Sức khỏe & Đời sống
Chương trình chống lao Hà Nội với công tác quản lý bệnh lao kháng đa thuốc
Hiện nay, trên thế giới cũng như Việt Nam tình trạng lao kháng thuốc có xu hướng gia tăng, Việt Nam đứng thứ 14 trong 27 Quốc gia có gánh nặng lao đa kháng thuốc trên toàn cầu. Bệnh lao kháng đa thuốc là do vi khuẩn lao gây bệnh không bị tiêu diệt bởi các thuốc chống lao hàng 1 (hiện đang dùng) do đó phải dùng thuốc chống lao hàng 2 để điều trị. Đây là một thể lao đặc biệt nguy hiểm khác với bệnh lao thông thường nên việc điều trị sẽ khó khăn hơn. Nếu người mắc lao thông thường không được điều trị thì 50% trong số đó sẽ bị tử vong sau 5 năm. Với laokháng đa thuốc, sự nguy hiểm còn cao hơn nhiều. Sử dụng thuốc điều trị lao kháng đa thuốc để chữa bệnh cũng đồng nghĩa với việc thêm nhiều tác dụng phụ không mong muốn, thời gian điều trịkéo dài tối thiểu là 19 tháng. Về nguyên nhân gây ra laokháng đa thuốc có rất nhiều, nhưng các trường hợp lao kháng đa thuốc hiện đang điều trị tại bệnh viện Phổi Hà Nội nhiều bệnh nhân do không tuân thủ đúng theo nguyên tắc điều trị, dùng thuốc chống lao vài ba tháng, thấy khỏe hơn đã ngừng uống thuốc, trong khi điều trị bệnh lao buộc phải tiêm và uống thuốc đủ 8 tháng dưới sự giám sát của nhân viên y tế. Chương trình chống lao Thành phố Hà Nội dưới sự chỉ đạo của CTCLQG, Sở Y tế Hà Nội đã triển khai thực hiện chương trình điều trị và quản lý người bệnh lao kháng đa thuốc theo đúng quy chuẩn và là một trong 5 điểm điều trị trên toàn quốc, thu nhận điều trị tại thành phố Hà Nội và một số các tỉnh lân cận.
Tính đến tháng 12 năm 2012, sau hai năm triển khai, Bệnh viện Phổi Hà Nội đã thu nhận điều trị 86 bệnh nhân lao kháng đa thuốc được điều trị theo đúng phác đồ dưới sự giám sát chặt chẽ của nhân viên y tế và những người hỗ trợ. Việc điều trị người bệnh lao kháng đa thuốc đòi hỏi nhân viên y tế chuyên trách tại các tuyến và những người hỗ trợ phải theo dõi sát người bệnh, phát hiện kịp thời các tác dụng không mong muốn của thuốc để có hướng xử trí, hướng dẫn, tư vấn và hỗ trợ tâm lý cho người bệnh trong suốt quá trình điều trị, đồng thời người bệnh phải tuân thủ nghiêm túc các quy định theo hướng dẫn của nhân viên y tế để đảm bảo được tiêm và uống thuốc đầy đủ, đúng giờ, đúng liều, đều đặn và có những biện pháp phòng chống lây nhiễm thích hợp. Khi phỏng vấn người bệnh đang điều trị lao kháng đa thuốc tại bệnh viện, chúng tôi ghi lại những ý kiến của người bệnh như bệnh nhân P.X.T 49 tuổi địa chỉ tại quận Long Biên cho biết: Bệnh nhân đã bị bệnh lao nhiều năm nay, điều trị nhiều lần không khỏi sức khoẻ giảm sút, không làm được việc nặng - bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị lao kháng đa thuốc, tuy chưa hết liệu trình điều trị nhưng người bệnh thấy thuyên giảm rất nhiều, tăng cân, không ho, không sốt và kết quả xét nghiệm nhiều tháng nay đã âm tính và nói: “Tôi rất cảm ơn bệnh viện và CTCL đã điều trị cho tôi”. Còn bệnh nhân P.V.K 41 tuổi ở tại Đông Anh nói rằng: trước khi được điều trị kháng thuốc tôi tưởng không thể sống được do liên tục ho ra máu, cơ thể gày sút không đi lại được, nhưng hiện nay tình trạng sức khoẻ cũng đã được cải thiện rất nhiều, sinh hoạt và làm việc bình thường, bệnh nhân thấy rằng việc tuân thủ điều trị lao theo hướng dẫn của thày thuốc chuyên khoa đối với bệnh nhân là rất quan trọng và cần thiết, bên cạnh đó không được chủ quan khi có các dấu hiệu: Ho, khạc, đau ngực, ho ra máu….cần phải đến cơ sở chuyên khoa khám ngay. ThS. Phạm Hữu Thường - GĐ bệnh viện Phổi Hà Nội nhấn mạnh: “ Cần được phát hiện và điều trị sớm theo đúng hướng dẫn của CTCLQG bệnh lao có thể được chữa khỏi hoàn toàn, ít tái phát và phòng được vi khuẩn lao kháng thuốc”.
Hội nghị Triển khai Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về giảm quá tải bệnh viện: Từng bước giảm chắc, không để người bệnh phải nằm ghép
Sáng 22/3, tại Hà Nội, Bộ Y tế tổ chức Hội nghị Triển khai Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về giảm quá tải bệnh viện; khuyến khích đào tạo một số chuyên ngành; luân phiên cán bộ y tế có thời hạn... Phát biểu chỉ đạo hội nghị, Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến khẳng định, thời gian qua, ngành y tế đã tập trung đổi mới toàn diện công tác khám chữa bệnh; đầu tư nâng cấp, mở rộng cơ sở hạ tầng và trang thiết bị cho các cơ sở khám chữa bệnh. Bộ Y tế cũng đã được Chính phủ phê duyệt nhiều đề án giúp giảm quá tải các bệnh viện tuyến Trung ương.
Tăng giường bệnh
Theo báo cáo của Cục Quản lý Khám chữa bệnh - Bộ Y tế, năm 2012, cả nước đã tăng được 11.599 giường bệnh theo kế hoạch và 12.711 giường bệnh thực kê. Theo số giường bệnh thực kê, bình quân đạt 24,7 giường bệnh/vạn dân; số lượt khám chữa bệnh tăng 6,8% (so với năm 2011) với tổng số 132 triệu lượt người bệnh khám tại các bệnh viện; nhu cầu điều trị nội trú tăng 6%; nhu cầu điều trị ngoại trú cũng khá cao ở cả ba tuyến điều trị, trong đó bệnh viện tuyến Trung ương tăng 18%. Như vậy, công suất sử dụng giường bệnh trên cả hệ thống khám chữa bệnh có giảm nhẹ; mức độ giảm đều của các tuyến bệnh viện dao động từ 1 - 2%; trong đó bệnh viện tuyến Trung ương vẫn có công suất sử dụng giường bệnh lớn nhất là 112,5%. Thấy rõ được những ảnh hưởng nghiêm trọng của tình trạng quá tải bệnh viện tới người bệnh, gia đình người bệnh, cán bộ nhân viên y tế, cơ sở cung cấp dịch vụ y tế, những năm qua ngành y tế đã chú trọng tập trung chỉ đạo hạn chế tình trạng quá tải. Từ việc xây dựng và chỉ đạo thực hiện các chiến lược, chính sách phát triển dài hạn (quy hoạch, xây dựng mạng lưới cơ sở khám chữa bệnh các tuyến) đến thực hiện các biện pháp cụ thể nhằm chấn chỉnh và nâng cao chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh. Các bệnh viện thực hiện giảm diện tích khu hành chính, tăng diện tích khu điều trị để kê thêm giường bệnh; mở rộng loại hình điều trị ngoại trú và triển khai một số mô hình dịch vụ mới trong khám, chữa bệnh; cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh nhân khi đến khám, chữa bệnh, tăng số phòng khám, tăng ca, tăng giờ làm việc. Hiện nay, các bệnh viện tăng giờ khám bệnh từ 6 giờ thay vì 7 giờ 30 phút và khám thông tầm tới 19 giờ hoặc khám đến khi hết người bệnh; khám bệnh cả những ngày nghỉ, thứ bảy, chủ nhật, như BV Bạch Mai, BV Ung bướu TP. Hồ Chí Minh, BV Chợ Rẫy... Nhiều nơi giải quyết cho người bệnh ra viện trong cả những ngày nghỉ cuối tuần (thứ bảy, chủ nhật) thay vì trước đây chỉ cho ra viện vào giờ hành chính; mở dịch vụ tư vấn và đặt lịch hẹn khám bệnh, tái khám qua điện thoại; ứng dụng công nghệ thông tin để quản lý bệnh nhân khám bệnh ngoại trú; thiết lập hệ thống tự động hẹn trả kết quả xét nghiệm cụ thể theo từng mốc thời gian trong ngày. Một giải pháp quan trọng đang được triển khai là xây dựng và phát triển hệ thống bệnh viện vệ tinh có đủ điều kiện trang thiết bị, kỹ thuật và chuyên môn để chuyển người bệnh từ các cơ sở có quá tải cao tới để tiếp tục theo dõi, điều trị; hợp tác chuyên môn với các cơ sở điều trị có điều kiện về giường bệnh, buồng bệnh để chuyển những trường hợp có bệnh lý phù hợp, sau khi đã ổn định nhưng cần theo dõi thêm tại bệnh viện; hoặc hợp tác về cận lâm sàng; chọn lọc người bệnh đưa vào điều trị nội trú, mở rộng các hình thức điều trị ngoại trú; phát triển mô hình bác sĩ gia đình...
Nâng cao y đức
Theo PGS.TS. Lương Ngọc Khuê, Cục trưởng Cục Quản lý Khám chữa bệnh - Bộ Y tế, tình trạng quá tải tại các bệnh viện đã được cải thiện đáng kể, giảm khoảng 10% so với cùng kỳ năm trước. Cán bộ ngành y tế đã có những cố gắng vượt bậc để thực hiện thành công các nhiệm vụ được giao, triển khai được nhiều kỹ thuật cao, nhiều tấm gương cá nhân, tập thể đã có nhiều cố gắng cứu chữa được nhiều ca bệnh hiểm nghèo. Tuy vậy, công tác khám chữa bệnh vẫn còn gặp nhiều thách thức như tình trạng quá tải bệnh viện vẫn là vấn đề nổi cộm trong khi nhu cầu khám chữa bệnh của người dân tiếp tục có xu hướng gia tăng; chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh vẫn còn nhiều vấn đề cần chấn chỉnh (thái độ phục vụ, ứng xử của một bộ phận cán bộ, nhân viên y tế; thời gian, thủ tục khám chữa bệnh bảo hiểm y tế còn nhiều phiền hà...); năng lực chuyên môn tuyến dưới ở một số chuyên khoa còn hạn chế. Năm 2013, với sự đồng lòng nhất trí trong toàn ngành, cùng sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, ngành y tế sẽ triển khai có hiệu quả Đề án giảm quá tải bệnh viện, nâng cao chất lượng dịch vụ bệnh viện của các tuyến, trong đó đặc biệt hạn chế tình trạng lạm dụng thuốc, xét nghiệm lâm sàng, dịch vụ kỹ thuật cao gây tốn kém không cần thiết cho người bệnh; khuyến khích xã hội hóa công tác khám chữa bệnh; đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị cho các cơ sở khám chữa bệnh; phát triển, đa dạng hóa các loại hình khám chữa bệnh. Đồng thời, nâng cao y đức, tinh thần thái độ chăm sóc người bệnh; tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về khám bệnh, chữa bệnh...
Đại hội XII Công đoàn Y tế Việt Nam nhiệm kỳ 2013- 2018:Ðổi mới, sáng tạo vì sự phát triển bền vững của ngành y tế
Trong 2 ngày 20 và 21/3/2013, tại Hà Nội, Công đoàn Y tế Việt Nam đã tổ chức Đại hội XII Công đoàn Y tế Việt Nam nhiệm kỳ 2013 - 2018. Tới dự đại hội có PGS.TS. Nguyễn Thị Kim Tiến, Ủy viên BCHTW Đảng, Bộ trưởng Bộ Y tế; đồng chí Đặng Ngọc Tùng, Ủy viên BCHTW Đảng, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, các đồng chí lãnh đạo Bộ Y tế; đại biểu lãnh đạo các tổ chức công đoàn cơ sở trong ngành y tế... Trong nhiệm kỳ 2008 - 2013 mặc dù còn khó khăn về tổ chức công đoàn, nhân lực, chế độ chính sách liên quan đến lao động y tế, đời sống thu nhập của cán bộ, công đoàn viên, người lao động... nhưng Công đoàn Y tế Việt Nam đã thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội XI, đồng thời cơ bản đảm bảo các chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức lao động y tế, coi việc chăm lo quyền lợi chính đáng của đoàn viên công đoàn là nhiệm vụ trọng tâm của các cấp công đoàn... góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân và phát triển ngành y tế... Với những thành tích đạt được thời gian qua, tại đại hội này, Công đoàn Y tế Việt Nam đã vinh dự được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhất. Phát biểu tại đại hội, PGS.TS. Nguyễn Thị Kim Tiến - Bộ trưởng Bộ Y tế đã biểu dương các hoạt động của Công đoàn Y tế Việt Nam trong thời gian qua, đồng thời nhấn mạnh: Công đoàn Y tế Việt Nam trong phương hướng, nhiệm vụ của nhiệm kỳ tới cần phát động những phong trào thi đua bám sát 7 nhiệm vụ trọng tâm của ngành y tế; giám sát việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, đẩy mạnh thực hiện Quy tắc ứng xử và đạo đức nghề nghiệp, nâng cao y đức; triển khai phong trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh... Đại hội XII Công đoàn Y tế Việt Nam đã bầu 37 đồng chí vào Ban chấp hành Công đoàn và đồng chí Trần Thị Bích Hằng được bầu làm Chủ tịch Công đoàn Y tế Việt Nam nhiệm kỳ 2013 – 2018.
Trạm y tế xã Ba Điền, Ba Tơ, Quảng Ngãi: Cần cú hích để hoàn thành
Xã Ba Điền, Ba Tơ, Quảng Ngãi vốn là địa phương đã quá “nóng” vì hội chứng viêm da dày sừng bàn tay, bàn chân. Nhờ sự quan tâm của các cấp chính quyền, trạm y tế xã Ba Điền được đầu tư gần 4 tỷ đồng gồm các hạng mục: 12 phòng làm việc của cán bộ y tế, phòng khám điều trị cho dân cùng hệ thống công trình phụ như nhà tắm, vệ sinh, nhà ăn và tường rào cổng ngõ... Tuy nhiên công trình phục vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân này đang rất cần cú “hích” để hoàn thành. Theo kế hoạch, vào ngày 9/3/2013, Trạm y tế xã Ba Điền hoàn thành thi công để đưa vào sử dụng. Nhưng hiện tại, công trình vẫn dở dang, ngổn ngang gạch, ngói. Ông Phạm Văn Thoái - Phó Chủ tịch HĐND xã Ba Điền lắc đầu cho biết: “Bà con ai cũng mong đơn vị thi công tập trung xây dựng. Nhưng họ thi công quá ì ạch. Mỗi ngày chỉ có vài ba công nhân xây dựng thì biết bao giờ mới hoàn thành”. Trong 5 tháng qua, khi Trạm y tế xã thi công, chính quyền đã mượn phòng làm việc của các hội đoàn thể để khám chữa bệnh ban đầu cho dân. Các y, bác sĩ của trạm thấy Trạm y tế được cấp kinh phí để xây dựng nên động viên nhau vượt qua khó khăn, làm tốt việc khám, chữa bệnh cho nhân dân. Nhưng, trạm y tế xã xây dựng quá ì ạch nên không chỉ y bác sĩ mà bà con cũng bức xúc. Chúng tôi trao đổi với ông Phạm Văn Bút - Bí thư kiêm Chủ tịch UBND xã Ba Điền - người hiến đất xây dựng Trạm y tế. Ông Bút bộc bạch: “Là lãnh đạo địa phương, tôi hiểu tâm tư nguyện vọng của bà con mong muốn có trạm y tế khang trang để đáp ứng công tác khám chữa bệnh. Do vậy, khi có kinh phí xây dựng, nhưng chưa chọn được mặt bằng phù hợp, tôi đã bàn với vợ hiến ngay 150m2 đất xây dựng trạm y tế. Ngày khởi công, bà con ở các thôn đến dự đông lắm. Ai cũng vui vì nghĩ rằng công trình xây dựng xong sẽ đáp ứng việc khám bệnh, cấp phát thuốc, sinh nở và nhất là sơ cứu người bị bệnh viêm da dày sừng lòng bàn tay, bàn chân. Nhưng rồi, trạm y tế xây dựng khá chậm, chẳng biết bao giờ mới xong. Không thể chấp nhận cảnh các y bác sĩ thường ngày phải khám, cứu chữa người bệnh trong điều kiện phải đi mượn phòng của các hội đoàn thể, trong khi đơn vị xây dựng lại thi công cầm chừng”.
Ông Phạm Văn Tới, một người dân của xã Ba Điền cho hay: “Thời gian qua, nhờ có Đảng, Nhà nước tuyên truyền nên bà con ở các thôn lân cận đã ý thức được hội chứng viêm da dày sừng không lây lan nên chúng tôi cũng không sợ sệt, né tránh như lúc đầu nữa. Không chỉ là sửa chữa nhà cửa, mà bà con ở thôn làng Rêu cần giúp đỡ gì thì bà con ở các thôn khác trong xã cũng sẵn sàng qua lại giúp đỡ”. Nói về nét đổi thay ở vùng quê miền núi này, ông Phạm Văn Bút cho biết, đời sống nhân dân Ba Điền đã thay đổi rất nhiều từ nếp ăn, nếp ở đến vệ sinh môi trường và cá nhân hằng ngày. Nghe theo lời vận động tuyên truyền của chính quyền và ngành y tế, đồng bào H’re nơi đây đã biết dọn vệ sinh nhà cửa, đường làng ngõ xóm, sử dụng gạo trắng do nhà nước cấp (15kg/khẩu/tháng), ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng. Đặc biệt, bàcon khi bị bệnh đã biết đến tìm bác sĩ ở trạm y tế để khám, chữa bệnh chứ không cúng bái, tin theo các hủ tục lạc hậu như xưa. Thế nhưng, không thể phủ nhận rằng hội chứng viêm da dày sừng lòng bàn tay, bàn chân đã làm cho cuộc sống đồng bào nơi đây bị xáo trộn, mất mát quá nhiều. Vì vậy, cần lắm những công trình dân sinh như trạm y tế sớm được đưa vào sử dụng.
Chuyện lạ ở Bệnh viện Giao thông vận tải Nha Trang
Xử lý chất thải y tế luôn được Chính phủ và ngành y tế quan tâm giải quyết, bằng chứng là Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án tổng thể xử lý chất thải y tế giai đoạn 2011 - 2015 và tầm nhìn đến 2020. Tuy nhiên, vì nhiều lý do cả khách quan và chủ quan nên việc đầu tư xử lý chất thải y tế cho các bệnh viện còn vô cùng thiếu thốn và chưa đáp ứng được nhu cầu. Trước thực tế đó, có bệnh viện đã tự nguyện xin được vào danh sách cơ sở gây ô nhiễm, chỉ mong được quan tâm, đầu tư. ệnh viện (BV) Giao thông vận tải (GTVT) Nha Trang (nằm trên đường 23-10, thuộc xã Vĩnh Hiệp, TP. Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa) vừa được UBND tỉnh Khánh Hòa đưa vào danh sách các cơ sở gây ô nhiễm môi trường. Điều đáng ngạc nhiên, chính BV cũng đã có văn bản xin được vào danh sách này. Ông Đỗ Viết Lộc - Giám đốc BV GTVT Nha Trang (thuộc Cục Y tế Bộ GTVT) cho biết, BV GTVT Nha Trang được xây dựng từ rất lâu, quy mô ban đầu có 20 giường bệnh. 3 năm nay, BV đã tăng lên hơn 80 giường bệnh. Thế nhưng, hệ thống xử lý chất thải (XLCT) lỏng rất lạc hậu; hệ thống XLCT rắn không có, chất thải rắn của BV như: kim tiêm, dây truyền dịch... đều phải tự xử lý tại chỗ (không đảm bảo vệ sinh môi trường) hoặc phải đưa đến BV Da liễu xử lý. Từ những lý do trên, BV buộc phải xin UBND tỉnh Khánh Hòa đưa vào danh sách những cơ sở gây ô nhiễm môi trường để từ đó được cấp kinh phí xây dựng hệ thống XLCT dễ dàng hơn. Mới đây, UBND tỉnh Khánh Hòa đã ban hành quyết định đưa BV này vào danh sách các cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng.
Theo báo cáo của Sở Tài nguyên và Môi trường Khánh Hòa, trong quá trình thực hiện kiểm soát ô nhiễm môi trường năm 2012, kết quả phân tích nước xả thải ra môi trường của BV GTVT Nha Trang, các thông số đều vượt hơn 50 lần so với quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải y tế. Đặc biệt, theo kết quả phân tích nước thải do chính BV cung cấp, có đến 7 thông số vượt quy chuẩn, trong đó có thông số quy chuẩn Coliform vượt 120 lần so mức cho phép. Căn cứ vào các quy định của Bộ Tài nguyên và Môi trường, BV GTVT Nha Trang là cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Vì vậy, Sở Tài Nguyên - Môi trường Khánh Hòa đã đề nghị đưa vào danh sách nêu trên. UBND tỉnh đã yêu cầu BV GTVT Nha Trang hoàn thành việc xây dựng hệ thống xử lý nước thải để khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường trước tháng 6/2014; đồng thời giao Sở Tài nguyên và Môi trường thông báo biện pháp xử lý cho cơ sở và theo dõi, kiểm tra việc thực hiện các biện pháp xử lý, khắc phục ô nhiễm môi trường của BV GTVT Nha Trang. Ông Đỗ Viết Lộc cho biết, hiện nay, BV đang xây dựng hệ thống XLCT lỏng, dự kiến khoảng 2 tháng nữa mới hoàn thành. Ngoài ra, BV cũng đang trình hồ sơ xin xây dựng hệ thống XLCT rắn. Tuy nhiên, do kinh phí quá lớn (khoảng 5 tỷ đồng) nên phải chờ phê duyệt. “Chúng tôi đang cố gắng hoàn thành các hệ thống XLCT y tế của BV để tránh ô nhiễm môi trường, nhưng còn phải phụ thuộc nhiều vào kinh phí”, ông Lộc cho hay.
Đăk Lăk: Cứu sống bệnh nhân đa chấn thương vùng cổ
Bệnh viện đa khoa tỉnh Đăk Lăk vừa cứu sống một bệnh nhân bị đa chấn thương vùng cổ trong đó có vết thương cắt đứt tĩnh mạch cảnh ngoài (tĩnh mạch cổ). Bệnh nhân Đậu Văn Thủy (sinh năm 1988, trú tại xã Dray Bhăng, huyện Cư Kuin) nhập viện lúc 18 giờ 43 phút ngày 17/3, trong tình trạng choáng do mất máu nhiều; vùng cổ phải có hai vết cắt sâu, một vết dài 7cm và một vết dài 10cm; vùng gáy bị một vết cắt sâu, dài 3cm. Các vết thương khiến bệnh nhân bị đứt cơ ức - đòn - chũm. Đặc biệt nghiêm trọng là vết thương ở vùng cổ phải khiến bệnh nhân bị đứt tĩnh mạch cảnh ngoài (tĩnh mạch cổ), gây mất máu cấp, nguy hiểm đến tính mạng. Ngay sau khi nhập viện, bệnh nhân được các thầy thuốc của bệnh viện truyền máu tích cực và tiến hành phẫu thuật. Đến nay, tình trạng bệnh nhân đã cơ bản ổn định, tính mạng không còn bị đe dọa.
PGS.TS. Ngô Văn Toàn Người làm từng việc nhỏ
Cả đời gắn bó với ngành chấn thương chỉnh hình (CTCH), ông không nhớ hết những bệnh nhân mình đã phẫu thuật thành công. Giờ đây, khi đã là chuyên gia đầu ngành CTCH của Việt Nam, ông vẫn chỉ nhận mình là “người làm từng việc nhỏ”. Ông là PGS.TS. Ngô Văn Toàn...
Bí quyết của thành công
Quen biết ông đã lâu và cũng từng quan sát ông khám bệnh nhiều lần, nhưng lần nào cũng vậy, ông mang đến cho tôi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Tôi nhớ trong một lần đi mổ từ thiện ở Hòa Bình, có một bé gái chừng 4 tuổi cứ khóc ré lên, giãy giụa không chịu cho bác sĩ khám. Ấy vậy mà ông chỉ xoa má và nói thì thầm điều gì đó, cháu bé đã ngoan ngoãn để ông khám bệnh và còn nhoẻn cười với ông trước sự ngạc nhiên của chúng tôi. Đây là một trong những cách mà PGS.TS. Ngô Văn Toàn tiếp xúc với bệnh nhân. Vẻ ân cần, cởi mở mang đến cho họ một cảm giác yên tâm. N.H.L. không ngại ngần kéo bên chân với những vết sẹo chằng chịt lên cho tôi xem. Ngậm ngùi nhớ lại vụ tai nạn giao thông khiến chị bị gãy xương chày cách đây 3 năm. Ngay sau phẫu thuật, chân của chị bị căng tức, mất cảm giác từ cẳng chân trở xuống và không cử động được. Trong vòng 5 ngày, trải qua 3 cuộc phẫu thuật, chị lờ mờ nhận ra rằng rất có thể chị sẽ bị mất một bên chân. Vừa đau đớn, vừa tuyệt vọng, chị chỉ còn biết cầu khấn ông trời rủ lòng thương... Và có lẽ, ông trời đã nghe được lời khẩn cầu của chị nên để chị gặp được PGS.TS. Ngô Văn Toàn. Bệnh nhân L. mắc phải hội chứng khoang sau chấn thương, nhưng đã không được chẩn đoán đúng và xử trí kịp thời nên các phần cơ và mạch máu, thần kinh... đã bị hoại tử gần hết. Sự nuôi dưỡng chi dưới vô cùng yếu ớt và khả năng giữ được cái chân rất mong manh. Nhưng với tinh thần “còn hy vọng, còn làm”, ròng rã hơn 2 năm, tỉ mỉ sửa chữa từng tí một; chăm sóc cho sự nuôi dưỡng chân tốt dần lên cộng thêm 5 lần phẫu thuật nữa, và điều kỳ diệu đã đến. Bệnh nhân L. chỉ là một trong số rất nhiều bệnh nhân đã được PGS.TS. Ngô Văn Toàn “sửa chữa” thành công sau những chấn thương tưởng chừng như không thể cứu nổi. Điều đặc biệt, bệnh nhân từ khắp nơi như Thái Nguyên, Lào Cai, Hòa Bình hay Hải Dương... nhưng PGS. Toàn vẫn còn nhớ rõ về tình trạng bệnh, hoàn cảnh gia đình và giữ mối liên lạc thường xuyên với họ. Phải chăng đây là một trong những bí quyết của thành công? PGS. Toàn cho rằng, với người thầy thuốc, cơ hội để tiếp cận kiến thức trong trường y và kinh nghiệm tích lũy trong quá trình làm việc là như nhau. Nhưng cách thức để vận dụng “kho vàng” ấy thì mỗi người một khác. Ông rất tâm đắc khi nhắc đến tấm gương của các bậc thầy đi trước như cố GS. Đặng Kim Châu, cố GS. Nguyễn Trung Sinh về sự ân cần, cởi mở khi tiếp xúc với bệnh nhân. Trong cái tỉ mỉ, cẩn trọng rất khuôn phép của người thầy thuốc lại có cái dân dã, gần gũi lắng nghe của lòng trắc ẩn và cả cách để xây dựng một mối quan hệ thân thiện giữa bệnh nhân với thầy thuốc... Tưởng chừng là việc nhỏ, nhưng đôi khi nó lại quyết định sự thành bại trong điều trị của người thầy thuốc. Câu chuyện ấy không hề xa lạ với các đồng nghiệp ở các nước có nền y học tiên tiến mà ông từng du học như Pháp, Úc, Hoa Kỳ.
Những cơ hội mang đến một Toàn “xương”
Có lẽ danh hiệu Toàn “xương” mà người ta thương mến gọi ông vì những gì ông đã làm được cho ngành CTCH Việt Nam. Vào những năm 80 của thế kỷ trước, ở Việt Nam khi đó chuyên ngành CTCH như một mảnh đất hoang sơ mà những người khai phá vừa đi vừa dò dẫm tìm đường. Cánh cửa tiếp cận thông tin với các nước phát triển rất hẹp. Các tài liệu nghiên cứu từ nước ngoài chủ yếu dựa vào quan hệ cá nhân, “được chăng hay chớ”. Thiếu con người, thiếu cơ sở vật chất nên chuyên ngành CTCH cũng vì thế mà chưa có chỗ đứng xứng tầm.
Năm 1988, BS. Toàn được cử đi học bác sĩ nội trú tại Pháp. Một chân trời mới mở toang trước mắt, “nó thay đổi toàn bộ cách nhìn của tôi về ngành CTCH”, ông tâm sự. Bấy giờ, ông mới hiểu rõ thế nào là một cuộc mổ hoàn chỉnh. CTCH không chỉ đơn giản là “bó bột” mà phải “chỉnh hình” cho thật ngay ngắn, lành lặn, thẩm mỹ và đảm bảo chất lượng sống của bệnh nhân sau chấn thương. Ngành CTCH thế giới đã phát triển những kỹ thuật chuyên sâu và đã đi quá xa.
Năm 1990, BS. Peter Nathan ở Atlanta (Mỹ) là bác sĩ chuyên phẫu thuật bàn tay được GS. Đặng Kim Châu mời sang Bệnh viện Việt Đức làm việc. Đây là cơ hội mới cho các bác sĩ trẻ ở Việt Nam. GS. Châu đã khuyên BS. Toàn nên theo chuyên ngành phẫu thuật bàn tay. Trong CTCH, phẫu thuật bàn tay là một phẫu thuật đặc biệt khó. Vi phẫu thuật bàn tay phải thao tác với các dụng cụ nhỏ; các bộ phận quan trọng của bàn tay sắp xếp trong phạm vi chật hẹp nên phẫu thuật mất nhiều thời gian, kỹ thuật tinh vi mà không phải bác sĩ CTCH nào cũng làm được. Nó đòi hỏi bác sĩ phải có đôi bàn tay tinh tế và một trái tim tâm huyết. Sau này, ông còn được theo học GS. Alan Gillbert - nguyên Chủ tịch Hội phẫu thuật bàn tay của Pháp - giáo sư hàng đầu của Pháp về phẫu thuật bàn tay và vi phẫu. Được học hỏi từ những chuyên gia đầu ngành của thế giới về kỹ thuật này là điều kiện vô cùng thuận lợi cho sự thành công sau này của ông. Ca phẫu thuật chuyển ngón đầu tiên mà ông thực hiện cùng với BS. Peter Nathan vào năm 1991 cho một bé trai bị dị tật không có ngón tay cái. Trong bàn tay con người, ngón cái là quan trọng nhất. Nó liên quan đến hầu hết các chức năng khéo léo của bàn tay như cầm, nắm, viết, lao động... Do đó, buộc người bác sĩ phải quyết định lựa chọn một ngón tay ít quan trọng nhất trong bàn tay đó là ngón tay thứ 4 (áp út) để chuyển về vị trí ngón cái. Nhưng với cấu tạo xương, khớp, kích thước giữa ngón út và ngón cái là khác nhau rất nhiều, việc tạo khớp và chỉnh hình làm sao cho vừa vặn và ngón cái mới được tạo thực hiện đúng chức năng của nó lại là điều vô cùng khó. BS. Toàn cùng kíp mổ nín thở chờ đợi sự hồng hào trở lại của ngón tay... Cuối cùng thì ông cùng đồng nghiệp đã có thể thở phào nhẹ nhõm vì ngón tay mới được chuyển ngón đã hoạt động được.
Năm 2000, một sự tình cờ lại đến khiến BS. Toàn có duyên với phẫu thuật xương cổ bàn chân - cũng là một chuyên ngành rất khó trong CTCH. Đó là lần đầu tiên hội nghị về chấn thương cổ bàn chân Việt - Mỹ do Viện Hàn lâm phẫu thuật cổ bàn chân Hoa Kỳ (AOFAFS) phối hợp với Tổ chức Chân giả ngoại tuyến (POF) tổ chức tại Việt Nam mà ông tham dự. Tại hội nghị này, ông đã gặp BS. Pierce Scranton đến từ Washington D.C - là một chuyên gia hàng đầu thế giới chuyên về cổ bàn chân và nội soi tạo hình khớp gối và khớp háng. Từ đó BS. Toàn lại có thêm một say mê mới với lĩnh vực phẫu thuật về cổ bàn chân, khớp háng và nội soi. Trước đó, mặc dù trên thế giới, các kỹ thuật này đã phát triển rất mạnh, đặc biệt là những kỹ thuật chuyên sâu để xử lý những bệnh lý phức tạp thuộc cổ bàn chân. Nhưng tại Việt Nam, hiểu biết về lĩnh vực này còn rất mơ hồ. Hầu như các bệnh nhân mắc phải bệnh lý ở chi dưới đều được điều trị không đúng cách và thường chấp nhận phải mang dị tật, đặc biệt là chấn thương phần mềm cổ bàn chân. Dưới sự trợ giúp của đoàn bác sĩ tình nguyện đến từ Washington, BS. Toàn đã nghiên cứu chuyên sâu về bệnh lý bẩm sinh và bệnh lý mắc phải ở cổ bàn chân của bệnh nhân. Sự hợp tác của ông với POF không chỉ mang lại cơ hội học hỏi cho các bác sĩ ngành CTCH Việt Nam mà nó còn giúp cho gần 1.000 trẻ em nghèo mắc phải dị tật bẩm sinh hoặc mắc phải ở các tỉnh phía Bắc được phẫu thuật miễn phí. Giờ đây, cánh cửa tương lai của ngành CTCH Việt Nam đã rộng mở. Từ việc học hỏi của các đồng nghiệp quốc tế, các bác sĩ CTCH Việt Nam đã tự tin đóng góp trí tuệ để cùng xây dựng tòa lâu đài của ngành CTCH thế giới.
Và tấm lòng thiện nguyện
Sẽ là thiếu sót khi viết về ông mà không nhắc tới Câu lạc bộ Sala do ông sáng lập và là Chủ tịch câu lạc bộ. Đây là nơi tụ hội của những người tự nguyện mong muốn làm nhân đạo trong lĩnh vực y tế - sức khỏe cộng đồng phạm vi CTCH. PGS. Toàn là người đứng mũi chịu sào, tham gia kêu gọi sự đóng góp tài chính, đóng góp công sức... và tổ chức các chuyến đi về những nơi mà ngành y tế còn khó khăn, thiếu thốn. Trong 2 năm qua, PGS.TS. Ngô Văn Toàn cùng các bác sĩ tình nguyện của CLB Sala đã tổ chức nhiều chuyến đi phẫu thuật từ thiện cho hơn 100 bệnh nhi ở vùng sâu, vùng xa, mang lại cho các em một cơ hội thay đổi tương lai. Dù vậy, nhưng ông vẫn luôn nhận: “Tôi chỉ làm từng việc nhỏ”. Vâng, nhìn lại những việc nhỏ mà ông làm còn lớn hơn xây những tòa tháp đẹp.
Tiền phong
Đề phòng bệnh chân tay miệng biến chứng
Từ đầu năm 2013 đến nay bệnh tay chân miệng (TCM) đã bùng phát ra hơn 28 tỉnh, thành trong cả nước với typ EV71 cực kỳ nguy hiểm. Thời kỳ ủ bệnh thường kéo dài khoảng từ 3 - 7 ngày. Hầu hết các trường hợp bị bệnh TCM sẽ qua khỏi nhưng có một số nếu là EV71 thì sẽ có thể bệnh diễn biến phức tạp hơn, nhất là khi virus gây tổn thương hệ thần kinh trung ương. Đây là một bệnh lây truyền từ người bệnh sang người lành do tiếp xúc trực tiếp với các chất tiết ở miệng, họng, mũi hoặc chất tiết từ các bọng nước ở tay, chân hoặc phân của người bệnh. Bệnh cũng có thể được lây truyền gián tiếp từ các dụng cụ ăn uống, đồ chơi, quần áo, chăn màn của người bệnh. Hiện nay chưa có biện pháp phòng bệnh đặc hiệu (chưa có vắc xin), vì vậy, phòng bệnh chung là rất cần thiết. Khi nghi ngờ trẻ bị bệnh TCM cần cho trẻ ở nhà không đến vườn trẻ, lớp mẫu giáo, trường học và tránh không cho trẻ lành tiếp xúc với trẻ nghi bị bệnh TCM. Ở địa phương đang có bệnh TCM, cần vệ sinh cá nhân cho trẻ hằng ngày bằng biện pháp rửa sạch tay, chân bằng xà phòng, đặc biệt là trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh. Ở trẻ bệnh thì không làm cho bọng nước vỡ ra sẽ bị nhiễm trùng và lây lan ra xung quanh. Các loại quần áo, tã lót, khăn, đồ chơi của trẻ bị bệnh TCM, sau khi giặt sạch bằng xà phòng cần sát khuẩn bằng nước sôi hoặc nước có pha hóa chất cloraminB. Không giặt chung với các loại quần áo của trẻ lành với trẻ bệnh. Khi giặt, tắm rửa cho trẻ, người phục vụ (cha mẹ, cô nuôi trẻ…) cần đi găng tay và sau khi xong cần rửa tay sạch bằng xà phòng. Phân của trẻ bị bệnh TCM cần được xử lý thật tốt, không để vương vãi ra môi trường xung quanh. Khi trẻ bị bệnh TCM mà có một số dấu hiệu khác thường cần nhanh chóng đưa trẻ đến khám ở cơ sở y tế, tốt nhất là khoa nhi, bệnh viện nhi hoặc các cơ sở khám, điều trị bệnh truyền nhiễm.
Hàng chục người ngộ độc thực phẩm
Ba ngày qua có 20 người đến Phòng khám đa khoa khu vực Nam Ban, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng để điều trị ngộ độc. 15 người (trong đó có 3 trẻ em) phải chuyển đến Bệnh viện Đa khoa Lâm Đồng vì bị ngộ độc nặng. Ngoài ra, nhiều người có dấu hiệu bị ngộ độc thực phẩm đã tự mua thuốc uống hoặc đến Phòng khám Nam Ban và được hướng dẫn điều trị tại nhà. Vì số bệnh nhân bị ngộ độc quá đông, nên Trung tâm Y tế huyện Lâm Hà phải cử bác sĩ tăng cường cho Phòng khám Nam Ban. Họ bị ngộ độc thực phẩm sau khi dự tiệc cưới tại nhà ông Trần Văn Lực ở xã Gia Lâm, huyện Lâm. Hà. Bữa tiệc với khoảng 550 khách do ông Lực thuê nhà hàng Thành Nam (thị trấn Nam Ban) nấu phục vụ tại gia.
Tuổi trẻ
Cứu sống thanh niên bị mũi kéo cắm 4cm vào hộp sọ
Chiều 22-3, thông tin từ Bệnh viện Đa khoa trung ương Cần Thơ cho biết khoa ngoại thần kinh của bệnh viện vừa phẫu thuật lấy mũi kéo dài 4cm cắm sâu vào hộp sọ của một nạn nhân. Nạn nhân là T.V.T. (29 tuổi, ở huyện Phong Điền, Cần Thơ) bị mũi kéo cắm suốt hai ngày sau khi bị hành hung.
Cứu bệnh nhân nuốt 9 que sắt và nhựa
Bác sĩ Hoàng Việt Hưng, khoa ngoại Bệnh viện Bưu điện, cho hay dự kiến tuần này sẽ cho bệnh nhân Đ.V.L. (37 tuổi, ở Hà Nội) xuất viện sau ca phẫu thuật hi hữu lấy ra chín que dài khoảng 15cm/que, trong đó có năm que bằng sắt và bốn que nhựa trong đại tràng bệnh nhân. Gia đình bệnh nhân cho biết anh L. đã nuốt số que này từ khoảng ba năm trước trong quá trình cai nghiện ma túy, mỗi lần lên cơn anh lại bẻ móc quần áo ra lấy que nuốt để giải tỏa ức chế. Theo bác sĩ Hưng, bệnh nhân vào viện do có triệu chứng đau bụng âm ỉ không rõ nguyên nhân. Kết quả chẩn đoán hình ảnh cho thấy trong đại tràng bệnh nhân có nhiều que. Sau ca mổ kéo dài hai giờ, các bác sĩ đã lấy ra được tổng cộng chín que. Bác sĩ Hưng cũng cho biết Bệnh viện Bưu điện từng điều trị cho bệnh nhân nuốt 20 que tăm, trong đó có hai que chọc thủng đại tràng, hoặc có bệnh nhân luồn 1,3m dây điện vào bàng quang. Tuy nhiên, trường hợp như anh L. là khá hi hữu khi que ở trong bụng đến hơn ba năm mới gây thủng đại tràng.
Gia đình & xã hội
Triển khai Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về Đề án giảm tải bệnh viện: Giảm phiền hà, bức xúc đối với người bệnh
Trong hai ngày 22/3 và 25/3, Bộ Y tế tổ chức hai Hội nghị ở Hà Nội và TP HCM nhằm triển khai Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về giảm tải bệnh viện (BV), phát triển nhân lực y tế một số chuyên ngành và thực hiện chế độ luân phiên có thời hạn đối với người hành nghề tại cơ sở khám chữa bệnh. Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến đã đến dự và chỉ đạo Hội nghị.
Tăng thêm 12.700 giường bệnh
Để giảm tải bệnh viện, thời gian qua Bộ Y tế đã chỉ đạo các BV tập trung đầu tư xây mới, cải tạo cơ sở vật chất, mở rộng nhiều loại hình điều trị, tăng cường cải cách thủ tục hành chính khám, chữa bệnh, tăng số phòng khám, tăng số giường bệnh. Tuy nhiên, Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến thẳng thắn chỉ ra, qua kiểm tra nhiều BV, tình trạng quá tải vẫn diễn ra trầm trọng, nhất là các BV lớn ở Hà Nội và TP HCM. Người dân đi khám chữa bệnh vẫn bức xúc, mệt mỏi vì phải chen chúc, chờ đợi hàng giờ mới được khám bệnh, thậm chí mất cả ngày mới có được kết quả xét nghiệm, chiếu chụp. Theo TS Lương Ngọc Khuê, Cục trưởng Cục khám chữa bệnh (Bộ Y tế), dù đã làm hết sức nhưng công tác khám chữa bệnh còn nhiều thách thức, tình trạng quá tải vẫn là vấn đề nổi cộm trong khi nhu cầu khám chữa bệnh của người dân tiếp tục gia tăng. Chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh còn nhiều vấn đề cần chấn chỉnh, từ thái độ phục vụ, ứng xử của một bộ phận cán bộ y tế cho tới năng lực chuyên môn của y bác sĩ ở tuyến dưới. Ông Khuê cũng cho biết, trong năm qua, trong số hơn 1.000 BV của cả nước đã tăng thêm được hơn 12.700 giường bệnh, bình quân đạt 24,7 giường bệnh / vạn dân.
Giảm tải ở khu khám bệnh và nội trú
Cũng theo Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến, Đề án giảm quá tải BV giai đoạn 2013-2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, trong đó mục tiêu lớn nhất là nâng cao chất lượng khám bệnh và làm hài lòng người bệnh. Để triển khai thực hiện Đề án, Bộ Y tế và các BV phải tập trung vào việc nâng cao chất lượng khám chữa bệnh ở tuyến cơ sở, xây dựng mạng lưới BV vệ tinh của các BV lớn và đẩy mạnh phát triển hệ thống bác sĩ gia đình nhằm nâng cao chăm sóc sức khỏe ban đầu toàn diện và liên tục. Bộ Y tế có kế hoạch tiếp tục đầu tư mở rộng, nâng cấp và xây mới các cơ sở khám chữa bệnh. Dự kiến có 4.500 tỷ đồng để xây dựng, nâng cấp một loạt BV tuyến tỉnh nhằm thu hút người bệnh, giảm tải cho tuyến trên. Đề án giảm quá tải BV đặt ra mục tiêu giảm công suất sử dụng giường bệnh của các BV tuyến TƯ và BV tuyến cuối của Hà Nội và TP HCM xuống dưới 100%; cơ bản khắc phục tình trạng nằm ghép từ năm 2015; phấn đấu 2020 trở đi không còn tình trạng quá tải BV.
Tăng tỷ lệ người cao tuổi được khám chữa bệnh ban đầu và định kỳ
Tại kết luận số 93/TB-VPCP về Hội nghị trực tuyến tổng kết công tác năm 2012 và kế hoạch hoạt động năm 2013 của Ủy ban Quốc gia về người cao tuổi, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân yêu cầu các bộ, ngành triển khai thực hiện các đề án, tổ chức chăm sóc người cao tuổi.
Bạc Liêu: Khám – chữa bệnh cho hơn 105.000 lượt bệnh nhân nghèo
Thời gian qua, Hội Đông y huyện Đông Hải đã tổ chức khám – chữa bệnh cho hơn 105.000 lượt bệnh nhân nghèo; cấp hơn 178.450 thang thuốc miễn phí với tổng giá trị trên 520 triệu đồng. Bên cạnh đó, Hội còn khuyến khích và phát động phong trào nông dân phát triển cây thuốc vườn nhà. Qua đó, vừa đáp ứng cho nhu cầu điều trị bệnh tại nhà, vừa cung cấp nguồn dược liệu cho Hội Đông y huyện chữa trị cho bệnh nhân nghèo.
Nông thôn ngày nay
40% ca bệnh lao chưa được phát hiện
Nhân ngày thế giới phòng chống lao 24.3, PGS-TS Đinh Ngọc Sĩ – Giám đốc Bệnh viện Phổi T.Ư cho biết, mỗi năm Việt Nam phát hiện thêm 180.000 người mắc lao mới, trong đó khoảng 12.000 – 18.000 người chết. Tuy nhiên, số ca bệnh lao được phát hiện mới chỉ chiếm khoảng 60% số bệnh nhân lao hiện nay. Hơn 40% ca bệnh lao chưa được phát hiện là nguồn lây nhiễm nguy hiểm cho cộng đồng. Nguyên nhân do tình trạng bác sĩ “già hóa”, không có người thay thế mà nguồn nhân lực mạng lưới chống lao cũng thiếu …
Hà Nội mới
Kháng đa thuốc - thách thức lớn nhất trong phòng chống lao
Ngày 23-3, Bệnh viện Phổi trung ương phối hợp cùng Bệnh viện Phổi Hà Nội và Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh mít tinh hưởng ứng Ngày Thế giới phòng chống lao (24-3) với chủ đề "Ngăn chặn bệnh lao trong cuộc đời tôi". Đây là cơ hội để mọi người nâng cao nhận thức gánh nặng của bệnh lao, thực trạng công tác ngăn chặn và những nỗ lực để kiểm soát căn bệnh này.
Chất lượng sống thấp - dễ mắc hơn
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), tỷ lệ tử vong do bệnh lao trên thế giới đã giảm 40% kể từ năm 1990, tỷ lệ mắc bệnh lao cũng giảm dần; các công cụ mới điều trị bệnh lao đang giúp thay đổi việc ứng phó với căn bệnh này. Tuy nhiên, gánh nặng toàn cầu và những thách thức từ bệnh lao vẫn còn rất lớn. Cụ thể, trong năm 2011, khoảng 8,7 triệu trường hợp nhiễm lao mới và 1,4 triệu người chết do bệnh lao; hơn 95% số ca tử vong do bệnh lao xảy ra ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Bệnh lao là một trong ba nguyên nhân hàng đầu gây tử vong cho phụ nữ ở độ tuổi từ 15 đến 44. Đáng lưu ý, có 0,5 triệu ca bệnh và 64.000 trường hợp trẻ em mắc lao tử vong trong năm 2011. Việt Nam hiện đứng thứ 12 trong 22 nước có tỷ lệ lao lưu hành cao trên thế giới. Riêng tại Hà Nội, trong những năm gần đây, tỷ lệ lao phổi AFB(+) và các thể lao nặng (như lao màng não, lao xương khớp và các thể lao kết hợp…) có xu hướng giảm dần nhưng lao phổi AFB âm tính và lao ngoài phổi lại có xu hướng tăng. Tại một số khu vực của Hà Nội có mật độ dân số cao, điều kiện sống chật hẹp, người có chế độ dinh dưỡng không đầy đủ… dễ mắc lao hơn các khu vực khác với tỷ lệ mắc lao ở lứa tuổi từ 15 đến 45 chiếm khoảng 50%. Các bác sỹ của Bệnh viện Phổi trung ương cho biết, thách thức lớn nhất trong công tác phòng chống bệnh lao hiện nay là bệnh lao kháng đa thuốc. Theo số liệu của Chương trình chống lao (CTCL) quốc gia, tỷ lệ kháng đa thuốc ở nhóm người bệnh lao mới là 2,7%, còn nhóm đã điều trị là 19% (thành phố Hà Nội có khoảng 60 - 80 người bệnh lao kháng đa thuốc mỗi năm). Nguyên nhân phát sinh lao kháng đa thuốc là do người bệnh không tuân thủ y lệnh của thầy thuốc trong quá trình điều trị, việc kê đơn điều trị của thầy thuốc không đúng, chất lượng thuốc không bảo đảm, thực hiện việc giám sát người bệnh chưa tốt, do đột biến gen của vi khuẩn…
Điều trị bệnh nhân kháng đa thuốc - bước đầu hiệu quả
CTCL của Hà Nội hiện giao cho hai đơn vị đầu mối quản lý là Bệnh viện Phổi Hà Nội và Trung tâm Phòng chống lao & bệnh phổi Hà Đông. Đến nay, chương trình đã xây dựng được mạng lưới chống lao rộng khắp từ tuyến thành phố đến quận, huyện và xã, phường. Tuyến quận, huyện có các tổ chống lao và thực hiện các kỹ thuật xét nghiệm đờm để phát hiện, quản lý người bệnh lao. Tuyến xã, phường có các cán bộ chuyên trách lao. Trong khoảng 5.000 bệnh nhân lao các thể được phát hiện mỗi năm trên địa bàn thành phố, tỷ lệ điều trị khỏi đối với lao phổi mới là hơn 90%, tuy nhiên, cũng như các tỉnh thành khác, Hà Nội đang đứng trước thách thức về tỷ lệ người bệnh lao/HIV tăng, đặc biệt là lao kháng đa thuốc. Được sự chỉ đạo, tạo điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị của CTCL quốc gia và UBND TP Hà Nội, Sở Y tế Hà Nội, Ủy ban Y tế Hà Lan - Việt Nam, CTCL Hà Nội đã triển khai thí điểm điều trị người bệnh lao kháng đa thuốc theo phác đồ chuẩn quốc gia từ đầu năm 2011 đến nay. Hiện tại, chương trình đã thu nhận và quản lý điều trị cho hơn 90 bệnh nhân lao kháng đa thuốc với kết quả bước đầu rất tốt. Việc phát hiện và quản lý người bệnh lao kháng đa thuốc hiệu quả sẽ làm giảm rất nhiều nguồn lây nguy hiểm mang vi khuẩn lao kháng đa thuốc, làm giảm chi phí điều trị, giảm tỷ lệ tử vong trong tương lai. Giám đốc Bệnh viện Phổi Hà Nội Phạm Hữu Thường cho biết, trong năm nay và các năm tiếp theo, CTCL Hà Nội tiếp tục tăng cường phát hiện những trường hợp mắc mới bằng cách phối hợp với các hệ thống y tế công và tư nhân; áp dụng có hiệu quả các kỹ thuật chẩn đoán mới như: GeneXpert, nuôi cấy nhanh, kính hiển vi huỳnh quang đèn LED…; triển khai thực hành xử trí tốt bệnh hô hấp ở các tuyến y tế cơ sở quận, huyện… Bên cạnh đó, CTCL cũng sẽ tăng cường công tác truyền thông, vận động chính sách, giáo dục sức khỏe cho cộng đồng nhằm khuyến khích sử dụng X quang phổi phát hiện sớm bệnh lao, phát hiện chủ động bệnh lao ở các đối tượng, đặc biệt là người nhiễm HIV, khu vực trại giam, trung tâm 05-06…
Hơn 60 y, bác sĩ trẻ khám bệnh tình nguyện vì cộng đồng
Sáng 23-3, Ban tổ chức Hội thao kỹ thuật sáng tạo tuổi trẻ ngành y tế khu vực Hà Nội lần thứ XXV đã huy động hơn 60 bác sĩ, y tá trẻ thuộc Bệnh viện Quân y 103, Bệnh viện Quân y 105 và Hội Thầy thuốc trẻ TP Hà Nội thăm, khám bệnh, phát thuốc miễn phí cho hơn 300 cựu TNXP, gia đình chính sách tại hai xã Bích Hòa, Cao Viên (Thanh Oai) và 200 trại viên đang chấp hành án tại Phân trại 3, Trại giam Thanh Xuân (Tổng cục VIII - Bộ Công an). Tổng số thuốc được Thành đoàn, Hội Liên hiệp Thanh niên TP Hà Nội và Hội Thầy thuốc trẻ thành phố Hà Nội kêu gọi từ nguồn xã hội hóa là gần 200 triệu đồng. Nhân dịp này, Thành đoàn Hà Nội tặng 10 suất quà cho các gia đình chính sách có hoàn cảnh khó khăn huyện Thanh Oai.
An ninh Thủ đô
Người khiếm khuyết về giới tính được trở lại đúng danh phận
Những người muốn chuyển đổi giới tính sẽ không còn phải ra nước ngoài để xác định lại giới tính của mình mà sẽ được phẫu thuật ngay tại các bệnh viện trong nước. Điều quan trọng hơn, họ sẽ được các bệnh viện này cấp “Giấy chứng nhận y tế cho người đã được xác định lại giới tính”. Đây sẽ là cơ sở quan trọng để cho những người này chuyển đổi các giấy tờ tùy thân như chứng minh thư, hộ chiếu… đúng với danh phận mới của mình một cách thuận lợi.
Việt Nam có 3 bệnh viện được phép chuyển đổi giới tính
Theo thông tin từ Bộ Y tế, trong tháng 6 tới đây sẽ có 3 bệnh viện được xem xét cho phép thực hiện việc can thiệp y học để xác định lại giới tính gồm: Bệnh viện Nhi Trung ương, Bệnh viện Việt Đức và Bệnh viện Nhi đồng 2. Theo ông Nguyễn Huy Quang - Vụ trưởng Vụ Pháp chế - Bộ Y tế, sở dĩ 3 cơ sở y tế này được chọn là bởi có đủ những điều kiện nhất định về cơ sở vật chất, trang thiết bị và đặc biệt là về nhân lực (có ít nhất 1 bác sĩ chuyên khoa nội tiết, 1 bác sĩ chuyên khoa ngoại, trình độ sau đại học hoặc có ít nhất 5 năm kinh nghiệm trong chẩn đoán, điều trị những khuyết tật bẩm sinh về giới tính hoặc chưa định hình chính xác…). Ngay sau khi những bệnh viện này được Bộ Y tế cho phép, bất cứ ai, ở độ tuổi nào nếu có nhu cầu xác định lại giới tính đều có thể đến 1 trong 3 cơ sở này để thực hiện. Sở dĩ có thể coi sự kiện trên là một bước quan trọng trong việc công nhận về mặt pháp luật đối với những người có nhu cầu xác định lại giới tính là bởi trước đây mặc dù đã có hành lang pháp lý cho phép công dân có quyền xác định lại giới tính, song nó vẫn chưa thể đi vào cuộc sống. Điều 36 của Bộ luật Dân sự sửa đổi 2005 về Quyền xác định lại giới tính đã khẳng định cá nhân có quyền được xác định lại giới tính. Gần đây, Nghị định 88/2008/NĐ-CP ban hành ngày 5-8-2008 đã cụ thể hóa sự ghi nhận này bằng việc hướng dẫn đăng ký hộ tịch đối với những người đã xác định lại giới tính giúp những người đã xác định lại giới tính có thể đăng ký lại hộ tịch, làm các chuyển đổi trong giấy tờ tùy thân như chứng minh thư, hộ chiếu và các giấy tờ khác đúng với danh phận mới của mình. Sau đó họ hoàn toàn có thể kết hôn, sinh con và yêu cầu sự trợ giúp về sinh sản nếu có thể. Tuy nhiên những người có nhu cầu chưa thể xác định lại giới tính của mình là bởi sau thời điểm Nghị định này có hiệu lực tại Việt Nam chưa có cơ khám chữa bệnh nào được cấp phép để xác định lại giới tính. Chính vì sự triển khai chậm chễ này mà mới đây đã xảy ra câu chuyện bi hài về sự việc một người chuyển giới ở tỉnh Bình Phước đã được UBND huyện Chơn Thành “xé rào” ra quyết định công nhận rồi sau đó lại bị cấp cao hơn ra văn bản thu hồi quyết định. Anh Phạm Văn Hiệp (SN 1974) sang Thái Lan phẫu thuật để chuyển đổi giới tính và sau đó về địa phương thường trú xin chính quyền và cơ quan chức năng cho phép được chuyển đổi giới tính, cải chính hộ tịch, họ tên… Ngày 5-11-2009, UBND huyện Chơn Thành đã ra quyết định cho phép Phạm Văn Hiệp được xác định lại giới tính từ nam sang nữ và đổi tên thành Phạm Lê Quỳnh Trâm với lý do: có xác nhận của bệnh viện tỉnh, có đơn xin cải chính giới tính, có sự tham mưu của Phòng Tư pháp huyện. Tuy nhiên sau đó, ngày 21-2-2013, UBND tỉnh Bình Phước đã có công văn đề nghị Sở Tư pháp tỉnh tham mưu thu hồi và hủy bỏ quyết định xác định lại giới tính cho anh Phạm Văn Hiệp do UBND huyện Chơn Thành ban hành trước đó. Theo UBND tỉnh Bình Phước, các quyết định của UBND huyện Chơn Thành là trái luật do Phạm Văn Hiệp đã tự ý chuyển giới tại nước ngoài. Trong khi đó về quy trình, những người muốn thay đổi hộ tịch từ giới tính nam sang nữ hoặc ngược lại phải đi khám và điều trị tại những bệnh viện đã được Bộ Y tế hoặc Sở Y tế cho phép mới được cấp giấy chứng nhận y tế để làm cơ sở cho UBND cấp huyện căn điều chỉnh lại hộ tịch cho họ.
Chỉ cho phép “xác định lại giới tính”, không cho phép “chuyển đổi giới tính”
Theo quy định, pháp luật của nước ta chỉ cho phép việc “xác định lại giới tính” chứ không cho phép “chuyển đổi giới tính”. Việc xác định lại giới tính của một người đã được quy định rõ trong điều 36 Bộ luật Dân sự trong trường hợp “giới tính của người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác mà cần có sự can thiệp của y học nhằm xác định rõ về giới tính”. Nghị định 88/2008/NĐ-CP được ban hành sau đó đã cụ thể hóa 2 trường hợp được phẫu thuật xác định lại giới tính như sau: Thứ nhất khuyết tật bẩm sinh về giới tính là những bất thường ở bộ phận sinh dục của một người ngay từ khi mới sinh ra, biểu hiện ở một trong các dạng như nữ lưỡng giới giả nam, nam lưỡng giới giả nữ hoặc lưỡng giới thật. Thứ 2 Giới tính chưa được định hình chính xác: là những trường hợp chưa thể phân biệt được một người là nam hay nữ xét về cả bộ phận sinh dục và nhiễm sắc thể giới tính. Như vậy, có thể thấy việc “xác định lại giới tính” có mục đích là nhằm trả lại giới tính thực cho những người bị khuyết tật bẩm sinh về giới tính hoặc giới tính chưa được định hình chính xác. Nó khác với khái niệm “chuyển đổi giới tính” được hiểu theo nghĩa là thực hiện theo ý thích của con người, trái với quy luật của tạo hóa. Vì vậy trong nghị định này còn quy định rõ: “Nghiêm cấm chuyển đổi giới tính của những người đã hoàn thiện về giới tính”. Lý giải về điều này ông Nguyễn Huy Quang cho rằng: Nghị định chỉ quy định là xác định lại giới tính cho những người khuyết tật về giới hay chưa phân biệt được nam hay nữ. Còn với những người đã hoàn thiện về giới nhưng được coi là đồng tính về tâm lý thì không được xác định lại giới tính bởi nó liên quan đến vấn đề đạo đức. Mặt khác, việc pháp luật Việt Nam tuyệt đối nghiêm cấm việc chuyển đổi giới tính đối với những người đã hoàn thiện về giới tính là nhằm ngăn chặn những hành vi chuyển đổi giới tính phục vụ cho các quan niệm tâm sinh lý lệch lạc, băng hoại đạo đức hoặc vì các mục đích khác (trốn tránh trách nhiệm pháp lý, gian lận trong thể thao…). Ngoài ra, có những trường hợp có thể do mắc bệnh tâm lý nếu nhất thời muốn chuyển đổi và được y học can thiệp, nhưng sau một thời gian muốn trở về với giới tính ban đầu thì sẽ rất khó xử lý.
Người đã chuyển đổi giới tính vẫn có thể được xem xét cấp giấy chứng nhận
Sau khi 3 bệnh viện được Bộ Y tế xem xét cho phép thực hiện việc can thiệp y học để xác định lại giới tính. Một vấn đề được đặt ra là những người đã ra nước ngoài để chuyển đổi giới tính liệu có được những cơ sở y tế này cấp “Giấy chứng nhận y tế cho người đã được xác định lại giới tính” để hoàn thiện những thủ tục nhằm công nhận giới tính và thay đổi những giấy tờ tùy thân cần thiết. Theo ông Nguyễn Huy Quang những trường hợp này tuy đã thực hiện chuyển đổi giới tính tại nước ngoài nhưng vẫn phải đến những cơ sở y tế được Bộ Y tế cho phép để kiểm tra xem người đó đã “xác định lại giới tình”, hay “chuyển đổi giới tính”. Việc kiểm tra này nhằm xác định xem họ có nằm trong những trường hợp có khuyết tật bẩm sinh về giới tính (nam lưỡng giới giả nữ, nữ lưỡng giới giả nam, lưỡng giới thật) hoặc giới tính chưa được định hình chính xác hay là chuyển đổi giới tính khi đã hoàn thiện về giới. Nếu thấy “hình thức” thống nhất với “nội dung” thì cơ sở y tế sẽ cấp giấy chứng nhận. Tuy nhiên, một vấn đề được dư luận quan tâm là với những trường hợp đã chuyển đổi trước khi Nghị định 88 /2008/NĐ-CP có hiệu lực, nếu xét thấy “hình thức” và “nội dung” chưa thống nhất với nhau thì liệu có được xem xét để cấp giấy? Ngoài ra việc cấp Giấy chứng nhận y tế cho người đã được đã chuyển đổi giới tính tại nước ngoài, hoặc thực hiện “chui” trước khi Nghị định có hiệu lực phải được kiểm soát thế nào để đảm bảo sự chính xác, công bằng. Đây là những vấn đề mà cơ quan chức năng cũng cần phải đặt ra và xem xét một cách cụ thể. Theo đề tài nghiên cứu “Người chuyển giới ở Việt Nam - những vấn đề thực tiễn và pháp lý” của Viện Nghiên cứu xã hội, kinh tế và môi trường, trên thế giới và tại Việt Nam cứ 2000 đứa trẻ sinh ra thì ít nhất có 1 đứa trẻ có bộ phận sinh dục không phù hợp với bộ nhiễm sắc thể, dẫn đến khuyết tật bẩm sinh về giới tính. Các khuyến tật này xuất phát từ đột biến hoặc khiếm khuyết gene chứ không phải là yếu tố tâm lý thông thường do xã hội tác động.