Tuổi trẻ, Thanh niên,Hà Nội mới, Nhân dân
Sẵn sàng tiếp nhận, điều trị cho người nhiễm cúm A (H7N9)
Chiều 6-4, đoàn công tác Ban Chỉ đạo phòng, chống bệnh dịch nguy hiểm và mới nổi của Bộ Y tế do Thứ trưởng Nguyễn Thanh Long dẫn đầu đến kiểm tra hoạt động khám, chữa bệnh và công tác phòng, chống dịch cúm A (H7N9) tại Bệnh viện Bệnh nhiệt đới T.Ư Thứ trưởng Nguyễn Thanh Long cho biết: Ðến nay, Việt Nam chưa phát hiện ca bệnh nào nhiễm vi-rút cúm A (H7N9), nhưng khả năng dịch xảy ra là rất lớn, cho nên ngành y tế triển khai đồng loạt các biện pháp từ giám sát, điều trị đến truyền thông để sẵn sàng đối phó khi đại dịch xảy ra. Bệnh viện Bệnh nhiệt đới T.Ư đã xây dựng và triển khai kế hoạch phòng, chống cúm A (H7N9), tập trung phát hiện sớm các ca bệnh nghi ngờ !important; phối hợp với hệ thống giám sát dịch tễ xác định ca bệnh đầu tiên để tổ chức cách ly, khoanh vùng và xử lý ổ dịch; chẩn đoán, điều trị kịp thời hạn chế thấp nhất tỷ lệ tử vong. Ðược biết, khi có dịch xảy ra, bệnh viện sẽ mở rộng khu vực khám bệnh, chuẩn bị sẵn sàng các khu cách ly người bệnh và phòng áp lực âm. Bệnh viện cũng chuẩn bị sẵn phương tiện chẩn đoán PCR cúm A (H7N9), hóa chất, vật tư, trang thiết bị phục vụ cho công tác phòng, chống dịch bệnh. Bệnh viện đang phối hợp các bệnh viện đầu ngành, các chuyên gia xây dựng Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh cúm A (H7N9) để sớm trình Bộ Y tế ban hành. Ngày 6-4, thực hiện các công điện khẩn của Bộ Y tế, của UBND tỉnh, ngành y tế tỉnh Lạng Sơn đã khẩn trương triển khai thực hiện các biện pháp phòng, chống cúm A (H7N9), đến trung tâm y tế các huyện, thành phố và các bệnh viện đa khoa khu vực cửa khẩu biên giới. Theo đó, Sở Y tế chỉ đạo Trung tâm Kiểm dịch y tế quốc tế, tại cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị (Cao Lộc), cửa khẩu Chi Ma (Lộc Bình), cửa khẩu Tân Thanh (Văn Lãng)...thực hiện ngay các biện pháp: triển khai kiểm dịch y tế biên giới; giám sát chặt chẽ các đối tượng nhập cảnh, xử lý y tế kịp thời các trường hợp nghi mắc bệnh, khách nhập cảnh đến từ vùng có ca bệnh. Các cơ sở khám, chữa bệnh tại tuyến tỉnh và các huyện, thành phố trong tỉnh chuẩn bị sẵn sàng cơ số thuốc, khu vực cách ly; sẵn sàng tổ chức tốt việc thu dung, cách ly, điều trị bệnh nhân; chuẩn bị kinh phí, vật tư, hóa chất xét nghiệm để phát hiện sớm và xử lý kịp thời các trường hợp nghi ngờ nhiễm cúm A (H7N9).
Hà Nội mới
Người phẫu thuật thành công bệnh Parkinson đầu tiên ở Việt Nam: Tấm gương y đức của bác sỹ gốc Hà thành
Sinh ra ở phố Hàng Bột (TP Hà Nội), lớn lên và lập nghiệp tại TP Hồ Chí Minh, trong gần 30 năm làm ngành y, ông là bác sỹ (BS) đầu tiên ở Việt Nam phẫu thuật thành công bệnh Parkinson. Đó là PGS.TS.BS Nguyễn Thi Hùng, Giám đốc Bệnh viện Nguyễn Tri Phương (BV NTP), Phó Chủ tịch Hội Thần kinh TP Hồ Chí Minh.
Đưa bệnh nhân Parkinson hòa nhập cuộc sống
Năm 2012 đã ghi dấu ấn lớn trong lịch sử ngành y nước ta khi một nhóm bác sỹ BV NTP, đứng đầu là PGS.TS.BS Nguyễn Thi Hùng đã phẫu thuật đặt điện cực não (kỹ thuật kích thích điện não sâu, giúp làm giảm đến 70-80% những rối loạn vận động của người bệnh) thành công cho hai bệnh nhân (BN) mắc bệnh Parkinson lâu năm, đưa họ trở lại cuộc sống đời thường gần như tới 80%. Bởi từ trước đến nay, phương pháp điều trị là sử dụng thuốc để bổ sung chất dẫn truyền thần kinh cho BN, nhưng thường chỉ hiệu quả trong những năm đầu của bệnh. Đó là BN Phan Văn Lục (71 tuổi, quê Hà Tĩnh) được các BS BV NTP mổ trong vòng 9 tiếng đồng hồ (ngày 11-4-2012), sau khi bị bệnh hơn chục năm với triệu chứng run toàn thân, đi lại chậm chạp. Tiếp đó, BN Cao Thụy Tiên (62 tuổi) mắc bệnh 15 năm với thể run toàn thân rất nặng được mổ một ngày sau đó. PGS.TS.BS Nguyễn Thi Hùng cho hay, để mổ thành công hai ca đầu tiên trên, các BS ngoài việc nắm vững chuyên môn và được sự giúp đỡ, hướng dẫn của GS Jean Paul Nguyễn, Chủ nhiệm Khoa bộ môn phẫu thuật thần kinh Viện trường Nantes (Pháp) thì còn trải qua nhiều công đoạn. Đầu tiên, phải xác định đúng bệnh và giai đoạn cần mổ, có sức khỏe tốt và không bị bệnh tiểu đường, cao huyết áp, giảm trí nhớ… Khi xác định xong, BN được cố định đầu bằng khung Stereo tactic rồi được chụp cộng hưởng từ và CT scan sọ não, xử lý trực tiếp qua vi tính để xác định đúng nhân trong não đã gây ra triệu chứng Parkinson. Tiếp đến BS thần kinh sẽ cử động chân tay của BN để kiểm tra lại xem đúng vị trí chưa, rồi kích thích một dòng điện với cường độ thấp để kiểm soát hoạt động của nhân gây bệnh. Khi đã xác định đúng vị trí, các BS mới nối dây điện cực với một pin phát xung điện ở dưới da vùng ngực, tương tự như đặt máy tạo nhịp tim. Ngày hôm sau, các BS chuyên khoa thần kinh sẽ điều chỉnh nhịp tim cho BN để có cường độ, tần số và xung phù hợp nhằm giảm triệu chứng và ít tác dụng phụ nhất liên tục trong 6 tháng đầu.
Bệnh Parkinson là bệnh lý thoái hóa thần kinh, thường xảy ra ở những người lớn tuổi, nhất là ở độ tuổi trên 60 (chiếm gần 1,5%). Từ cuối những năm 60 trở về trước, BN chủ yếu được điều trị bằng thuốc Levodopa, thay thế cho chất Dopamine bị thiếu hụt để duy trì, kiểm soát các triệu chứng của bệnh. Điều đáng nói, khi BN sử dụng thuốc được 8-10 năm thì thuốc hết tác dụng. Chưa kể khi BN uống trong thời gian dài sẽ bị xáo trộn vận động, bệnh càng nặng hơn và gây nên biến chứng về vận động. Năm 1998, ngành y đánh dấu sự thành công khi nhóm các BS Âu - Mỹ đã dùng phương pháp kích thích điện não sâu. Từ đó, phương pháp này được xem là phương pháp duy nhất hiện nay điều trị bệnh Parkinson hiệu quả. Năm 2012, lần đầu tiên tại Việt Nam, PGS.TS.BS Nguyễn Thi Hùng và các BS của BV NTP mổ và đặt điện cực thành công cho hai BN trên. Từ kết quả đạt được, đến nay, BV NTP tiếp tục mổ điều trị thành công cho nhiều BN Parkinson khác. Sau khi được điều trị, thay vì phải uống 10-12 viên thuốc Levodopa/ngày, giờ chỉ uống 3-4 viên/ngày, chất lượng cuộc sống thay đổi hẳn. Nói về việc điều trị bệnh Parkinson, PGS.TS.BS Võ Văn Nho đánh giá, đây là bước phát triển của y học nước nhà trong lĩnh vực điều trị các bệnh về thần kinh và mở ra nhiều triển vọng mới vì người mắc bệnh này đang tăng cao và hầu hết BN không đủ tiền để đi điều trị ở nước ngoài. Chi phí mổ Parkinson lần đầu ở nước ta chỉ khoảng 30-35 nghìn USD, bằng 1/2 nước ngoài. Theo PGS.TS.BS Nguyễn Thi Hùng, giữa năm 2014, các BS nước ta có thể làm chủ được công nghệ và phương pháp điều trị này. Bước quan trọng nhất vẫn là chuẩn bị về mặt đội ngũ con người. Hiện BV có 4 BS thần kinh có thể đánh giá, theo dõi và chỉnh pin cho những BN Parkinson, còn đội ngũ phẫu thuật có 2 BS. Trong đó, BS Hùng là trưởng nhóm thần kinh của BV, đồng thời là trưởng kíp phụ trách các ca mổ.
Và phong cách, y đức của vị bác sỹ đầu ngành
PGS.TS.BS Nguyễn Thi Hùng kể, cha mẹ ông đều là những viên chức bình thường. Trong 6 anh chị em (PGS.TS.BS Hùng là con thứ tư) đã có 4 anh chị em làm ngành y tại các BV lớn trên địa bàn TP. Vợ ông cũng là BS, còn hai người con cũng đậu ngành y nhưng chỉ có con gái út kiên trì theo nghiệp bố mẹ. "Tôi luôn dạy con mình, làm người thầy thuốc trước hết phải có đức, nếu không sẽ khó thể là "như mẹ hiền". Ngoài đức cũng cần tài, bởi nếu không có tài cũng sẽ rất nguy hiểm... Người làm nghề y còn phải có tinh thần tìm tòi trong khoa học, không hài lòng với những gì đã có, chấp nhận sự thay đổi và đổi mới để cải tiến kỹ thuật ngày càng tốt hơn. Người thầy thuốc cũng phải coi người bệnh như bản thân!", PGS Hùng tâm tình bằng chất giọng nhẹ nhàng, trầm tĩnh. Có lẽ lời nói đã bộc lộ cho tính cách của ông, bởi dù ở cương vị giám đốc nhưng ông luôn giản dị trong cách ăn mặc, lời nói và thái độ với mọi người xung quanh. Chúng tôi đã tiếp xúc với ông nhiều lần nhưng trong những cuộc họp hay bàn luận về y tế, ông luôn là người đầu tiên đứng dậy hăng hái phát biểu và đưa ra những phân tích, nhận định thẳng thắn nhất. "Nhiều người nói, ngành y thường nhạy cảm nên không nên thẳng thắn quá, nhưng với tôi thì ngược lại, thẳng thắn và biết thừa nhận những cái chưa hoàn thiện mới có thể đưa ngành y phát triển, bởi chúng ta đều hành động vì sức khỏe con người", PGS Hùng nói.
Tuổi trẻ trang
Ca tử vong sau tiêm văcxin Quinvaxem: Chưa có bằng chứng liên quan văcxin
Sở Y tế Hải Dương vừa có thông báo gửi Bộ Y tế cho biết kết luận ca tử vong sau tiêm văcxin Quinvaxem của bé Đ.T.L., 3 tháng tuổi, ở Hải Dương hôm 27-3 (Tuổi Trẻ 30-3), là do sốc nhiễm khuẩn trên bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết do tụ cầu vàng, chưa tìm thấy bằng chứng liên quan đến văcxin và tiêm chủng. Sở Y tế Hải Dương cũng đề nghị Viện Kiểm định văcxin và sinh phẩm y tế hỗ trợ kiểm định lô văcxin Quinvaxem được sử dụng tiêm ngừa cho bé Đ.T.L., đồng thời đề nghị Dự án tiêm chủng mở rộng, Viện Vệ sinh dịch tễ T.Ư cấp bù văcxin sử dụng thay thế hai lô kể trên đang bị tạm dừng sử dụng ở Hải Dương. Trong đợt tiêm ngừa ngày 25-3 tại Hải Dương, ngoài bé L. còn tám trường hợp có sốt và quấy khóc sau tiêm, trong đó có ba trường hợp được kết luận sốt virút, nhiễm khuẩn đường tiết niệu và viêm tai giữa, năm trường hợp còn lại được cho là phản ứng bình thường sau tiêm văcxin. Bé L. là trường hợp thứ 7 tử vong sau tiêm Quinvaxem tính từ tháng 7-2012 đến nay.
Hà Nội mới, Nhân dân
Hà Nội triển khai các biện pháp phòng, chống dịch cúm A/H7N9
Ngày 5-4, Sở Y tế Hà Nội, Ban chỉ đạo Phòng chống dịch cúm ở người đã tổ chức họp khẩn cấp triển khai các biện pháp phòng chống bệnh nhiễm vi rút cúm A/H7N9 trên địa bàn thành phố.Theo Giám đốc Trung tâm Y tế dự phòng thành phố, các nhà khoa học hiện vẫn chưa rõ về nguồn lây, phương thức lây truyền, cách thức điều trị, cũng như các biện pháp dự phòng, đặc biệt là chưa có vắc xin và thuốc điều trị đặc hiệu đối với vi rút cúm A/H7N9. Thuốc Tamiflu vẫn được cho là có hiệu quả trong dự phòng và điều trị cúm. Hiện Hà Nội vẫn còn cơ số thuốc dự phòng tại Bệnh viện Đống Đa phục vụ cho công tác phòng chống dịch. Mặt khác, Trung tâm Y tế dự phòng thành phố đã chủ động giám sát tại 17 bệnh viện của trung ương, bộ, ngành trên địa bàn, đồng thời phối hợp với các bệnh viện, trung tâm y tế trong ngành để điều tra, giám sát, phát hiện các trường hợp nghi mắc cúm A/H7N9 để có biện pháp thu dung, cách ly và điều trị kịp thời. Năm đội phòng chống dịch cơ động tại trung tâm đã được củng cố và mỗi trung tâm y tế quận, huyện, thị xã có 2 đội phòng dịch cơ động sẵn sàng làm nhiệm vụ khi có dịch bệnh xảy ra.
Lãnh đạo Sở cho biết, ngành y tế Hà Nội đã có sự phối hợp với các bệnh viện trên địa bàn trong tiếp nhận và điều trị cho bệnh nhân, tăng cường công tác kiểm dịch giám sát phát hiện sớm các trường hợp hành khách có dấu hiệu sốt cao nhập cảnh qua cửa khẩu Nội Bài. Hệ thống giám sát, điều trị, các biện pháp dự phòng và phác đồ điều trị cúm A/H7N9 đã được tăng cường tập huấn. Công tác tuyên truyền chủ động để người dân có kiến thức phòng, chống dịch bệnh nhưng không gây hoang mang... Sở đẩy mạnh phối hợp liên ngành trong thanh kiểm tra ATVSTP đối với các thực phẩm có nguồn gốc từ gia cầm, cũng như các hoạt động chăn nuôi, vận chuyển, chế biến và kinh doanh gia cầm.Đại diện Cục Quản lý khám chữa bệnh và Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế) cho biết, khoảng ngày 9-4, Bộ Y tế sẽ đưa ra phác đồ điều trị cúm A/H7N9 và tổ chức tập huấn cho các đơn vị y tế.
An ninh thủ đô
Trẻ mắc bệnh tay chân miệng gia tăng mạnh
Từ đầu năm đến nay, dịch tay chân miệng (TCM) tiếp tục gia tăng với 14.260 ca mắc được ghi nhận, 4 ca tử vong và rất nhiều ca nguy kịch. Đáng chú ý, đa số phụ huynh vẫn nghĩ trẻ chỉ bị TCM khi có tiếp xúc với những trẻ mắc bệnh, thế nhưng qua điều tra dịch tễ thì 75% trẻ mắc TCM lại không hề có yếu tố tiếp xúc này.
Triệu chứng bệnh đã biến đổi
Thông tin từ BV Nhi Trung ương cho biết, từ đầu năm đến nay, bệnh nhân TCM nhập viện tăng cao, trong đó nhiều trường hợp nặng, có bệnh nhân phải lọc máu và điều trị tích cực. Qua theo dõi các trường hợp mắc TCM nhập viện, BV đã phát hiện có sự thay đổi về triệu chứng, bệnh cảnh lâm sàng ở những trẻ mắc bệnh. TS. Trần Minh Điển, Phó Giám đốc BV Nhi Trung ương cho biết, nếu trước đây triệu chứng bệnh thường biểu hiện rõ là những mụn nước, bọng nước ở tay, chân và niêm mạc miệng, thì nay nhiều trẻ bị bệnh không bộc lộ rõ ràng, thậm chí khi xét nghiệm mới phát hiện mắc TCM. Thậm chí nhiều trường hợp virus TCM đã tấn công vào não, gây biến chứng ở các cơ quan tiêu hóa, tim mạch nhưng vẫn không có biểu hiện đặc trưng của bệnh.
Cũng theo đại diện BV Nhi Trung ương, trong tổng số trẻ nhập viện do TCM vào điều trị tại BV, có tới 75% số trẻ mắc bệnh hoàn toàn không có yếu tố dịch tễ là đã từng tiếp xúc với trẻ mắc TCM trước đó. Ðiều này cho thấy, dù trẻ có được cách ly vẫn có thể mắc bệnh. Mặt khác, trẻ có thể lây bệnh từ người lớn, nhất là từ người chăm sóc và tiếp xúc thường xuyên với trẻ.
Thống kê từ Cục Y tế Dự phòng - Bộ Y tế cho thấy, từ đầu năm 2013 đến nay, cả nước đã ghi nhận 14.260 ca mắc TCM với 4 ca tử vong, tiếp tục là 1 trong 10 dịch bệnh có số mắc cao nhất ở nước ta (chỉ đứng sau tiêu chảy), đồng thời cũng là 1 trong 10 dịch bệnh có số tử vong cao nhất. Kết quả nghiên cứu trên 2.161 bệnh nhân mắc TCM điều trị nội trú trong năm 2012 tại BV Nhi đồng 1 cho thấy, bệnh TCM gặp nhiều ở thời điểm giao mùa như hiện nay. Triệu chứng thường gặp là phát ban ở lòng bàn tay, chân, sốt, giật mình, run chi, thời gian chuyển nặng thường vào ngày thứ 3-4 kể từ khi mắc bệnh. Các biến chứng thường gặp là viêm não, màng não, viêm cơ tim, phù phổi cấp… Ông Nguyễn Huy Khoa, Cục Y tế dự phòng nhận định, tình hình dịch TCM trong năm 2013 chắc chắn vẫn diễn biến phức tạp trên diện rộng với số mắc cao.
40% dân số không biết TCM
Các bác sĩ khuyến cáo, khoảng 90-95% trẻ mắc bệnh TCM sẽ tự khỏi, vì thế với trẻ mắc bệnh TCM ở thể nhẹ, cha mẹ nên chăm sóc tại nhà. Tuy bệnh TCM không quá nguy hiểm, song điều đáng lo ngại là TCM rất dễ nhầm lẫn với các bệnh lý thường gặp khác, đặc biệt là các bệnh lý sốt virus, sốt phát ban, nhiệt miệng, hay dị ứng… Do đó, nếu không được phân biệt, chẩn đoán sớm thì sẽ kéo theo tình trạng xử lý điều trị sai hoặc điều trị muộn, khiến bệnh diễn tiến nguy hiểm.
Theo TS. Trần Minh Điển, Phó Giám đốc BV Nhi Trung ương, TCM và bệnh sốt virus đều có biểu hiện sốt cao nên ở giai đoạn đầu cần phải căn cứ vào các biểu hiện rất cụ thể mới phân biệt được. Chẳng hạn, với bệnh sốt virus, trẻ có thể gặp sốt cao nhưng dùng thuốc hạ sốt thì đỡ, khám không thấy dấu hiệu nhiễm trùng ở họng, phổi, đường ruột; còn với TCM thì gây sốt cao liên tục, dùng thuốc hạ sốt không đỡ, phát ban ngay từ khi sốt, ban xuất hiện ở lòng bàn tay, chân và khoang miệng. Tương tự, nhiều bệnh lý khác cũng có biểu hiện phát ban trên cơ thể hoặc tay chân như sốt phát ban, dị ứng, viêm da mủ, thủy đậu… nhưng với các bệnh lý này thì thông thường, các ban mọc xen kẽ, ít dạng sẩn, thường có hạch sau tai, còn ban của bệnh TCM xuất hiện ở lòng bàn tay, lòng bàn chân, gối, mông, ít khi loét hay bội nhiễm...
Tại hội thảo quốc tế về phòng, chống bệnh TCM do Bộ Y tế tổ chức ngày 4-4, ông Trần Đắc Phu, Phó Cục trưởng Cục Y tế dự phòng cho biết, tỷ lệ người dân hiểu sai và không biết về bệnh TCM chiếm đến 37-38% dân số, đặc biệt có 22,8% người dân không biết các biện pháp phòng bệnh này. Cục Y tế dự phòng khuyến cáo, bệnh TCM lây truyền theo đường tiêu hóa nên việc thực hiện các biện pháp vệ sinh ăn uống, vệ sinh cá nhân và vệ sinh nơi công cộng là yếu tố quyết định đến việc giảm tỷ lệ mắc bệnh tại cộng đồng. Để phòng bệnh, người dân (nhất là những người trong gia đình có trẻ nhỏ dưới 5 tuổi) cần thực hiện tốt các biện pháp rửa tay bằng xà phòng; thường xuyên lau sạch các bề mặt và các vật dụng, đồ chơi bị nhiễm bẩn của trẻ bằng xà phòng hoặc dung dịch sát khuẩn thông thường; cho trẻ ăn chín, uống sôi, không ăn chung thìa, bát... Đặc biệt, khi có các triệu chứng của bệnh như sốt cao, nổi phát ban ở tay, chân, miệng thì cần đưa đến BV khám để được chẩn đoán, hướng dẫn điều trị sớm.
Nhân dân
Số người bị tăng huyết áp ngày càng tăng
Đó là nhận định của GS Nguyễn Lân Việt, Viện trưởng Viện Tim mạch Việt Nam tại hội thảo “Tăng huyết áp ở người cao tuổi: thực trạng và can thiệp dựa vào cộng đồng” được tổ chức ngày 5-4. Đây là hoạt động hưởng ứng Ngày sức khỏe thế giới ( 7-4) với thông điệp “Huyết áp – cần được kiểm soát” và “Kiểm soát huyết áp của bạn chính là kiểm soát cuộc sống của bạn”. Theo tổ chứ Y tế thế giới (WHO), hiện có một phần ba số người trưởng thành bị tăng huyết áp (THA) và tỷ lệ này tăng lên theo tuổi. Có đến ba phần tư số người cao tuổi bị THA thậm chí không biết là mình bị THA. Do vậy, mục đích của Ngày sức khỏe thế giới là khuyến khích nâng cao nhận thức về THA, thực hành các hành vi khỏe mạnh, tăng cường phát hiện sớm bệnh THA với mục tiêu là tử giảm vong do bệnh tim mạch. Năm 2007, ước tính số người THA ở nước ta là 6,85 triệu người và dự báo sẽ tăng lên khoảng 10 triệu người vào năm 2025.
Nông thôn ngày nay
An Giang: Mổ bỏ thai nhi một thân hai đầu
Ngày 5.4, ông Nguyễn Văn Thắng - Trưởng khoa Sản Bệnh viện Đa khoa trung tâm tỉnh An Giang cho biết, một sản phụ mang thai song sinh phức tạp đã bình phục sức khỏe chờ ngày xuất viện.
Trước đó ngày 2.3, sản phụ L (29 tuổi, ngụ Tân Hiệp, Kiên Giang) bị đau bụng dữ dội nên người nhà đưa lên Bệnh viện ở An Giang cấp cứu sợ sinh non. Khi siêu âm, các bác sĩ khoa sản nhận dạng một thai nhi khoảng 27 tuần tuổi có hai đầu, một thân gồm một trái tim, hai cột sống dính liền nhau rất phức tạp không thể mổ tách rời ra. Nhận được tin buồn, người nhà sản phụ và bản thân sản phụ L đã đồng ý mổ bỏ thai nhi. Theo bác sĩ Thắng, đây là ca song thai rất phức tạp, để lâu nguy hiểm cho người mẹ nên ngày 4.4 ê kíp mổ đã tiến hành mổ bỏ thai nhi.
Sức khỏe đời sống
Nguy cơ cao bùng phát sốt rét tại miền Trung - Tây Nguyên
Năm 2012, mặc dù số người chết do bệnh sốt rét và số bệnh nhân mắc sốt rét có giảm so với năm trước nhưng nguy cơ sốt rét quay trở lại và nguy cơ bùng phát dịch sốt rét vẫn còn rất cao ở nhiều địa phương, đặc biệt ở 2 khu vực trọng điểm sốt rét là ven biển miền Trung và Tây Nguyên.
Nguy cơ bùng phát dịch vẫn rất cao
Đây là thông tin được đưa ra tại Hội nghị tổng kết công tác phòng chống sốt rét, ký sinh trùng - côn trùng năm 2012 và triển khai kế hoạch năm 2013 vừa được tổ chức tại Hà Nội. Báo cáo về công tác phòng chống sốt rét trên cả nước trong năm 2012, TS. Trần Thanh Dương, Viện trưởng Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương cho biết, năm qua số người chết do sốt rét và số bệnh nhân sốt rét đều giảm so với năm 2011. Năm 2012 chỉ có 8 trường hợp tử vong do sốt rét, giảm 42,9% so với năm 2011. Các trường hợp tử vong xảy ra ở 5 tỉnh (năm 2011 ở 10 tỉnh) gồm: Bình Định, Khánh Hòa, Bình Phước, Bình Thuận (2 trường hợp) và Phú Yên (3 trường hợp). Tổng số bệnh nhân sốt rét của cả nước đã giảm 4,1% so với năm 2011, nhưng vẫn ở mức cao với gần 44.000 trường hợp. Trong đó, số bệnh nhân sốt rét có ký sinh trùng là hơn 19.600 trường hợp, tăng 18,1% so với năm 2011. Số bệnh nhân sốt rét ác tính được báo cáo là 152 trường hợp, giảm 17,4% so với năm 2011. Năm qua đã có gần 9,4 triệu người được bảo vệ bằng các biện pháp phun tồn lưu, tẩm màn hóa chất nhưng số này chỉ đạt khoảng 96% so với kế hoạch đề ra. Về công tác điều trị, trong tổng số hơn 266.000 liều thuốc sốt rét được sử dụng trong năm, số liều thuốc cấp để bệnh nhân tự điều trị vẫn còn cao, chiếm tới 77%. Tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại như tình trạng lạm dụng thuốc tiêm artesunat tại một số cơ sở điều trị, một số trường hợp sốt rét lâm sàng lại được điều trị bằng thuốc sốt rét phối hợp với kháng sinh, một số cơ sở y tế không có thuốc sốt rét...
Có thể diễn biến phức tạp
Dự báo về tình hình năm 2013, TS. Trần Thanh Dương khẳng định, bệnh sốt rét tại Việt Nam có thể vẫn diễn biến phức tạp, đặc biệt nguy cơ xảy ra dịch lớn ở miền Trung - Tây Nguyên vẫn rất cao. Nguyên nhân là do mặc dù năm 2012 số bệnh nhân sốt rét chung toàn quốc giảm, nhưng chỉ giảm ở 5/7 khu vực. Hai khu vực trọng điểm có tình hình sốt rét nặng nhất trong toàn quốc là ven biển miền Trung và Tây Nguyên đều có số bệnh nhân sốt rét tăng tương ứng 7% và 12%. Ngoài ra, năm 2012 cũng là năm có số ký sinh trùng sốt rét cao nhất trong vòng 6 năm trở lại đây. Đặc biệt, khu vực ven biển miền Trung và Tây Nguyên có số ký sinh trùng tăng rất cao tương ứng là 27% và 31,7%. Các địa phương ghi nhận số ký sinh trùng tăng cao là Quảng Bình (96,3%), Nghệ An (71%), Quảng Nam (66%)... Đáng lưu ý, ký sinh trùng sốt rét P.falciparum kháng artemisinin cũng được dự báo có nguy cơ lan rộng do sự giao lưu dân số lớn giữa những địa phương đã phát hiện có kháng thuốc tới những địa phương khác trên toàn quốc. Trong năm 2013, ngành y tế đặt mục tiêu tiếp tục giảm tỉ lệ mắc sốt rét, tỉ lệ tử vong do sốt rét ở mức dưới 0,02/100.000 dân. Các chỉ tiêu cụ thể được đặt ra như: xét nghiệm tìm ký sinh trùng sốt rét cho trên 90% người có sốt ở vùng sốt rét lưu hành, phấn đấu 95% bệnh nhân sốt rét được điều trị theo đúng phác đồ quy định của Bộ Y tế, sử dụng biện pháp phòng chống sốt rét cho trên 85% người có nguy cơ mắc cao...
Cần nâng cao ý thức của người dân
Để đạt được các mục tiêu phòng chống và loại trừ sốt rét trong năm 2013, ngành y tế sẽ tiếp tục tăng cường nghiên cứu khoa học để ứng dụng vào hoạt động phòng chống và loại trừ bệnh sốt rét. Tiếp tục đẩy mạnh công tác truyền thông giáo dục sức khỏe nhằm nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi của người dân, đặc biệt người dân sống ở những vùng có nguy cơ cao để họ có ý thức ngủ trong màn, phun hóa chất diệt muỗi. Mặt khác, Bộ Y tế tiếp tục củng cố mạng lưới và tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ chuyên trách về phòng chống sốt rét để phát hiện sớm, điều trị kịp thời đúng phác đồ cho người bệnh. Đồng thời cập nhật thông tin về chẩn đoán, điều trị bệnh sốt rét theo hướng dẫn của Tổ chức Y tế Thế giới và thực tế điều trị tại Việt Nam. Củng cố hệ thống giám sát sốt rét, đánh giá từ Trung ương đến cơ sở, xây dựng quy trình và hướng dẫn theo dõi giám sát cho từng tuyến. Tiếp tục nghiên cứu về thuốc sốt rét mới, phác đồ mới điều trị bệnh sốt rét và các biện pháp sử dụng hóa chất diệt muỗi sốt rét thích hợp và hiệu quả cao. Bảo đảm kinh phí cho công tác phòng chống và loại trừ sốt rét năm 2013 từ nguồn kinh phí Nhà nước đã được phê duyệt là 95 tỷ đồng và các nguồn viện trợ khác.
Về kế hoạch hoạt động phòng chống và loại trừ sốt rét năm 2013, PGS.TS. Nguyễn Thanh Long, Thứ trưởng Bộ Y tế đã chỉ đạo cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các giải pháp chính sau: Các giải pháp về chính sách xã hội; Các giải pháp về chuyên môn kỹ thuật; Các giải pháp về nghiên cứu khoa học và ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và hoạt động phòng, chống và loại trừ bệnh sốt rét; Các giải pháp về nguồn lực và hợp tác quốc tế và bảo đảm kinh phí thực hiện chương trình. Ðể duy trì những thành quả đạt được và tiếp tục thực hiện Chiến lược phòng chống và loại trừ các bệnh sốt rét tại Việt Nam giai đoạn 2011-2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thì Nhà nước, các bộ/ngành, các tổ chức chính trị - xã hội và cả cộng đồng cần tiếp tục đầu tư kinh phí, nhân lực và tích cực tham gia các hoạt động phòng chống sốt rét. |
“Chẩn bệnh” cho BVÐK tỉnh Ðăk Nông
Mới đây, UBND tỉnh Đăk Nông đã chủ trì tổ chức hội nghị để đánh giá thực trạng, bàn giải pháp củng cố và phát triển Bệnh viện đa khoa của tỉnh này. Theo như lãnh đạo Sở Y tế thì đây chính là cuộc “hội chẩn toàn diện” để “bắt mạch, kê đơn” cho bệnh viện nhằm góp phần nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh trong thời gian tới.
Còn “yếu” ở nhiều khâu
Ðánh giá thực trạng hoạt động thời gian qua, lãnh đạo Bệnh viện đa khoa (BVÐK) tỉnh thừa nhận, hiện đơn vị đang “yếu” ở rất nhiều khâu, từ nguồn nhân lực đến cơ sở vật chất, trang thiết bị và năng lực điều hành, lãnh đạo. Cái “yếu” được nhắc đến nhiều nhất khi “mổ xẻ” vấn đề trên là thực trạng nguồn nhân lực. Không chỉ thiếu nguồn nhân lực có trình độ chuyên sâu mà cơ cấu lao động tại bệnh viện cũng đang bộc lộ những bất cập. Theo thống kê, tổng số lao động hiện có của BVÐK tỉnh là 378 người, trong đó, trình độ đại học, sau đại học chỉ có 88 người, chiếm 21,75%; cao đẳng: 10 người, chiếm 2,65%; trung cấp: 235 người, chiếm 62,33% và sơ cấp, lao động phổ thông: 50 người, chiếm 13,26%. Theo tiêu chuẩn của một bệnh viện hạng II thì BVÐK tỉnh hiện đang thiếu tối thiểu là 40 bác sĩ, dược sĩ trình độ đại học và trên đại học. Từ chỗ thiếu nguồn nhân lực, việc bố trí các phòng, khoa chuyên môn hiện cũng còn bất cập. Kỷ luật lao động cũng là vấn đề được đưa ra thảo luận khá nhiều tại hội nghị. Theo BVÐK tỉnh, chỉ tính riêng năm 2012, đã có 18 cán bộ, viên chức bị xử lý kỷ luật với những vi phạm như: bỏ vị trí làm việc, đánh bạc, thiếu tinh thần trách nhiệm, vòi tiền của bệnh nhân... Từ đây cũng cho thấy tính kỷ luật, kỷ cương, vấn đề giáo dục tư tưởng, đạo đức cho cán bộ, viên chức của bệnh viện thời gian qua vẫn còn bị xem nhẹ.
Nghịch lý “thiếu, thừa”
Từ thiếu chặt chẽ, khoa học trong quản lý, thời gian qua, hàng loạt vấn đề phát sinh tại BVÐK tỉnh Đăk Nông, ảnh hưởng đến chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân. Một điều dễ thấy là nơi đây đang tồn tại một nghịch lý “thiếu, thừa” khá phổ biến. Nếu như bài toán về thiếu nguồn nhân lực chuyên sâu vẫn đang cần lời giải thì vấn đề giải quyết tình trạng thừa nguồn nhân lực phổ thông, tạp vụ hay điều dưỡng ở đây hiện cũng khá “đau đầu”. Nguyên nhân dẫn đến nghịch lý “thiếu, thừa” trên, theo giải thích của lãnh đạo BVÐK tỉnh là do công tác tuyển dụng bác sĩ rất khó, nên phải bổ sung lao động phổ thông (hợp đồng 68) và trung cấp để đáp ứng yêu cầu công việc trước mắt. Tuy nhiên, đó chỉ là lý giải đơn thuần, bởi trên thực tế, một tạp vụ, điều dưỡng hay lao động phổ thông không thể đảm nhiệm được vai trò của bác sĩ. Có chăng, cách giải quyết này cũng chỉ nhằm mục đích khỏa lấp đủ con số biên chế hàng năm được giao, chứ không giải quyết được nhu cầu về mặt chuyên môn, nghiệp vụ. Trong khi đó, theo phản ánh của một số cán bộ, viên chức đơn vị, tình trạng “thiếu thầy, thừa thợ” là một trong những nguyên nhân dẫn đến chất lượng phục vụ, chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân thời gian qua còn thấp.
Nâng cao năng lực, trách nhiệm của lãnh đạo
Ngoài những yếu kém, bất cập đã phân tích, lãnh đạo Sở Y tế Đăk Nông cũng đã ghi nhận sự nỗ lực vượt bậc của đại bộ phận cán bộ, viên chức BVÐK, thời gian qua trong việc khắc phục khó khăn để thực hiện nhiệm vụ. Một số trường hợp thiếu y đức nảy sinh trong bệnh viện cũng chỉ là “con sâu làm rầu nồi canh”. Trong hàng loạt nhóm giải pháp, vấn đề cấp bách trước mắt vẫn là làm sao nâng cao vai trò, năng lực và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo đơn vị. Ban giám đốc BVÐK tỉnh phải là những người có tâm, có tầm, phát huy dân chủ, công khai để huy động sức mạnh của cả tập thể phục vụ cho mục tiêu chung. Như vậy, nói theo ngôn ngữ ngành y, việc “bắt mạch, kê đơn” đã được thực hiện với sự đóng góp trí tuệ không chỉ của cán bộ trong ngành mà của cả hệ thống chính trị. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là sau công đoạn này, bệnh viện có sự thay đổi, chuyển biến theo chiều hướng tích cực hay không, phụ thuộc rất nhiều vào quyết tâm, trách nhiệm của tập thể và chính bản thân mỗi cán bộ, viên chức BVÐK tỉnh.
Thông tin mới nhất của WHO tại Việt Nam về cúm A/H7N9
Trước diễn biến phức tạp của cúm A/H7N9 tại Trung Quốc, phóng viên báo Sức khỏe&Đời sống đã liên hệ với đại diện Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tại Việt Nam và được WHO tại Việt Nam cung cấp thông tin mới nhất về dịch cúm H7N9. Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc! Dịch cúm A/H7N9 đang diễn biến phức tạp tại Trung Quốc, tính đến ngày 5/4, đã có 14 người nhiễm cúm A/H7N9, trong đó có 6 trường hợp tử vong. Trung Quốc đã cảnh báo người dân tăng cường các biện pháp phòng ngừa dịch bệnh ở những nơi đông người.
Cúm A/H7N9 ít nguy hiểm hơn SARS
Danh sách các bệnh nhân bị nhiễm cúm A/H7N9 tại Trung Quốc ngày càng tăng lên. Các quan chức Trung Quốc đặc biệt lo ngại khi dịch cúm nguy hiểm này lại trùng với dịp Tết Thanh minh (tưởng nhớ những người đã khuất) từ ngày 4-6/4, dịp mà người dân các nước châu Á thường thờ cúng tổ tiên bằng thịt gia cầm. Giám đốc Trung tâm Ngăn chặn và kiểm soát dịch bệnh Trung Quốc (CDC) Feng Zijian đã khuyến cáo người dân không nên sử dụng thịt gia cầm trong dịp lễ này. Đồng thời, ông cũng lên tiếng bác bỏ khả năng dịch cúm lần này lan rộng như dịch SARS 10 năm trước bởi không có mối liên hệ nào giữa các trường hợp cúm A/H7N9 với những người khác. Chuyên gia của WHO tại Việt Nam (WHO Việt Nam) khẳng định, Ủy ban Kế hoạch hóa gia đình và sức khỏe Trung Quốc cùng đại diện WHO tại Trung Quốc đã chính thức công bố những trường hợp nhiễm cúm gia cầm ở người vào ngày 31/3/2013. Trung tâm Ngăn chặn và kiểm soát dịch bệnh Trung Quốc (CDC) cho biết, 3 trường hợp người bị nhiễm virut cúm A/H7N9 đã được phòng thí nghiệm xác nhận vào ngày 29/3. Một cuộc điều tra đang được tiến hành, bao gồm cả việc theo dõi những người có tiếp xúc với các trường hợp trên. Cho đến nay, không có liên hệ dịch tễ học nào giữa 3 trường hợp đã được báo cáo. Tại thời điểm này, không có bằng chứng về việc lây truyền virut từ người sang người. Các phòng thí nghiệm Trung Quốc đã kết luận chủng virut H7N9 đã tìm thấy trên chim bồ câu bày bán ở một khu chợ gia cầm thuộc quận Songjiang, Thượng Hải. Loại này có cùng nguồn gốc với chủng virut H7N9 tìm thấy trên người. Cơ quan chức năng Trung Quốc đã cho tiêu hủy tất cả loại chim bày bán ở chợ cũng như khoanh vùng, xử lý chất thải của chim và toàn bộ khu chợ. Trước tình trạng này, nhiều quốc gia đã tăng cường các biện pháp giám sát du khách đến từ vùng có dịch. Việt Nam cũng lo ngại dịch bệnh có thể xuất hiện bởi Việt Nam có chung đường biên giới với Trung Quốc và tình trạng nhập lậu gia cầm và các sản phẩm gia cầm từ Trung Quốc còn rất phổ biến. Bộ Y tế Việt Nam đã yêu cầu các đơn vị giám sát chặt những ca nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính nặng. Trả lời câu hỏi của phóng viên báo Sức khỏe&Đời sống về mức độ nghiêm trọng của dịch cúm A/H7N9 lần này, đại diện WHO Việt Nam cho rằng: “WHO đặc biệt quan tâm đến vấn đề này bởi nó là những trường hợp nhiễm bệnh do virut cúm gia cầm A/H7N9 trên người đầu tiên được báo cáo. Tuy nhiên, đây chỉ là một số ít các trường hợp và được xác định trong một khu vực, một địa phương nhất định. Thêm nữa, nó không có bằng chứng lây từ người sang người”.
Làm thế nào để phòng ngừa cúm A/H7N9?
WHO tại Việt Nam đã thông báo về việc mà WHO đang tiến hành nhằm đối phó dịch bệnh là các chuyên gia WHO đang tiếp tục điều tra và theo dõi diễn biến dịch bao gồm mức độ dịch bệnh bùng phát, nguồn lây nhiễm, phương thức truyền dẫn. Để đối phó với loại virut chưa từng xuất hiện trên người này, WHO Việt Nam khuyến cáo: “Ngay khi xuất hiện các trường hợp nhiễm bệnh, cần có các biện pháp điều trị lâm sàng tốt, các biện pháp phòng ngừa và kiểm soát một cách thận trọng khu vực xuất hiện dịch để có thể khoanh vùng thêm các trường hợp liên quan. Một trong những biện pháp hữu hiệu nhất là phòng ngừa, không tiêu thụ gia cầm và sản phẩm gia cầm (trứng) không an toàn, chỉ sử dụng các sản phẩm đã qua nấu chín. Virut cúm gia cầm được bất hoạt ở nhiệt độ cao qua nấu chín thức ăn. Cho đến nay, không có bằng chứng dịch tễ học nào cho thấy người sử dụng sản phẩm gia cầm chín bị lây nhiễm với virut cúm gia cầm”.
Tỷ lệ sử dụng thuốc nội chưa cao, do đâu?
Ngành y tế đã có chủ trương khuyến khích dùng thuốc nội từ những năm 60 của thế kỷ trước. Sau Chỉ thị Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam, lẽ ra tỷ lệ dùng thuốc nội tăng hơn, song ngược lại, tỷ lệ dùng thuốc nội có xu hướng giảm dần từ 52% (2007) xuống47,82% (2011), riêng năm 2010 chỉ 47,36%. Thử tìm hiểu nguyên nhân?
Bác sĩ chưa nắm thật rõ sự thay đổi lớn trong sản xuất thuốc nội
Đến thập niên 1980 - 1990, để tự lực cung cấp thuốc cho dân, nguồn sản xuất, cung ứng thuốc nội ở nước ta mới được bung ra nhằm bù đắp cho việc thiếu hụt nguồn nhập trước đó từ các nước trong hệ thống XNCN cũ. Lúc đó, hầu hết doanh nghiệp (DN) dược có nhà xưởng chật chội, trang thiết bị thô sơ, nguyên phụ liệu thiếu thốn, thiếu đội ngũ cán bộ kỹ thuật giỏi, công nhân lành nghề không đủ. Do vậy, thuốc nộisản xuất trong thời điểm đó chất lượng không cao, không thể sánh bằng thuốc nhập ngoại từ các nước có nền công nghiệp dược phẩm phát triển lâu đờinhư Anh, Pháp hay Mỹ. Bấy giờ, bác sĩ coi chất lượng thuốc ngoại cao hơn thuốc nội như là giải pháp hữu hiệu để kê đơn. Đến giai đoạn sau, khoảng 20 năm trở lại đây, hầu hết các DN dược nước ta đã được đầu tư xây dựng, dần hoàn thiện nhiều kỹ thuật, dây chuyền sản xuất thuốc hiện đại, nhiều nhà máy, DN dược đã đạt chuẩn GMP (sản xuất thuốc tốt) theo tiêu chuẩn ASEAN, WHO. Những khó khăn đã bị đẩy lùi. Ví dụ như, trước kia, công đoạn xát hạt phải làm bằng tay trên lưới nhôm, tạo ra hạt không đều, khó tránh nhiễm khuẩn, nay đã dùng máy tạo ra hạt chuẩn, tránh nhiễm khuẩn. Trước đây, công đoạn sấy phải dùng lò bằng than, bằng điện, khó khống chế nhiệt độ, nay đã dùng máy sấy nên phẩm chất thuốc được đảm bảo. Do thế, chất lượng thuốc nội đã dần được nâng cao hơn nhiều. Tỷ lệ thuốc chưa đạt tiêu chuẩn (phải thu hồi) chỉ 0,6 - 0,8%, xấp xỉ với nhiều nước khác. Năm 2004, thuốc nội đã xuất khẩu ra nước ngoài 13 triệu USD. Tuy nhiên, trên thực tế có không ít bác sĩ vẫn chưa thật sự nắm rõ sự thay đổi này, họ vẫn giữ cách nhìn chất lượng thuốc nội như 20 năm trước. Đây là nguyên nhân quan trọng khiến tỷ lệ sử dụng thuốc nội ở nước ta vẫn chưa cao.
Nhà sản xuất trong nước chưa đưa thông tin thuốc đầy đủ cho bác sĩ
Nhà sản xuất nước ngoài rất chú ý đến việc giới thiệu thuốc cho bác sĩ (BS)nên tờ thông tin thuốc rất đủ nội dung (tên thương mại, tên khoa học, dược lý, dược động học, tác dụng phụ, chỉ định, chống chỉ định, những thận trọng cần thiết, liều lượng, cách dùng, điều kiện bảo quản có khi còn kèm theo cả các quy trình nghiên cứu). Thí dụ: tờ thông tin về thuốc hạ huyết áp nifedipin (bd: adalat) dài đến 3 trang, trong đó nêu rất rõ sự khác nhau về công dụng, tai biến, cách dùng của từng loại biệt dược (loại giải phóng hoạt chất nhanh, loại giải phóng hoạt chất chậm hàm lượng 10mg và hàm lượng 20mg). Trình dược viên các hãng thuốc ngoại còn khôn khéo đưa mẫu thuốc, tờ giới thiệu ấy đến từng BS (đó là còn chưa nói đến việc kê đơn hưởng % hoa hồng cho bác sĩ). Còn các nhà sản xuất thuốc nội thì rất ít chú ý điều này nên tờ thông tin thuốc không đầy đủ, thậm chí sơ sài và chỉ nằm ở nhà thuốc mà không đến với đội ngũ BS. Có nhiều cuộc hội thảo về thuốc ngoại nhưng rất hiếm hoi với thuốc nội. Do thiếu thông tin về thuốc nội nên khi kê đơn, BS ít nhớ đến tên thuốc nội mà nhớ nhiều đến tên thuốc ngoại.
Chưa hẳn bác sĩ “mờ mắt” trước hoa hồng của thuốc ngoại
Trước 1989, BS không được hành nghề tư, kê đơn thuốc ngoại cho các cơ sở bán thuốc không hợp pháp, hưởng hoa hồng. Từ năm 1989, hầu hết các BS (về hưu hay đương chức) đều được phép mở phòng khám tư. Tính đến 2011, cả nước đã có 30.000 phòng khám tư. Do quản lý chưa chặt chẽ nên các phòng khám tư vừa khám bệnh vừa bán thuốc (mà không kê đơn). Các nhà thuốc (tư nhân) ngoài bệnh viện không có hoặc rất ít có đơn BS để bán. Do vậy, nhận định BS “mờ mắt” trước hoa hồng nên kê đơn thuốc ngoại giá cao cho nhà thuốc tư để hưởng hoa hồng cũng không hẳn hoàn toàn phù hợp với thực tế, có chăng thì cũng chỉ một tỷ lệ rất nhỏ (!).
Chưa hẳn lỗi “sính dùng thuốc ngoại”của người dân
Theo Bộ Y tế cũng như theo tổng kết của một số sở y tế địa phương, thì số thuốc dùng ở bệnh viện (BV) chiếm60 - 70% trong tổng số thuốc dùng trong toàn quốc. Riêng thuốc bán lẻ trên thị trường thì nhà thuốc bệnh viện cũng chiếm 70 - 80% doanh số chung. Khảo sát của Cục Điều trị (2006) trên 600 BV lớn nhỏ thì tỷ lệ thuốc nội tính theo chủng loại chiếm 40%, tính theo lượng tiền chiếm 19 - 20%. Khảo sátmới nhất của Cục Điều trị (2011) cho biết, tổng số thuốc dùng trong BV là 18.500 tỷ đồng, thuốc ngoại chiếm 11.300 tỷ đồng (61%) thuốc nội chiếm 7.200 tỷ đồng (38,9%). Thuốc dùng trong nội viện, cấp phát tại phòng khám đều do BV mua thông qua đấu thầu và thuốc bán tại nhà thuốc BV cũng do chính BV mua và BS của BV kê đơn. Như vậy, người bệnh dùng thuốc theo y lệnh, theo đơn chứ không hẳn theo thị hiếu của họ. Số thuốc này như nói trên chiếm đến 70% tổng số thuốc dùng. Cho nên nhận định tỷ lệ dùng thuốc nội thấp là do người bệnh có thịhiếu “sính dùng thuốc ngoại” chưa hẳn là hoàn toàn đúng, có chăng thì cũng chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (!)
Hệ quả của mối quan hệ y - dược lỏng lẻo
Người bệnh dùng thuốc họ tự mua hay dùng theo y lệnh, theo đơn của BS khi đi khám. Dược sĩ tuân thủ quy chế, chỉ bán khi có đơn hợp lệ của BS, ngay với thuốc bán không cần đơn cũng chỉ được bán một số lượng đủ dùng. Như vậy, việc mua - bánkhông chỉ lệ thuộc vào cung - cầu mà còn lệ thuộc vào các yếu tố khác. Do đó, khác với mặt hàng tiêu dùng khác, dược phẩm là thị trường không hoàn hảo. Trong thị trường dược phẩm không hoàn hảo như vậy, mối quan hệ giữa nhà sản xuất - người kê đơn hay nói cụ thể ra là mối quan hệ y - dược có tính điều tiết quyết định đến việc tiêu thụ thuốc. Trong khi đưa ra những nhận định chưa hẳn hoàn toàn đúng hay phù hợp thì chúng ta vẫn chưa củng cố được mối quan hệ y - dược cho thật chặt chẽ, thậm chí có nơi có lúc rất lỏng lẻo. Hệ quả mang lại là việc tăng doanh số bán ra, tăng tỷ lệ dùng thuốc nội khó đạt được cao như mong muốn.