Sốt rét ác tính thể não là một thể bệnh rất nặng dễ dẫn đến nguy cơ tử vong. Hiện nay tình hình sốt rét tại các địa phương đã giảm đáng kể nhưng thỉnh thoảng vẫn xuất hiện một số trường hợp sốt rét ác tính, nhất là ở bệnh nhân sốt rét ngoại lai. Khi đối diện với bệnh nhân sốt rét, cơ sởy tế cần tiên lượng sốt rét ác tính để chủ động xử trí kịp thời nhằm giảm tử vong.
Trong sốt rét ác tính, đặc biệt sốt rét ác tính thể não là thể khá phổ biến cần được cơ sở y tế tiên lượng để xử trí cấp cứu điều trị kịp thời, chính xác; đồng thời có cơ sở chỉ định mời tuyến trên đến tăng cường hoặc chuyển lên tuyến trên một cách hợp lý. Trên thực tế, căn cứ vào các yếu tố lâm sàng và sự tiến triển bệnh lý, tiên lượng bệnh được chia làm 4 mức độ gồm mức độ 1 trung bình, mức độ 2 nặng, mức độ 3 rất nặng, mức độ 4 dè dặt và xấu. Các nhà khoa học đã căn cứ vào triệu chứng lâm sàng và chỉ số sinh học để đánh giá tiên lượng
Triệu chứng lâm sàng có giá trị tiên lượng
Đối với sốt rét ác tính thể não, thường căn cứ vào các dấu hiệu lâm sàng gồm: mức độ rối loạn ý thức, co giật kiểu động kinh, tình trạng trương lực cơ, tổn thương phủ tạng, triệu chứng thần kinh khu trú, viêm bội nhiễm. Rối loạn ý thức ở mức độ 1 có dấu hiệu cuồng sảng, vật vã hoặc thờ ơ, khờ khạo trong thời kỳ khởi phát, điểm Glasgow người lớn từ 8 đến 12 điểm; ở mức độ 2 có dấu hiệu hôn mê cạn, còn phản xạ đau và phản xạ gân xương, điểm Glasgow người lớn từ 4 đến 7 điểm; ở mức độ 3 có dấu hiệu hôn mê sâu, mất phản xạ đau, mất phản xạ gân xương và da bụng - bìu, còn phản xạ giác mạc và đồng tử, điểm Glasgow người lớn 3 điểm; ở mức độ 4 có dấu hiệu hôn mê quá 6 ngày, mất phản xạ giác mạc, điểm Glasgow người lớn 3 điểm. Co giật kiểu động kinh ở mức độ 1 có dấu hiệu co giật cục bộ, xuất hiện lúc bệnh khởi phát vào ngày thứ nhất; ở mức độ 2 có dấu hiệu co giật toàn thân ngắn và thưa với 15 giây và khoảng 5 cơn trong 24 giờ, xuất hiện lúc bệnh khởi phát vào ngày thứ nhất; ở mức độ 3 có dấu hiệu co giật toàn thân dài và nhanh với 60 giây và 1 cơn trong 1 giờ, xuất hiện muộn vào ngày 2 - 4 của hôn mê; ở mức độ 4 có dấu hiệu co giật liên tục, ngừng thở cuối cơn, xuất hiện muộn vào ngày 2 - 4 của hôn mê. Trương lực cơ không tăng ở mức độ 1, chỉ tăng bắt đầu ở mức độ 2; ở mức độ 3 vẫn có dấu hiệu tăng trương lực cơ, có cơn duỗi cứng mất não và mất vỏ, có tư thế cổ lật ngược nhất là ở trẻ em; ở mức độ 4 có dấu hiệu cơn duỗi cứng mất não và mất vỏ, có tư thế cổ lật ngược nhất là ở trẻ em. Tổn thương phủ tạng không xảy ra ở mức độ 1; ở mức độ 2 có dấu hiệu rối loạn tiêu hóa thể giống tả, tiểu huyết cầu tố, xuất huyết chủ yếu là xuất huyết võng mạc; ở mức độ 3 có dấu hiệu sốc, suy gan cấp, phù phổi cấp, suy thận cấp, tiểu huyết cầu tố, xuất huyết chủ yếu là xuất huyết võng mạc; ở mức độ 4 có dấu hiệu sốc, suy gan cấp, phù phổi cấp. Triệu chứng thần kinh khu trú không xuất hiện ở mức độ 1; ở mức độ 2 và mức độ 3 có dấu hiệu liệt dây thần kinh sọ não; ở mức độ 4 có dấu hiệu liệt nửa người. Viêm bội nhiễm cũng không xuất hiện ở mức độ 1; ở mức độ 2 có dấu hiệu viêm phổi; ở mức độ 3 có dấu hiệu viêm phổi, viêm đường tiết niệu.
Các nhà khoa học ở nước ta ghi nhận bệnh nhân sốt rét ác tính thể não có những triệu chứng tiên lượng bệnh rất nặng, tương ứng mức độ 3 bao gồm: hôn mê sâu, điểm Glasgow ở người lớn 3 điểm, co giật kiểu động kinh dài, nhanh và xuất hiện muộn; có tổn thương phủ tạng như sốc, phù phổi cấp, suy gan cấp, suy thận cấp, tiểu huyết cầu tố, xuất huyết; liệt dây thần kinh sọ não, viêm phổi bội nhiễm. Những triệu chứng liên lượng dè dặt và xấu, tương ứng mức độ 4 bao gồm: hôn mê, điểm Glasgow người lớn 3 điểm, kéo dài quá 6 ngày; sốc kéo dài, suy gan cấp và phù phổi cấp, liệt nửa người.
Chỉ số sinh học có giá trị tiên lượng
Những chỉ số sinh học có ý nghĩa tiên lượng xấu được các nhà khoa học nghiên cứu trên những bệnh nhân sốt rét ác tính thể não ở người lớn đã ghi nhận một số kết quả như: Tỷ lệ hồng cầu bị nhiễm ký sinh trùng sốt rét chiếm hơn 50%. Số lượng ký sinh trùng sốt rét chiếm hơn 250.000 ký sinh trùng/µl máu. Thể phân liệt của ký sinh trùng sốt rét xuất hiện ở máu ngoại vi. Huyết cầu tố dưới 4,4 mmol/l tương ứng dưới 7,1 g/100 mg hoặc hematocrit dưới 20%. Đường huyết dưới 2,2 mmol/l tương ứng dưới 40 mg/100 ml. Urê huyết trên 21,4 mmol/l tương ứng trên 60 mg/100 ml. Men gan SGOT, SGPT tăng gấp 3 lần. Lactat tĩnh mạch trên 6 mmol/l. Lactat dịch não tủy trên 6 mmol/l. Antithrombin III giảm dưới 80% so với mức bình thường. Có đông máu rải rác nội mạch. Trên thực tế, nhiễm toan chuyển hóa và đông máu rải rác nội mạch là hai biến chứng rất nặng. Trong một nghiên cứu được thực hiện ở những bệnh nhân trẻ em mắc sốt rét ác tính thể não, các nhà khoa học đã ghi nhận có 8 yếu tố lâm sàng và xét nghiệm có giá trị tiên lượng bệnh gồm: Người bệnh dưới 3 tuổi. Bị hôn mê sâu. Cơn co giật xuất hiện 3 giờ sau khi nhập viện. Mất phản xạ giác mạc. Có dấu hiệu mất não biểu hiện tăng trương lực cơ, duỗi cứng mất vỏ và mất não, cổ lật ngược. Đường huyết hạ dưới 2,2 mmol/l. Bạch cầu tăng trên 15.000. Mật độ ký sinh trùng sốt rét trên 1.000.000 thể tư dưỡng/µl. Những bệnh nhân trẻ em mắc sốt rét ác tính thể não có 4 yếu tố trở lên có nguy cơ tử vong cao hoặc nếu sống thì để lại di chứng thần kinh gấp 8 lần so với những bệnh nhân trẻ em có 3 yếu tố trở xuống. Chỉ số nồng độ lactat huyết tương hoặc trong dịch não tủy, nồng độ men gan SGOT, SGPT và nồng độ 5’ nucleotidase có ý nghĩa tiên lượng không trực tiếp. Ngoài ra, một số yếu tố về cơ thể như phụ nữ mang thai nhất là mang thai con so, cắt bỏ lách, có suy giảm miễn dịch hoặc chưa có miễn dịch đối với bệnh sốt rét... đều là những yếu tố tạo nên điều kiện thuận lợi cho bệnh diễn biến nặng và trầm trọng.