Năm 2011, Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn cùng các tỉnh miền Trung-Tây Nguyên đã tăng cường cao chất lượng các biện pháp phòng chống sốt rét, khống chế sự gia tăng số mắc sốt rét và tử vong sốt rét, ngăn chặn dịch sốt rét xảy ra và đạt được các mục tiêu của Dự án Quốc gia PCSR. Tuy nhiên, kết quả đạt được chưa mang tính bền vững do đặc thù sốt rét khu vực có nhiều yếu tố thuận lợi cho sốt rét phát triển và lan truyền tự nhiên, lại chịu ảnh hưởng trực tiếp của biến đổi khí hậu toàn cầu (bão lụt thường xuyên xảy ra), đồng thời với tình trạng biến động dân cư khó kiểm soát (dân di cư tự do, đi rừng, ngủ rẫy, giao lưu biên giới) nên nguy cơ sốt rét quay trở lại và bùng phát thành dịch cao.
Tình hình sốt rét năm 2011
Các chỉ số sốt rét khu vực miền Trung-Tây Nguyên năm 2011 so với cùng kỳ 2010
Năm 2011 các chỉ số sốt rét ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên đều giảm so với cùng kỳ 2010, không có dịch sốt rét xảy ra, tuy nhiên ở một số tỉnh tình hình sốt rét vẫn gia tăng cục bộ do chưa kiểm soát được nguồn bệnh ngoại lai.
Các chỉ số sốt rét năm 2011 so với năm 2010
Mục tiêu 2010 | Chỉ số sốt rét | So sánh2011/2010 |
2011 | 2010 | % (+/-) |
Giảm mắc | -5% 1,27% DSC | Số BNSR Tỷ lệ BNSR/1000 DSC | 16.539 1,03 | 21.302 1,34 | - 22,36 - 23,13 |
Số KSTSR Tỷ lệ KSTSR/Lam Tỷ lệ KSTSR/1000 DSC | 11.348 0,90 0,71 | 12.251 1,14 0,77 | - 7,37 - 21,05 - 7,79 |
Số SRAT | 96 | 109 | - 11,93 + 23,33 |
Giảm chết | -5% 0,0470/0000 DSC | Số ca TVSR | 6 | 8 | - 25% |
Tử vong/100.000 DSC | 0,04 | 0,05 | - 20,00 |
Khống chế dịch | Số vụ dịch sốt rét | không | không | |
Tình hình BNSR và TVSRở các tỉnh khu vực năm 2011 so với 2010
TT | Tỉnh | BNSR | TVSR |
2010 | 2011 | % (+/-) | 2010 | 2011 | % (+/-) |
1 | Quảng Bình | 1.537 | 1.025 | -33,31 | 0 | 0 | |
2 | Quảng Trị | 1.327 | 1.121 | -15,52 | 1 | 0 | - 1 ca |
3 | TT-Huế | 165 | 162 | -1,82 | 0 | 0 | |
4 | TP. Đà Nẵng | 38 | 44 | +15,79 | 1 | 1 | - |
5 | Quảng Nam | 4.044 | 985 | -75,64 | 0 | 0 | |
6 | Quảng Ngãi | 428 | 207 | -51,64 | 0 | 0 | |
7 | Bình Định | 327 | 563 | +72,17 | 0 | 0 | |
8 | Phú Yên | 681 | 727 | + 6,75 | 1 | 0 | - 1 ca |
9 | Khánh Hòa | 2.464 | 1.630 | -33,85 | 2 | 0 | - 2 ca |
10 | Ninh Thuận | 1.602 | 1.181 | -26,28 | 0 | 0 | |
11 | Bình Thuận | 678 | 720 | + 6,19 | 1 | 0 | - 1 ca |
12 | Gia Lai | 2.917 | 3.641 | +24,82 | 2 | 2 | - |
13 | Kon Tum | 1.545 | 1.442 | -6,67 | 0 | 1 | + 1 ca |
14 | Đak lak | 2.236 | 2.243 | + 0,31 | 0 | 2 | + 2 ca |
15 | Đak Nông | 1.313 | 848 | -35,42 | 0 | 0 | |
| Miền Trung | 13.291 | 8.365 | -37,06 | 6 | 1 | - 5ca |
| Tây Nguyên | 8.011 | 8.174 | + 2,03 | 2 | 5 | + 3 ca |
| Toàn khu vực | 21.302 | 16.539 | -22,36 | 8 | 6 | - 2 ca |
Bệnh nhân sốt rét (BNSR)
So với cùng kỳ năm 2010 số bệnh nhân sốt rét (BNSR) toàn khu vực năm 2011 giảm 22,36%, trong đó miền Trung giảm 37,06% và Tây Nguyên tăng 2,03%.
9/15 tỉnh có BNSR giảm từ cao xuống thấp là Quảng Nam (-75,64%), Quảng Ngãi (-51,64%), Khánh Hòa (-33,85%), Đăk Nông (-35,42%), Quảng Bình (-33,31%), Ninh Thuận (-26,28%), Quảng Trị (-15,52%), Kon Tum (-6,67%), Thừa Thiên-Huế (-1,82%).
6/15 tỉnh có BNSR tăng là Bình Định (+72,17%), Gia Lai (+24,82%), Đà Nẵng (+15,79%), Phú Yên (+6,75%), Bình Thuận (6,19%), Đak Lak (+0,31%).
Ký sinh trùng sốt rét (KSTSR)
Tỷ lệ KSTSR/lam toàn khu vực năm 2011 giảm 21,05%, trong đó miền Trung giảm 38,89%, nhưng Tây Nguyên tăng 10,98% so với cùng kỳ 2010.
8/15 tỉnh có tỷ lệ KSTSR giảm bao gồm Quảng Nam (-83,73%), Quảng Bình (-51,55%), Quảng Ngãi (-43,33%), Đăk Nông (-37,11%), Ninh Thuận (-33,51%), Bình Thuận (-18,60%), Quảng Trị (-4,70%), Khánh Hòa (-1,04%).
7/15 tỉnh/thành phố có tỷ lệ KSTSR tăng bao gồm Bình Định (+76,47%), TP. Đà Nẵng (+47,92%), Thừa Thiên-Huế (+44,44%), Kon Tum (+31,37%), Phú Yên (+29,79%), Gia Lai (+18,75%), Đăk Lăk (+5,56%).
|
Cán bộ Viện đang lấy lam máu xét nghiệm cho đồng bào dân tộc thiểu số tại thực địa |
Sốt rét ác tính (SRAT)
Sốt rét ác tính (SRAT) toàn khu vực năm 2011 có 96 ca, giảm 11,93% so với cùng kỳ năm trước (96/109), Tây Nguyên số ca SRAT (55) không có sự khác biệt lớn so với miền Trung (50).
Số ca SRAT tập trung cao ở các tỉnh Đak Lak (25), Gia Lai (24), Khánh Hòa (8), Bình Định (7), Ninh Thuận (7), TP. Đà Nẵng (6) và rải rác ở các tỉnh khác.
Tử vong sốt rét (TVSR)
Mặc dù số ca SRAT còn cao ở một số tỉnh nhưng năm 2011 khu vực miền Trung-Tây Nguyên chỉ có 6 ca TVSR, giảm 2 ca so với cùng kỳ (6/8) ở Gia Lai (2), Đăk Lăk (2), Kon Tum (1) và TP Đà Nẵng (1) chứng tỏ các tuyến y tế của khu vực miền Trung-Tây Nguyên đã điều trị tích cực và hạn chế được số ca tử vong sốt rét.
Tuy nhiên một điều khác biệt với năm trước là năm 2011 số TVSR tập trung ở Tây Nguyên (5/6 ca), trong khi năm 2010 số TVSR lại cao hơn ở miền Trung (6/8 ca); số TVSR năm 2011 cao hơn ở 6 tháng đầu năm 4/6 ca (66,66%) và thấp hơn ở 6 tháng cuối năm 2/6 ca (33,33%), trong khi năm 2010 cũng như các năm trước số TVSR tập trung ở đỉnh bệnh cuối năm điều này cho thấy diễn biến TVSR ở các địa phương thất thường và khó kiểm soát.
Kết quả phân tích 6 trường hợp TVSR thấy có 5 ca người lớn (34-50 tuổi) và 1 ca trẻ em 5 tuổi; liên quan đến rừng rẫy (4), khai thác đá (1); tất cảcác trường hợp tử vong đều được xác định có KSTSR (+) trong máu mật độ cao (Ft++++), nhập viện muộn từ 2-10 ngày, biến chứng suy đa phủ tạng (3/6) hoặc thể não hôn mê sâu (3/6) vượt quá khả năng điều trị của các tuyến y tế.
Dịch sốt rét: không xảy ra.
Nguyên nhân gia tăng sốt rét ở một số địa phương
Qua các bảng số liệu thống kê thấy trong năm 2011, các chỉ số sốt rét giảm trên toàn khu vực nhưng lại gia tăng cục bộ ở một số địa phương như Bình Thuận, Bình Định, Gia Lai.
- Tại Bình Thuận, số BNSR 6 tháng đầu năm 2011 tăng 62,78% so với cùng kỳ năm 2010 (433/266), trong đó xã Bình Thạnh (huyện Tuy Phong) thuộc vùng sốt rét có nguy cơ quay trở lại nhiều năm liền không phát hiện BNSR, nhưng tháng 5/2011 có sự gia tăng số bệnh nhân mắc mới xuất phát từ ca bệnh ngoại lai từ Đak Nông, lan truyền bệnh tại chỗ do có sự hiện diện của muỗi An.minimus, đã được ngành y tế tỉnh và Viện phát hiện, xử lý kịp thời. 12 tháng năm 2011, số BNSR tỉnh Bình Thuận tăng 6,19% (720/678) chứng tỏ BNSR tăng chủ yếu ở 6 tháng đầu năm tại xã Bình Thạnh, Tuy Phong và đã được khống chế kịp thời nhờ áp dụng các biện pháp phòng chống dịch có hiệu quả. Ngoài ra một số huyện khác cũng có gia tăng số mắc sốt rét như Hàm Thuận Nam, Hàm Tân.
- Tại Gia Lai, số BNSR năm 2011 tăng 24,82% so với cùng kỳ 2010 (3.641/2.917), tỷ lệ KSTSR cũng tăng từ 1,44% (2010) lên 1,77% (2011) ở các huyện K Bang, An Khê, Ia Grai, Kon Chro, Đức Cơ, Krông Pa, Phú Thiện.
- Tại Bình Định,số BNSR năm 2011 tăng 72,17% so với năm 2010 (563/327) tập trung ở các huyện miền núi An Lão, Hoài Ân, Vĩnh Thạnh, Vân Canh và Tây Sơn.
Đánh giá kết quả hoạt động phòng chống sốt rét năm 2011
Trong năm 2011 ngành y tế các tỉnh trong khu vực và Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn đã phối hợp các hoạt động giám sát dịch tễ, truyền thông giáo dục và kịp thời chỉ đạo các biện pháp can thiệp khống chế sốt rét gia tăng nên không có dịch xảy ra.
Tuy nhiên sốt rét vẫn gia tăng cục bộ tại một số vùng do chưa kiểm soát được nguồn bệnh ngoại lai (ở các vùng sốt rét giảm thấp) và các vùng dân di biến động khó kiểm soát (di cư tự do, đi rừng, ngủ rẫy, giao lưu biên giới...), người dân chưa có ý thức tự bảo vệ khi sống trong vùng sốt rét lưu hành và tỷ lệ ngủ màn chưa cao; màng lưới y tế (huyện, xã, thôn bản) chưa kiểm soát được BNSR từ tuyến cơ sở.
Tổ chức chỉ đạo
Dự báo tình hình sốt rét gia tăng tại các vùng trọng điểm ngay từ đầu năm 2011 Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn đã gửi nhiều công điện khẩn đến các Sở Y tế, Trung tâm Phòng chống sốt rét/Trung tâm Y tế dự phòng và các bệnh viện tuyến tỉnh cảnh báo nguy cơ sốt rét và chỉ đạo tăng cường phòng chống sốt rét tại địa phương; đồng thời trực tiếp chỉ đạo phòng chống sốt rét tại các tỉnh có nguy cơ sốt rét cao như Gia Lai, Kon Tum, Đak Lak, Đak Nông, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận. Đặc biệt Viện đã cấp bổ sung mới 300 màn đôi cho nhân dân xã Bình Thạnh (huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận) khống chế không để xảy ra dịch sốt rét và tử vong do sốt rét ở địa phương này.
Thực hiện sự chỉ đạo của Viện và dự báo sớm được tình hình sốt rét, các tỉnh trong khu vực đã kịp thời thông báo cho các huyện tăng cường biện pháp phòng chống sốt rét, chủ động bổ sung các biện pháp can thiệp ở vùng có nguy cơ gia tăng sốt rét như vùng dân di biến động, vùng biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng có nguy cơ sốt rét quay trở lại; cấp ủy đảng và chính quyền địa phương duy trì đúng mức sự quan tâm chỉ đạo phòng chống sốt rét nhờ đó đã khống chế được sự gia tăng sốt rét tại các vùng trọng điểm.
Màng lưới chuyên khoa sốt rét các tuyến chú trọng nâng cao chất lượng các biện pháp chuyên môn kỹ thuật trong các chiến dịch PCSR và tích cực khống chế các vùng sốt rét có biến động, nhất là vào các thời điểm thiên tai, bão lụt; màng lưới y tế cơ sở (huyện, xã, thôn, bản, điểm kính hiển vi) đã tham gia tích cực các hoạt động kiểm soát sốt rét, tuy nhiên công tác phát hiện điều trị sớm và quản lý bệnh nhân sốt rét tại cơ sở còn nhiều khó khăn, nhất là vùng biên giới Việt-Lào (tỉnh Quảng Trị) do chưa có sự hợp tác biên giới chặt chẽ trong kiểm soát sốt rét.
Giám sát dịch tễ sốt rét và phòng chống dịch
Trong khuôn khổ Dự án Quốc gia PCSR cùng với sự hỗ trợ của Dự án Quỹ toàn cầu PCSR, Viện đã phối hợp với các tỉnh trong khu vực tổ chức nhiều đoàn giám sát dịch tễ sốt rét tại các vùng sốt rét trọng điểm và các vùng có nguy cơ sốt rét cao để đánh giá tình hình sốt rét, đề xuất giải pháp và khống chế kịp thời sự gia tăng sốt rét ở xã Bình Thạnh (huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận), Bình Định, Gia Lai cũng như nhiều “điểm nóng” sốt rét khác.
Tăng cường chỉ đạo nâng cao chất lượng các biện pháp PCSR và bổ sung các biện pháp phun tồn lưu hóa chất, tẩm màn và điều trị bệnh nhân ở những vùng có nguy cơ xảy dịch cao, nhất là vào thời điểm mùa truyền bệnh sốt rét cuối năm cũng là mùa bão lụt hàng năm. Công tác giám sát dịch tễ vùng trọng điểm đi đôi với chế độ giao ban hàng tháng từ dưới lên (xã, huyện, tỉnh) được duy trì thường xuyên, nhờ đó thông tin được phân tích, phản hồi các tuyến kịp thời khống chế gia tăng sốt rét và nguy cơ xảy dịch. Nhiều tỉnh trong khu vực đã chỉ đạo, giúp đỡ các tuyến xây dựng hệ thống dự báo dịch sớm, bước đầu phát huy hiệu quả trong công tác giám sát dịch tễ cũng như kiểm soát dịch.
Các địa phương gửi báo cáo sốt rét về Viện đúng thời gian quy định do đó Viện đã báo cáo kịp thời cho Bộ Y tế và phản hồi cho các địa phương, Viện đã tổ chức hướng dẫn cho các địa phương những thay đổi trong biểu mẫu thống kê báo cáo và các tỉnh trong khu vực đã triển khai thực hiện những thay đổi này.
Phòng chống vectơ
- Viện đã cung cấp hóa chất phun tẩm, đảm bảo cho các tỉnh triển khai đúng kế hoạch bảo vệ cho cộng đồng.
Bảng 3: Công tác phòng chống vectơnăm 2011
TT | Khu vực | Dân số bảo vệ phòng chống vectơ | Số màn được tẩm |
Lượt dân số bảo vệ | Phun tồn lưu (Fendona) | Tẩm màn |
1 | Miền Trung | 1.739.173 | 270.164 | 1.469.009 | 722.945 |
2 | Tây Nguyên | 1.805.442 | 297.114 | 1.508.328 | 745.310 |
3 | Toàn miền | 3.544.615 | 567.278 | 2.977.337 | 1.468.255 |
Viện thực hiện các đợt giám sát véc tơ truyền bệnh sốt rét và chiến dịch phun tẩm hóa chất, chỉ đạo các tỉnh nâng cao chất lượng biện pháp phun tồn lưu hóa chất, tẩm màn và xử lý bao bì hóa chất sau khi phun tẩm.
Đánh giá tình hình sử dụng màn và đo đạc kích thước nhà thực tế tại một số địa phương (do cấu trúc nhà có nhiều thay đổi so với trước đây) để tính toán lại lượng hóa chất định mức cho một đầu người/1 lần phun, để có cơ sở đề xuất Dự án quốc gia PCSR lập kế hoạch phòng chống véc tơ phù hợp.
Đánh giá mức độ nhậy cảm của muỗi truyền bệnh (Anopheles) với các loại hóa chất diệt côn trùng hiện dùng và hiệu lực diệt tồn lưu của hóa chất trên các loại tường vách và trên màn tẩm tại Quảng Bình, Bình Thuận, Bình Định, Gia Lai, Đăk Nông.
Chẩn đoán, điều trị và quản lý thuốc sốt rét
Viện cung cấp đủ thuốc sốt rét theo kế hoạch năm 2011, đáp ứng yêu cầu điều trị bệnh nhân sốt rét của các cơ sở y tế trong khu vực, đặc biệt là thuốc sốt rét được cấp đến y tế thôn bản giúp cho công tác điều trị sớm bệnh nhân cũng như cấp tự điều trị cho các đối tượng làm ăn xa cơ sở y tế trong các vùng sốt rét lưu hành theo chỉ định. Cử đoàn công tác chỉ đạo các tuyến bệnh viện Gia Lai, Đăk Lăk, Đắc Nông, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Ninh Thuận nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều trị sốt rét; điều tra nguyên nhân tử vong sốt rét, đồng thời tăng cường giám sát kháng thuốc và hiệu lực thuốc sốt rét hiện dùng tại một số điểm nghiên cứu thuộc các tỉnh Quảng Trị, Gia Lai và Ninh Thuận. Các tỉnh tăng cường thực hiện phát hiện sớm, điều trị kịp thời, phát huy hiệu quả hoạt động của các điểm kính hiển vi nhằm hạn chế sốt rét ác tính và tử vong do sốt rét.
Tỷ lệ gửi lam kiểm tra kỹ thuật chỉ đạt 44,60% theo chỉ tiêu đề ra, trong đó số lam (+) chỉ gửi 16,10%, số lam (-) gửi đạt 47,90% so với tổng số lam cần phải gửi. Các tỉnh gửi lam kiểm tra đạt tỷ lệ thấp gồm Phú Yên (8,9%), Quảng Ngãi (13,8%), Đak Lak (19,6%), Gia Lai (26,1%). Các tỉnh không gửi lam (+) như Quảng Bình (0), TT-Huế (0), Quảng Ngãi (0) hoặc gửi số lượng ít như Khánh Hòa (1,9%), Đak Lak (2,2%), Kon Tum (2,3%), Phú Yên (3,0%), Gia Lai (5,7%), Ninh Thuận (7,1%). Tỷ lệ sai sót chung theo hệ thống kiểm tra kỹ thuật là 0,07% thấp hơn so với năm 2010 (0,15%); trong đó tỷ lệ sai sót ở miền Trung là 0,04% và Tây Nguyên là 0,11%.
Bảng 4: Kết quả thực hiện công tác kiểm tra kỹ thuậtnăm 2011
TT | Khu vực | TS lam phải gửi | Lam tỉnh gửi kiểm tra | Tỷ lệ % | Số sai sót | Tỷ lệ sai sót chung |
1 | Miền Trung | 57.827 | 31.379 | 54,30 | 12 | 0,04 |
2 | Tây Nguyên | 52.373 | 17.755 | 33,90 | 20 | 0,11 |
3 | Toàn miền | 110.200 | 49.134 | 44,60 | 32 | 0,07 |
Truyền thông giáo dục và xã hội hóa PCSR
Công tác truyền thông giáo dục-xã hội hóa (TTGD-XHH) phòng chống sốt rét đạt hiệu quả là một trong những yếu tố bền vững củng cố thành quả PCSR, vì vậy công tác này được quan tâm và triển khai rộng ở các địa phương dưới nhiều hình thức như nói chuyện, phát thanh, thảo luận nhóm: 111.650 lần cho8.879.277 lượt người nghe; các tỉnh miền Trung tổ chức truyền thông trực tiếp tại hộ gia đình 21.792 lần cho 56.171 lượt người nghe, các tỉnh Tây Nguyên 2011 không triển khai biện pháp này; chiếu video và biểu diễn văn nghệ 6.476 buổi cho 4.297.393 lượt người xem; mỗi tỉnh khu vực chọn một huyện trọng điểm sốt rét để tổ chức ra quân thực hiện chiến dịch phòng chống sốt rét nhân ngày sốt rét thế giới 25-4 đồng thời với chiến dịch TTGD-XHH PCSR cho toàn dân.
Viện tổ chức Hội thi nâng cao kiến thức phòng chống sốt rét tại huyện Khánh Vĩnh (Khánh Hòa), Minh Long (Quảng Ngãi) và mít tinh, diễu hành phát động ngày thế giới PCSR 25/4/2011 tại huyện Chư Sê (Gia Lai) với hàng ngàn người tham dự; đồng thời đẩy mạnh hiệu quả hoạt động Website tên miền (http://impe-qn.org.vn) qua 6 năm (2005-2011) với trên 9,3 triệu lượt người truy cập, góp phần tích cực chuyển tải các thông tin y tế, thông tin chuyên ngành và nâng cao ý thức phòng chống bệnh dịch của cộng đồng.
3.6. Đào tạo và đào tạo lại
Viện tiếp tục đào tạo 3 lớp Trung học xét nghiệm cạnh Viện, tổ chức thi tốt nghiệp cho khóa 31 và tuyển sinh khóa 34; phối hợp với Trường Đại học Tây Nguyên, Đại học Y Dược Huế, Học viện Quân Y, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương giảng dạy và hướng dẫn sau đại học chuyên ngành ký sinh trùng và côn trùng. Tổ chức 11 lớp tập huấn nâng cao kỹ thuật xét nghiệm ký sinh trùng sốt rét bằng kính hiển vi và test chẩn đoán nhanh và 9 lớp dịch tễ sốt rét cho cán bộ y tế tuyến huyện theo nguồn kinh phí Dự án Quỹ toàn cầu PCSR. Được sự đồng ý của Bộ Y tế, Viện đã tổ chức 1 lớp về giám sát và đánh giá hệ thống y tế (30 học viên), 1 lớp về phương pháp nghiên cứu, phân tích số liệu trong nghiên cứu khoa học (20 học viên) và 1 lớp nâng cao năng lực kỹ thuật nghiên cứu sinh học phân tử (25 học viên). Tổ chức thành công Hội thi côn trùng giỏi lần thứ 2 cho cán bộ côn trùng khu vực miền Trung-Tây Nguyên nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng về lĩnh vực côn trùng.
Các tỉnh trong khu vực đã tiến hành đào tạo 426 lớp cho 11.411 học viên là cán bộ y tế cơ sở xã, thôn bản, cán bộ điều trị tại bệnh viện, xét nghiệm viên các tuyến nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tại địa phương.
Nghiên cứu khoa học
Viện đã phối hợp với các tỉnh triển khai các đề tài NCKH cấp Bộ, cấp cơ sở và hợp tác quốc tế về các lĩnh vực dịch tễ, côn trùng, ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc, ký sinh trùng đường ruột, lâm sàng và điều trị sốt rét; duy trì hoạt động sinh hoạt khoa học định kỳ một quý/một lần để cập nhật cho đội ngũ cán bộ khoa học Viện về thông tin chuyên ngành cũng như tình hình kiểm soát dịch bệnh trong nước và thế giới. Nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học cơ bản về di truyền sinh học, sinh học phân tử, miễn dịch học, nuôi cấy liên tục KSTSR, siêu âm, điện tim… cho cán bộ Viện và các tỉnh thông qua các chương trình/dự án hợp tác nghiên cứu trong nước và quốc tế.
Trong năm 2012, dự báo nguy cơ sốt rét gia tăng là rất lớn, thậm chí có khả năng xảy dịch ở một số vùng nên kế hoạch phòng chống sốt rét cần được chú trọng cả những vùng trọng điểm và những vùng sốt rét đã giảm thấp nhiều năm để duy trì thành quả đã đạt được.