1. Các dấu hiệu trên móng tay cần lưu ý;2. Nam giới lạm dụng điện thoại di động có nguy cơ vô sinh;3. WHO phát động kế hoạch hành động toàn cầu mới loại trừ bệnh lao phổi;4. Chỉ dấu sinh học giúp phát hiện trẻ có nguy cơ mắc đái tháo đường týp 2;5. Tránh tử vong do sặc thức ăn; 6. Vô sinh không rõ nguyên nhân ;7. Gia tăng các bệnh mãn tính liên quan đến dinh dưỡng
1. Các dấu hiệu trên móng tay cần lưu ý
Sức khoẻ con người có thể được nhận biết qua rất nhiều biểu hiện bên ngoài như sắc mặt, màu da, niêm mạc và các hoạt động thể chất khác - "trông mặt mà bắt hình dong" song ít ai biết rằng: chúng ta còn có thể nhận biết tình trạng sức khoẻ của bản thân mình qua các biểu hiện trên móng tay. Với nhiều người, đó đơn giản chỉ là một kỉ lục, song, sự thực là móng tay có thể phản ánh tình trạng sức khoẻ của mỗi người, có thể giúp phát hiện tình trạng dinh dưỡng, tình trạng viêm nhiễm và thậm chí giúp nhận biết sớm tình trạng bệnh tình của các bệnh nhân.
Ngay từ khi còn trong bụng mẹ, móng đã được hình thành. Móng được cấu tạo từ keratin - một thành phần protein được tìm thấy trong da và cả tóc của chúng ta. Cấu tạo nên bộ móng của chúng ta gồm rất nhiều phần: lớp sừng (nail plate) là phần cứng nhất bên ngoài cùng của móng với tác dụng bảo vệ; lớp da bao quanh móng; lớp da bên dưới lớp sừng, lớp biểu bì...Trung bình, móng có thể mọc dài thêm từ 2 - 3mm/ mỗi tháng (với móng chân là 1mm/tháng).
Phản ánh tình trạng dinh dưỡng của cơ thể
Một bộ móng chắc khoẻ sẽ phản ánh tình trạng dinh dưỡng đầy đủ của cơ thể. Những thứ chúng ta ăn hàng ngày sẽ cung cấp các chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể cũng như cho móng tay. Những dinh dưỡng cần thiết giúp móng khoẻ mạnh cũng là những dinh dưỡng thiết yếu cho cơ thể bao gồm: axit béo omega 3, các loại protein và sắt. Các biểu hiện trên móng tay có thể phản ánh tình trạng thiếu một số loại dinh dưỡng, chẳng hạn như: chất sắt, biotin và protein. Ví dụ như khi bị thiếu sắt, móng tay sẽ thể hiện rõ màu sắc phần biểu bì trên móng rất nhợt nhạt. Khi tình trạng thiếu sắt trở nên nghiêm trọng, xuất hiện tình trạng thiếu dinh dưỡng có tên khoa học là koilonychia khiến cho móng tay phát triển thay đổi hình dáng, móng trở nên mỏng hơn và bị lõm.
Báo hiệu nguy cơ tổn thương móng
Khi tình hình sức khoẻ yếu, biểu hiện dễ nhận thấy trên phần móng đó là sự xuất hiện của các nốt nhỏ màu trắng (leukonychia) trên lớp sừng của móng. Ban đầu chúng vô hại, song móng càng mọc dài ra, thì các nốt trắng này cũng lớn dần lên và khiến móng trở nên yếu, dễ gãy. Trong một vài trường hợp bị thương tổn, móng có thể xuất hiện các vệt nhỏ có màu sẫm trên bề mặt móng (hiện tượng này có tên khoa học là onycholysis). Chúng hình thành do hiện tượng chảy máu bên dưới lớp móng. Liệu tình trạng bệnh lý nào đó có thể khiến cho các mạch máu trở nên yếu và rất dễ bị tổn thương như vậy? Khi các mạch máu bên trong lớp biểu bì bên dưới lớp móng bị vỡ, gây chảy máu, máu tích lại tạo thành các vệt có màu đỏ hoặc thẫm bên dưới lớp móng.
Hiện tượng này thường xảy ra khi cơ thể gặp phải một trong các vấn đề như dị ứng, nhiễm khuẩn, bệnh vảy nến hoặc do ung thư.
Phản ánh tình trạng lo lắng và stress
Không ít người thường cắn móng tay khi bị căng thẳng và điều đó được xem như một thói quen. Theo kết quả một cuộc điều tra khoảng 50% số trẻ nhỏ từ 10 - 18 tuổi có thói quen gặm móng tay. Càng lớn lên, thói quen này dần được từ bỏ. Khi ở vào độ tuổi 18 - 22 tuổi, số người có thói quen cắn móng tay giảm xuống còn 23%, và đến 30 tuổi, hầu hết mọi người đều từ bỏ thói quen này. Tuy nhiên, nó có thực chỉ là một thói quen như nhiều người vẫn nghĩ?
Thực chất đó là một hành động thường xảy ra khi hệ thần kinh bị căng thẳng, khi một người cảm thấy bồn chồn hoặc bị stress...việc cắn móng tay rất có hại. Đôi khi nó gây trầy xước lớp biểu bì ở móng tay, gây nhiễm trùng cho ngón tay và cả đường miệng.
Báo hiệu nguy cơ nhiễm trùng
Hiện tượng sưng tấy, đỏ và ngứa ở vùng da quanh móng tay là một dấu hiệu cho biết có vấn đề đang xảy ra với cơ thể bạn. Cụ thể thì đó có thể là triệu chứng của việc bị nhiễm khuẩn, nấm... Loại khuẩn phổ biến nhất mà nhiều người dễ mắc phải đó là staphylococcus và các khuẩn gây ra mụn cóc trên tay. Các trường hợp nhiễm khuẩn này không phải là vấn đề lớn đối với sức khoẻ, song nếu không được phát hiện và chữa trị kịp thời, nó có thể khiến cho hệ miễn dịch của cơ thể bị suy yếu.
Các bác sĩ cũng cảnh báo: Ngoài việc giữ vệ sinh móng sạch sẽ, bất cứ khi nào phát hiện thấy các dấu hiệu lạ trên móng tay như: móng trở nên dày, sần sùi và thay đổi màu sắc bất thường, bệnh nhân cần nhanh chóng đi khám để phát hiện nguyên nhân và ngăn chặn kịp thời các tác nhân gây hại cho sức khoẻ. Vi khuẩn và đôi khi cả virut cũng có thể tấn công các vùng da quanh móng, gây ra hiện tượng gãy móng, hoặc thối móng... Tình trạng này có thể lây lan từ người này sang người khác, và để điều trị, các bác sĩ sẽ phải tiến hành làm lạnh hoặc sử dụng hoá chất để diệt khuẩn.
Báo hiệu các vấn đề khác
Có 5 dấu hiệu thay đổi trên móng mà bất kỳ ai cũng đều cần phải lưu ý, bởi nó có thể khiến cho tình trạng thiếu dinh dưỡng hoặc tình trạng bệnh trở nên nguy hiểm hơn. Các dấu hiệu này bao gồm: tình trạng thay đổi màu sắc bất thường, long móng, sần sùi, xuất hiện hiện tượng lõm và phát triển theo hình dạng lạ...
Các nghiên cứu cho thấy: các dấu hiệu móng tay có các vết, nốt màu trắng trên phần móng có thể là dấu hiệu của bệnh gan; màu nửa trắng, nửa hồng là dấu hiệu của bệnh thận và màu tím là dấu hiệu của nguy cơ mắc bệnh tim. Ngoài ra còn có các dấu hiệu như: móng có màu vàng, dày, phát triển chậm có thể là dấu hiệu của chứng bệnh phổi. Do chức năng phổi bị suy kém, nên khiến cho nồng độ ôxy trong máu xuống thấp, dẫn tới sự phát triển bất thường của móng. Các vết rỗ trên bề mặt móng (khiến bề mặt móng không trơn, phẳng) có thể là dấu hiệu của bệnh vảy nến. Khi nghiêm trọng, nó có thể dẫn tới gãy móng, tổn thương lớp biểu bì. Và các đường viền màu sắc lạ: chẳng hạn như trên bề mặt móng xuất hiện một đường viền xẫm màu bên dưới bề mặt lớp móng, thì đó có thể là dấu hiệu của bệnh thay đổi sắc tố da.
2. Nam giới lạm dụng điện thoại di động có nguy cơ vô sinh
Việc sử dụng điện thoại di động quá nhiều có thể khiến tinh trùng rơi vào trạng thái "ngủ mê", dẫn đến nguy cơ gây vô sinh ở nam giới.
Kết luận này được rút ra từ nghiên cứu sơ bộ của Đại học Tổng hợp La Spienza và Bệnh viện Santa Maria Goretti ở Rôma, Italia về mối liên hệ giữa sử dụng điện thoại di động và chất lượng tinh trùng. Sóng điện thoại di động có thể làm cho khả năng chuyển động của tinh trùng kém đi. Tuy nhiên, đây mới chỉ là những số liệu nghiên cứu ban đầu. Các nhà khoa học cần phải xác định thêm sự hiện diện của các yếu tố khác, vốn cũng ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của nam giới. Thường thì những đối tượng sử dụng điện thoại di động quá nhiều đều dễ bị stress hơn, hút thuốc lá và uống rượu nhiều hơn. Những yếu tố này cũng có thể ảnh hưởng đến chất lượng tinh trùng.
3. WHO phát động kế hoạch hành động toàn cầu mới loại trừ bệnh lao phổi
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) vừa phát động kế hoạch hành động toàn cầu mới loại trừ bệnh lao phổi trong giai đoạn 2011-1015. Theo đó, kế hoạch này sẽ cung cấp phác đồ điều trị và chẩn đoán được WHO phê chuẩn cho 31 triệu người trong 5 năm tới nhằm giảm 50% số người tử vong vì bệnh lao phổi mỗi năm. Kế hoạch hành động mới cũng đưa ra lộ trình rõ ràng để xử lý hiện tượng vi khuẩn kháng thuốc, trong đó 7 triệu người trên thế giới sẽ được xét nghiệm đối với các loại vi khuẩn này và 1 triệu người sẽ được điều trị theo tiêu chuẩn quốc tế nếu được xác nhận nhiễm vi khuẩn kháng thuốc. Theo WHO, kế hoạch hành động toàn cầu mới cần đầu tư 37 tỷ đô la cho chăm sóc y tế bệnh lao phổi và 10 tỷ đô la cho các mục tiêu nghiên cứu và phát triển thuốc và vaccin trong 5 năm từ năm 2011 - 2015. WHO kêu gọi các nước và các nhà tài trợ đầu tư bổ sung 24 tỷ đô la để thực hiện kế hoạch hành động mới này.
Tổng Giám đốc WHO, bà Margaret Chan, nhận định thế giới có thể loại trừ bệnh lao phổi nếu các chính phủ và các nhà tài trợ đầu tư đầy đủ để thực hiện kế hoạch hành động toàn cầu mới này. Theo WHO, hiện nay có 22 nước, chiếm tới 80% số người mắc lao phổi trên toàn cầu. Mỗi năm trên thế giới có 9 triệu người nhiễm lao phổi và 2 triệu người chết vì bệnh này.
4. Chỉ dấu sinh học giúp phát hiện trẻ có nguy cơ mắc đái tháo đường týp 2
Những đứa trẻ có nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường týp 2 có thể được xác định sớm bằng chỉ báo gen được gọi là chỉ dấu sinh học (biomaker), có thể được xác định chính xác nhờ công trình nghiên cứu do Nancy F.Butte đứng đầu. Một ngày nào đó, các bác sĩ nhi khoa và các chuyên gia y tế có thể sử dụng các chỉ dấu sinh học. Do vậy, có thể các nhà nghiên cứu dinh dưỡng sẽ phát triển những chiến lược dựa trên khoa học để ngăn ngừa bệnh đái tháo đường týp 2 cho trẻ em. Để phát triển các chỉ dấu sinh học, Butte và các đồng nghiệp đang tiến hành lập bản đồ chi tiết các gen trên vùng nhiễm sắc thể 13. Các nhà khoa học tìm thấy một vùng trên nhiễm sắc thể 13 bằng cách kiểm tra kết quả DNA và xét nghiệm đường huyết của 1.030 trẻ em gốc Tây Ban Nha từ 4 - 19 tuổi. Các chỉ dấu sinh học cho thấy bản đồ chi tiết có thể chứng minh được dấu hiệu của khuynh hướng dẫn đến bệnh đái tháo đường týp 2. Nghiên cứu của họ được xây dựng dựa trên một công trình trước đây đã xác định được một vùng ảnh hưởng của mức đường trong máu (glucose). Hàm lượng đường cao thường là dấu hiệu của bệnh đái tháo đường hay tiền đái tháo đường týp 2.
5. Tránh tử vong do sặc thức ăn
Trưa 25/10, cháu Trương Tuấn Lộc 14 tháng tuổi được cô giáo cho ăn cháo tại lớp, bị sặc dẫn tới khó thở, tím tái. Tuy được vào viện cấp cứu nhưng sau đó 2 giờ, bé đã tử vong. Vậy tại sao trẻ lại dễ bị tử vong như vậy khi sặc thức ăn? Có cách gì để phòng tránh?
Sau 5- 7 phút có thể ngưng thở
PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Dinh, nguyên giám đốc Bệnh viện Tai Mũi Họng TƯ, trưởng phòng khám Tai Mũi Họng Bệnh viện Hồng Hà cho biết, trường hợp này có thể gọi là dị vật đường thở, do thức ăn rơi vào đường thở làm tắc nghẽn gây tử vong hoặc có trường hợp gây viêm phổi kéo dài nếu không xử trí kịp thời. Theo báo cáo của Bệnh viện Nhi TƯ, tuần nào cũng có một vài trường hợp trẻ bị dị vật đường thở. Có nhiều nguyên nhân gây sặc như trẻ vừa ăn vừa nói chuyện, ngậm (nhất là các loại hạt..), đút nhiều trẻ không nuốt kịp… Đặc biệt, có một số thói quen tai hại gây nguy hiểm cho trẻ như bịt mũi trẻ bắt trẻ nuốt, trẻ vừa ăn vừa ngủ hay các bà mẹ vừa ngủ, vừa cho con bú… khiến trẻ không nuốt được, khi thở mạnh có thể hít sữa lên mũi gây tắc đường hô hấp.
Dị vật đường thở thường xảy ra ở trẻ nhỏ, tuổi ăn dặm đến 3 tuổi. Ở độ tuổi này, các phản xạ đường thở đóng mở thanh quản để bảo vệ đường thở khi ăn uống và khi hít thở chưa thuần thục, trong khi đó trẻ thấy bất cứ vật gì cho vào miệng ngậm, rồi nuốt trôi vào cuống họng lúc nào không hay. Hậu quả của loại tai nạn bất ngờ này rất khó lường. Khi dị vật rơi vào đường thở, trẻ khó thở, tím tái, sau 5 – 7 phút ngừng thở, não thiếu oxy trầm trọng và rất khó cứu được, nếu may mắn khỏi chết ngạt cũng để lại các di chứng rất nặng nề: di chứng não, sống đời sống thực vật… Thực tế, nhiều phụ huynh không nhận biết được khi trẻ bị dị vật đường thở nên không ít trường hợp dẫn đến ngưng thở trước khi đến bệnh viện hoặc đưa đến bệnh viện rất muộn khi trẻ bị viêm phổi kéo dài, áp-xe phổi, viêm mủ màng phổi khó chữa trị. Với những tường hợp bị hóc các xương động vật (cá, gia cầm, lợn…) xương nhọn có thể xuyên thủng động mạch lớn, gây áp xe trung thất.
Tuyệt đối không chữa mẹo
PGS.TS Dinh cảnh báo, nhiều người hay có thói quen chữa “mẹo” khi bị hóc dị vật là cho ăn cơm nóng, uống nước hoặc cho tay và miệng trẻ để móc ra vô tình lại đẩy dị vật vào sâu hơn, nhất là dị vật tròn thì càng nguy hiểm. Vì vậy, tuyệt đối không dùng cách chữa mẹo, khi thấy trẻ bị hóc dị vật cần nhanh chóng đưa trẻ tới ngay cơ sở y tế nơi gần nhất.
| Phòng tránh dị vật đường thở ở trẻ §Không nên để hạt dưa, hạt bí gần tầm nhìn, tầm với của trẻ; §Không để vương vãi trên sàn nhà vỏ hạt dưa, hạt bí, hạt dưa hấu, hạt mãng cầu, trẻ có thể nhặt cho vào miệng; §Không cho trẻ nhỏ ăn dưa hấu chưa lấy hạt hoặc các loại hạt dưa, hạt bí, đậu phộng.. mảnh bánh tráng; §Không cho trẻ chơi với các loại hạt, đồng tiền, đồ vật nhỏ; §Nếu nhìn thấy trẻ đưa những thứ kể trên vào miệng, không vội la làm trẻ khóc thét dễ bị sặc; §Tránh ép trẻ ăn uống khi trẻ đang khóc; Không cho trẻ ngậm thức ăn trong miệng và đùa giỡn. |
Theo BS Nguyễn Văn Lộc, nguyên phó giám đốc kiêm trưởng phòng khám Hen phế quản, Bệnh viện Nhi TƯ, cái chính là phải phát hiện nhanh khi trẻ bị hóc dị vật. Khi phát hiện hay nghi ngờ trẻ bị dị vật đường thở, phải nhanh chóng xử trí không để trẻ bị ngạt thở. Nếu trẻ nói được, khóc được, đưa trẻ đến ngay bệnh viện để được khám và gắp dị vật ra. Nếu trẻ khó thở nặng, tím tái, vật vã, hôn mê, hãy thực hiện ngay thao tác đặt trẻ nằm đầu thấp, sấp trên một tay, tay kia vỗ mạnh vào lưng trẻ tạo áp lực trong lồng ngực để đẩy dị vật ra. Với trẻ lớn hơn, các bậc phụ huynh ôm lấy ngang bụng trẻ, ép bụng trẻ lại, dị vật vọt ra dễ dàng, sau đó đưa trẻ đến bệnh viện gần nhất.
6. Vô sinh không rõ nguyên nhân
Các nghiên cứu về vô sinh cho thấy 40% là do chồng, 40% do vợ, 15% do cả hai vợ chồng và 5% không rõ nguyên nhân. Tâm lý cũng là một nguyên nhân phải xét đến. Càng căng thẳng, lo lắng, càng khó có con.
Không nguyên nhân, nhưng lại “có vấn đề”
Chị Hoa, anh Tuấn (cùng 31 tuổi, ở Hải Dương) kết hôn đã bốn năm. Nửa năm đầu họ còn có ý định “kế hoạch”, nhưng sau đó, anh chị “thả” nhưng đến hai năm mà vẫn chưa có thai. Hai vợ chồng sốt ruột đi khám ở nhiều bệnh viện chuyên khoa nổi tiếng và đều nhận được kết quả: sức khỏe tốt. Chị Hoa buồn rầu chia sẻ: “Vợ chồng tôi đã tính nước phải thụ tinh trong ống nghiệm, nhưng vẫn băn khoăn tại sao "máy móc" ổn mà không thể sinh con tự nhiên?”.
Theo giáo sư Nguyễn Viết Tiến, Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương, những cặp vợ chồng ở độ tuổi sinh đẻ, chờ cả năm vẫn chưa có thai trong khi muốn có con thì đều “có vấn đề”. Nếu đi khám, không phát hiện ra vấn đề gì, bác sĩ sẽ xếp vào trường hợp “vô sinh không rõ nguyên nhân”. Các trường hợp này không có nguyên nhân cụ thể để chỉ ra rõ ràng. Về phía người vợ, có thể do phóng noãn không đều hằng tháng (chu kỳ kinh nguyệt không đều đặn), vì thế, khả năng để tinh trùng thâm nhập khó khăn hơn. Hoặc cơ thể người vợ có kháng thể kháng lại tinh trùng, niêm mạc tử cung không tạo điều kiện cho phôi làm tổ và phát triển.
Về phía người chồng, có thể do tinh trùng hơi yếu, hoặc tần suất quan hệ tình dục kém, thưa, số lượng tinh trùng ít hơn một chút so với người bình thường. Nếu việc phóng noãn không đều hằng tháng, điều trị kích thích phóng noãn bình thường sẽ có vai trò quan trọng trong việc có con. Tùy từng nguyên nhân khác nhau, bác sĩ sẽ chỉ định phương pháp điều trị theo từng trường hợp của cặp vợ chồng.
Có lý do, nhưng chưa tìm ra
Đồng quan điểm này, tiến sĩ Nguyễn Duy Ánh, Phó giám đốc Bệnh viện Phụ sản Hà Nội, cho biết khi đi khám, kết quả tốt nhưng nhiều năm vẫn không có con, nhiều người băn khoăn, thắc mắc, thấy khó hiểu. Nhưng với các nhà chuyên môn, các trường hợp như vậy là vô sinh không rõ nguyên nhân (y học chưa tìm ra được). Nếu tuổi còn trẻ thì vợ chồng nên bình tĩnh chờ đợi, nhưng nếu tuổi cao (khoảng ngoài 30 tuổi trở lên), nên tính đến làm thụ tinh trong ống nghiệm, bởi từ 33 tuổi trở lên, khả năng có con sẽ giảm xuống. Tùy từng trường hợp cụ thể, nhưng thường một lần thụ tinh trong ống nghiệm, chỉ 30% - 35% là thành công. Nhiều trường hợp phải làm lại đến lần hai, lần ba… mới thành công.
Theo giáo sư Nguyễn Viết Tiến, cơ quan sinh dục chịu ảnh hưởng bởi yếu tố thần kinh. Stress, công việc căng thẳng cũng ảnh hưởng đến lượng tinh trùng cũng như hoạt động của buồng trứng. Ở những nơi có tập quán xây dựng gia đình muộn, tỷ lệ vô sinh sẽ cao hơn. Ngoài ra, nghề nghiệp (nghề phải tiếp xúc với phóng xạ) và các chứng viêm nhiễm ở cơ quan sinh dục, bệnh viêm nhiễm, nội tiết, sang chấn tâm lý… sẽ ảnh hưởng đến việc rụng trứng và thụ thai. Áp lực công việc, cũng như việc quan hệ tình dục trước hôn nhân khiến viêm lộ tuyến cổ tử cung cũng là nguyên nhân khó có con.
7. Gia tăng các bệnh mãn tính liên quan đến dinh dưỡng
Theo báo Giadinh.net - Theo nhận định của Viện Dinh dưỡng quốc gia, những năm gần đây các bệnh mãn tính liên quan đến dinh dưỡng như béo phì, tim mạch, tiểu đường và ung thư có xu hướng ngày càng gia tăng. Điều này cho thấy, chế độ dinh dưỡng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc ngăn ngừa bệnh.
Viện Dinh dưỡng thống kê, tỷ lệ thừa cân và béo phì ở nhóm 4-5 tuổi của TP Hồ Chí Minh là 2,5% và Hà Nội khoảng hơn 1%. Với nhóm 6-11 tuổi ở nội thành TP Hồ Chí Minh là 12%, nội thành Hà Nội là 4%. Riêng nhóm tuổi trưởng thành của Hà Nội, tỷ lệ này là 15% ở nam và 19% ở nữ. Các nghiên cứu cho thấy, có sự liên quan chặt chẽ giữa thừa cân và bệnh tăng huyết áp ở người trên 60 tuổi. Gần đây số trường hợp đột quỵ tăng gấp 3 lần so với 10 năm trước và tỷ lệ bị nhồi máu cơ tim tăng gấp 6 lần. Về bệnh ung thư, trên 35% các trường hợp ung thư được phát hiện có liên quan đến chế độ dinh dưỡng, đặc biệt là chế độ dinh dưỡng nhiều chất béo, đạm động vật và nhiễm hóa chất bảo vệ thực vật, các loại hạt có nhiễm độc tố Aflatoxin.
Thịt đỏ liên quan với ung thư thực quản và dạ dày?
Những người yêu thích thịt đỏ có nguy cơ mắc ung thư họng và dạ dày nhiều hơn những người ít ăn thịt bò rán, nướng, một nghiên cứu tại Mỹ chỉ rõ. TS Amanda J. Cross và các công sự ở Viện Ung thư quốc gia Mỹ, phát hiện ra rằng trong số gần 500.000 người Mỹ lớn tuổi, chỉ có 1 số ít mắc ung thư thực quản hay dạ dày trong vòng 1 thập kỷ qua. Tuy nhiên, nguy cơ này ở những người ăn nhiều thịt đỏ hay các hợp chất sinh ra trong quá trình chế biến thịt nhiều hơn hẳn những người ăn ít thịt đỏ nhất
Theo đó, những đối tượng tham gia nghiên cứu ở trong top đầu 20% ăn nhiều thịt đỏ nhất có tỉ lệ ung thư thực quản ác tính cao hơn nhóm 20% ăn ít thịt đỏ nhất tới 79%. Trong khi đó, nguy cơ ung thư ở phần trên của dạ dày gần thực quản cũng tăng lên ở những người “nạp nhiều” heterocyclic amine (HCA). HCAs là những hợp chất hình thành trong quá trình nấu chín thịt ở nhiệt độ cao, chẳng hạn như nướng trên lửa và chúng được chỉ ra là chất gây ung thư trong thí nghiệm trên động vật. Các nhà nghiên cứu cũng lưu ý việc hút thuốc và uống rượu mạnh sẽ làm tăng mạnh ngu cơ ung thư thực quản ác tính, trong khi béo phì lại làm tăng nguy cơ ung thư adenocarcinoma.trên thực tế, những khuyến nghị chính thức mang tính nhà nước đều khuyên người dân hạn chế tiêu thụ của các loại thịt đỏ và chế biến, vì lợi ích của sức khỏe bản thân.
Những phát hiện này được đăng tải trên tạp chí American Journal of Gastroenterology và các nhà nghiên cứu nhấn mạnh: “Không chứng minh được rằng thịt đỏ thúc đẩy hai bệnh ung thư”. Tuy nhiên, kết quả này đã bổ sung thêm những bằng chứng cho thấy sự liên quan giữa thịt đỏ và ung thư thực quản, ung thư dạ dày. TS Cross cũng khẳng định rằng cần tiếp tục có các nghiên cứu để xem liệu mối quan hệ giữa thịt đỏ và ung thư là có thật.
Năm 2007, nghiên cứu của Quỹ Nghiên cứu Ung thư thế giới và Viện nghiên cứu ung thư Mỹ đã kết luận rằng các loại thịt đỏ và chế biến có liên quan với một “nguy cơ nhất định” với ung thư thực quản. Báo cáo cũng nói rằng có những bằng chứng tương tự cho thấy sự liên quan giữa thịt chế biến sẵn và ung thư dạ dày.