêu: Bốn ngày, đóng cửa 3 trường học do bệnh TCM
Ngày 22/9/2011, BS. Lê Hoàng Phong, Giám đốc Trung tâm y tế thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu cho biết, đang tích cực xử lý ổ dịch, vệ sinh môi trường, dụng cụ học tập tại Trường mầm non Bạc Liêu do phát hiện có nhiều trẻ mắc bệnh TCM. Cùng ngày, UBND thành phố Bạc Liêu cũng quyết định cho học sinh toàn trường nghỉ học 2 ngày để ngành y tế xử lý môi trường, sát khuẩn trong khuôn viên trường học. Theo ngành y tế thành phố Bạc Liêu, trong vòng 1 tuần đã có 10 cháu tại 7 lớp của Trường mầm non Bạc Liêu mắc bệnh TCM, trong đó 3 lớp có 2 cháu mắc bệnh. Hiện trên địa bàn thành phố Bạc Liêu có 160 trẻ mắc bệnh TCM. Trước đó, ngày 19/9/2011, Trường mầm non thị trấn Phước Long (huyện Phước Long, Bạc Liêu) và ngày 21/9/2011, Trường tiểu học Châu Hưng (thị trấn Châu Hưng, huyện Vĩnh Lợi, Bạc Liêu) cũng đã đóng cửa do có học sinh mắc bệnh TCM. Trước diễn biến phức tạp của dịch bệnh, ngành y tế đã có nhiều biện pháp nhằm khống chế, kiểm soát. Tuy nhiên, tình hình vẫn chưa mấy khả quan khi số ca tử vong liên tục tăng. Theo số liệu thống kê mới nhất, tính đến ngày 2/9/2011, đã có 502 trường hợp trẻ mắc bệnh TCM, trong đó có 6 trẻ tử vong.
Tiếp tục chủ động phòng chống bệnh TCM
Trong báo cáo về tình hình bệnh TCM và các biện pháp phòng chống dịch đã triển khai của Bộ Y tế gửi Thủ tướng Chính phủ, nhằm hạn chế sự lây lan dịch bệnh, giảm thiểu ảnh hưởng của bệnh TCM đến sức khỏe nhân dân, đặc biệt là trẻ em, Bộ Y tế trân trọng đề nghị Thủ tướng Chính phủ tiếp tục chỉ đạo một số nội dung: Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố chủ động chỉ đạo, triển khai kế hoạch phòng chống bệnh TCM trong 4 tháng cuối năm 2011 đảm bảo việc thực hành vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường được thực hiện tại các hộ gia đình, các cơ sở giáo dục và ngay từ đầu năm 2012, dành kinh phí cho việc triển khai các hoạt động phòng chống dịch.
Bộ Giáo dục và Đào tạo tăng cường chỉ đạo các cơ sở giáo dục và đào tạo, đặc biệt là các trường mầm non, nhà trẻ mẫu giáo, nhóm trẻ gia đình tăng cường triển khai các biện pháp vệ sinh phòng chống bệnh TCM theo khuyến cáo của Bộ Y tế.
Bộ Thông tin - Truyền thông tăng cường tuyên truyền khuyến cáo của Bộ Y tế về các biện pháp phòng chống bệnh TCM trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Thuốc chống thải ghép sau phẫu thuật được thanh toán 100%
Ông Phạm Lương Sơn - Trưởng ban Thực hiện chính sách BHYT, BHXH Việt Nam cho biết, những loại thuốc chống thải ghép nằm trong danh mục thuốc chủ yếu sử dụng tại các cơ sở KCB được Quỹ BHYT thanh toán 100% và thanh toán 50% những thuốc ngoài danh mục nhưng được phép lưu hành. Với quy định này, bệnh nhân sử dụng thuốc chống thải ghép sau phẫu thuật ghép gan, thận, tim… sẽ được Quỹ BHYT chi trả toàn bộ thay vì 50% chi phí như trước đây. Trước đó, Bộ Y tế đã ban hành thông tư hướng dẫn thực hiện danh mục thuốc chủ yếu sử dụng tại các cơ sở KCB được Quỹ BHYT thanh toán gồm 900 loại thuốc tân dược và 57 thuốc phóng xạ, hợp chất đánh dấu. Bộ Y tế yêu cầu các cơ sở KCB bảo đảm cung ứng thuốc kịp thời, không để người bệnh tự mua, kể cả thuốc điều trị ung thư, thuốc chống thải ghép ngoài danh mục nhưng được Quỹ BHYT thanh toán.
Xây dựng kế hoạch thực hiện Quy tắc ứng xử tại 5 bệnh viện điểm
Sáng 23/9, tại Hà Nội, Bộ Y tế và Công đoàn Y tế Việt Nam đã tổ chức hội nghị xây dựng kế hoạch thực hiện Quy tắc ứng xử nâng cao y đức trong các BV điểm. Theo đó, 5 BV tuyến TW được lựa chọn thí điểm thực hiện theo kế hoạch này gồm: BV Việt Đức, BV Bạch Mai, BV E, BV Phụ sản TW và BV K sẽ ký cam kết với Bộ Y tế và Công đoàn Y tế Việt Nam, triển khai và giám sát việc thực hiện Quy tắc ứng xử nâng cao y đức trong mỗi khoa, phòng. Việc giám sát, kiểm tra, đánh giá tại mỗi BV sẽ được thực hiện làm 2 đợt ngay trong tháng 9-10/2011. Trong số các tiêu chí để đánh giá BV đạt BV văn minh có 5 tiêu chí đối với cán bộ nhân viên y tế là phải có lời chào thân thiện, chỉ dẫn tận tình, thăm khám chu đáo cho bệnh nhân, nói không với phong bì và tuyệt đối không trục lợi từ bệnh nhân và người nhà bệnh nhân...
Tháng 9, 121 trường hợp nhập viện, 3 ca tử vong vì ngộ độc thực phẩm
Bộ Y tế cho biết, trong tháng 9/2011, toàn quốc đã xảy ra 7 vụ ngộ độc thực phẩm tại 6 địa phương (Thừa Thiên Huế, Nghệ An, Thái Nguyên, Quảng Bình, Bình Dương, Hà Giang) làm 171 người mắc, 121 người đi viện và 3 người tử vong (do sử dụng bánh trôi ngô tại Hà Giang). Về căn nguyên của các vụ ngộ độc, Bộ Y tế cho biết, có 3/7 vụ do độc tố tự nhiên, 2/7 vụ do vi sinh vật, 1/7 vụ do hóa chất và 1 vụ chưa xác định được nguyên nhân. Như vậy, tính từ ngày 17/12/2010 – 17/9/2011, toàn quốc đã xảy ra 83 vụ ngộ độc thực phẩm với 4.039 người mắc, 3.321 người đi viện và có 12 trường hợp tử vong vì ngộ độc thực phẩm.
Để nâng cao hiệu quả thực hiện công tác ATVSTP trong cả nước, tăng cường sự phối hợp giữa các cấp, các ngành trong lĩnh vực này, Bộ Y tế đang xây dựng Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật ATTP; Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Tăng cường sự lãnh đạo đối với công tác ATTP trong tình hình mới"…
Sức khỏe & Đời sống, Tiền phong
Các cơ sở y tế tại TP.HCM: Phải hoàn thiện hệ thống xử lý nước thải
Ngày 23/9, tại buổi làm việc với các phòng khám đa khoa (PKĐK) tư nhân, các PK nha khoa để triển khai thực hiện công tác bảo vệ môi trường trong việc thực hiện xử lý nước thải (XLNT) y tế, BS. Phạm Việt Thanh, Giám đốc Sở Y tế TP. Hồ Chí Minh cho biết, hiện tại, 195 PKĐK tư nhân, các PK nha khoa trên địa bàn TP.HCM chưa có hệ thống xử lý nước thải. Tại 23 BV quận huyện, còn 17 BV chưa có hay có hệ thống XLNT nhưng không đạt... Đặc biệt, các TT YTDP quận huyện chưa nơi nào có hệ thống XLNT. Sở Y tế đã có văn bản gửi 13 BV TW và các BV bộ, ngành đóng trên địa bàn hướng dẫn việc thực hiện thu gom chất thải cũng như hoàn thiện hệ thống XLNT y tế và yêu cầu các sơ sở y tế trong toàn thành phố phải hoàn thiện hệ thống XLNT trước tháng 6/2012.
Tiền phong
Vụ trục lợi từ hóa chất chống dịch ở TP.HCM: Sở Y tế báo cáo sự việc cho lãnh đạo thành phố
Sau khi Tiền Phong có loạt bài phản ánh việc kinh doanh hóa chất khử khuẩn Surfanios từ dịch bệnh tay chân miệng, ngày 23-9, Sở Y tế TPHCM cho biết, vừa có công văn gửi Thường trực UBND.
Theo đó, Sở Y tế cho rằng, do tình hình dịch bệnh kéo dài và có nhiều ca tử vong, Sở đã cấp phát trên 70 tấn Cloramin B và hướng dẫn người dân sử dụng. Tuy nhiên, dung dịch này có mùi hôi khó chịu nên một số ít người dân không sử dụng.
Do đó, Sở Y tế chủ trương đa dạng hóa thuốc sát khuẩn và chọn dung dịch Surfanios để nhượng lại cho người dân. Trung tâm Y tế Dự phòng TPHCM đã ký hợp đồng cung cấp thuốc Surfanios với giá của công ty, không lợi nhuận.
Bộ Y tế điều tra nguyên nhân bệnh lạ ở Quảng Ngãi
Bộ Y tế vừa quyết định thành lập một tổ chuyên gia về huyện Ba Tơ - Quảng Ngãi để tìm hiểu dịch tễ một căn bệnh giống bệnh dày sừng lòng bàn tay bàn chân có rối loạn chức năng gan nhưng chưa rõ nguyên nhân (xem Tiền Phong ngày 15-9-2011, bài Bệnh lạ ở huyện miền núi Ba Tơ-Quảng Ngãi: Cầu cứu Bộ Y tế ).
PGS.TS Trần Hậu Khang, Giám đốc Bệnh viện Da liễu Trung ương (DLTƯ), bước đầu nhận định đây là căn bệnh mang tính dịch tễ, xuất hiện trong một khu vực nhất định, có gia đình có đến 2-3 người mắc. Qua điều trị miễn phí cho năm ca nặng nhất chuyển từ tỉnh Quảng Ngãi ra hồi tháng 5, các chuyên gia sơ bộ cho đây là căn bệnh dày sừng lòng bàn tay, bàn chân có rối loạn chức năng gan. Bệnh viện DLTƯ đã tổ chức hội chẩn với các chuyên gia của BV Bạch Mai, Viện Huyết học T.Ư, Bệnh viện các Bệnh Nhiệt đới T.Ư, và chuyên gia da liễu từ Nhật Bản, Canada, Mỹ. Họ cũng đồng tình với chẩn đoán trên.
Người mắc bệnh có da lòng bàn tay, bàn chân dày sừng, nổi sần rồi bong từng lớp, một số có lở loét ở miệng. Xét nghiệm cho thấy men gan tăng cao. Sau một tháng điều trị theo phác đồ mà Viện DLTƯ đưa ra, năm bệnh nhân nặng đã bình phục và xuất viện.
Đợt điều tra hiện trường lần này, các chuyên gia sẽ trực kiểm tra tình trạng sức khỏe của nhóm bệnh nhân nói trên cũng như hơn 40 bệnh nhân được điều trị khỏi tại địa phương. Đề cập trường hợp một bé gái 12 tuổi tử vong với triệu chứng tương tự, TS Khang cho hay, cần xác định xem bệnh nhi có đúng tử vong do bệnh này hay không.
Các xét nghiệm bước đầu tại Bệnh viện DLTƯ không tìm thấy dấu hiệu của hóa chất độc hại trong nước như thạch tín (arsenic). Cũng chưa tìm thấy các yếu tố liên quan môi trường, nhiễm trùng, nấm hay virus. Bộ Y tế vẫn quyết định thành lập đoàn chuyên gia, do Viện DLTƯ chủ trì, về địa phương vào đầu tháng 10 để tìm hiểu nguyên nhân gây bệnh.
Thanh niên
Cứu sống sản phụ bị bệnh hiếm gặp
Bác sĩ Phan Xuân Khôi, Trưởng khoa Phụ sản, Bệnh viện Hữu nghị Việt Nam -Cu Ba, Đồng Hới (Quảng Bình) cho biết hiện sức khỏe của bệnh nhân N.V.H (31 tuổi, ở P.Bắc Lý, TP. Đồng Hới) đã qua cơn nguy kịch, dần bình phục.
Trước đó, chị H. nhập viện cấp cứu trong tình trạng rất nặng; bệnh nhân có thai lần 3, bị nhau tiền đạo, nhau thai đâm xuyên tử cung ra ngoài, đâm xuyên đáy bàng quang, chảy máu nhiều. Sau khi hội chẩn, các bác sĩ đã tiến hành cắt tử cung, khâu cầm máu, truyền hết 10 đơn vị máu. Được biết, đây là trường hợp rất đặc biệt, nếu không xử lý kịp thời sẽ dẫn đến tử vong.