Ngày 31/3/2011 tại Khách sạn La Thành-Hà Nội, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương tổ chức Hội nghị tổng kết công tác phòng chống sốt rét & giun sán giai đoạn 2006-2010 và triển khai kế hoạch công tác năm 2011.
Tham dự và chỉ đạo Hội nghị có GS.TS. Trịnh Quân Huấn-Thứ trưởng Bộ Y tế, Lãnh đạo các Cục/Vụ thuộc Bộ Y tế và các Bộ/ngành liên quan cùng trên 350 đại biểu là các giáo sư, phó giáo sư đầu ngành Ký sinh trùng; Lãnh đạo và cán bộ khoa học các Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng, Viện Vệ sinh dịch tễ Tây Nguyên, Viện Vệ sinh phòng dịch Quân đội; Viện Sinh thái-tài nguyên sinh vật; Lãnh đạo và giảng viên Bộ môn Ký sinh trùng các Trường Đại học Y Dược, Học Viện Quân y, Cao đẳng y Dược trên toàn quốc; đại diện Tổ chức Y tế thế giới (WHO) tại Việt Nam, Hội Ký sinh trùng học Việt Nam; Lãnh đạo Sở Y tế, Lãnh đạo và chuyên viên Trung tâm Phòng chống sốt rét/Trung tâm Y tế dự phòng 63 tỉnh/thành phố; các cơ quan thông tin đại chúng (đài, báo) trung ương và địa phương cũng có mặt và đưa tin Hội nghị.
Hội nghị đã nghe ý kiến phát biểu chỉ đạo của GS.TS. Trịnh Quân Huấn-Thứ trưởng Bộ Y tế; các báo cáo tổng kết công tác phòng chống sốt rét & giun sán toàn quốc giai đoạn 2006-2010 và triển khai kế hoạch năm 2011 của TS. Nguyễn Mạnh Hùng-Viện trưởng Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Trung ương, tổng kết công tác phòng chống sốt rét & giun sán 2006-2010 và triển khai kế hoạch năm 2011 ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên của PGS.TS. Triệu Nguyên Trung-Viện trưởng Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn, tổng kết công tác phòng chống sốt rét & giun sán 2006-2010 và triển khai kế hoạch năm 2011 ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên của TS. Lê Thành Đồng-Viện trưởng Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng TP. Hồ Chí Minh; một số phát biểu tham luận và thảo luận của các đại biểu tham dự Hội nghị.
Tại Hội nghị, GS.TS. Trịnh Quân Huấn đã trao tặng cờ thi đua và Bằng khen Bộ Y tế cho nhiều tập thể, cá nhân các đơn vị y tế từ tuyến trung ương đến địa phương đạt nhiều thành tích xuất sắc trong công tác phòng chống sốt rét giai đoạn 2006-2010.
 |
Toàn cảnh Hội nghị. |
Tình hình sốt rét 2006-2010
Trong 5 năm qua (2006-2010), Dự án quốc gia PCSR với mục tiêu tiếp tục đẩy lùi bệnh sốt rét, tập trung cao độ vào các vùng sốt rét lưu hành nặng và các nhóm nguy cơ cao (dân di biến động vào vùng sốt rét, phát triển các yếu tố bền vững nhằm ngăn chặn sốt rét quay trở lại đã đạt được thành công tốt đẹp.
So sánh các chỉ số sốt rét năm 2010 so với 2006, tỷ lệ chết sốt rét/100.000 dân giảm 48%, tỷ lệ mắc sốt rét/1.000 dân giảm 60%, không có dịch lớn do sốt rét xảy ra; nhiều tỉnh đã phát triển và duy trì được các yếu tố bền vững, giữ ổn định được tình tình sốt rét liên tục trong 5 năm liền. Thành quả nổi bật trong giai đoạn này là 59/63 tỉnh/thành phố không có dịch sốt rét (93,65%); có 56/63 tỉnh/thành phố tỷ lệ mắc sốt rét < 1,15/1.000 dân (88,88%); có 39/3 tỉnh/thành phố không có tử vong sốt rét (61,9%) và 30/63 tỉnh/thành phố 5 năm liền tỷ lệ chết sốt rét < 0,3/100.000 dân (47,61%).
So sánh với 9 nước khu vực Tây Thái Bình Dương năm 2008, số ca mắc sốt rét/tử vong sốt rét của Việt Nam là (60.547/25) thấp hơn các nước Papua New Guinea (1.474.117/628), Quần đảo Solomon (612.881/21), Vanuatu (237.343/1), Cambodia (46.637/209); nhưng lại cao hơn Trung Quốc (16.650/23), Lao PDR (19.676/13), Malaysia (9.215/29) và Philippines (23.998/0); với thành quả phòng chống sốt rét này đến năm 2010 các nước Trung Quốc, Malaysia, Philippines bắt đầu triển khai chiến lược loại trừ sốt rét, còn Việt Nam từ năm 2011 sẽ có hai chiến lược song hành là phòng chống sốt rét (malaria control cho các vùng còn sốt rét lưu hành) và loại trừ sốt rét (malaria elimination cho các vùng không còn sốt rét lưu hành hoặc sốt rét lưu hành nhẹ).
Theo kết quả phân vùng dịch tễ can thiệp để phòng chống sốt rét mới được ban hành năm 2010 so với năm 2003, các vùng sốt rét lưu hành ở Việt Nam đã được thu hẹp rất nhiều, hiện nay cả nước có gần 15,5 triệu dân sống trong vùng sốt rét lưu hành (không kể vùng có nguy cơ sốt rét quay trở lại), chiếm khoảng 18% dân số toàn quốc. Các vùng sốt rét lưu hành nặng ở Việt Nam tập trung chủ yếu ở khu vực Tây Nguyên, miền Trung, miền Đông Nam bộ, khu IV cũ và một số tỉnh thuộc miền núi phía Bắc.
Các đại biểu báo cáo tại Hội nghị tổng kết công tác phòng chống sốt rét & giun sán giai đoạn 2006-2010 và triển khai kế hoạch công tác năm 2011. |
Hoạt động phòng chống sốt rét 2006-2010
Trong 5 năm qua chất lượng các biện pháp phòng chống sốt rét như quản lý và điều trị bệnh nhân sốt rét, phòng chống véc tơ truyền bệnh và truyền thông giáo dục-xã hội hóa phòng chống sốt rét không ngừng được nâng cao. Thuốc sốt rét luôn đảm bảo cấp đủ và miễn phí tới tận người dân từ 500.000 đến 1 triệu liều mỗi năm, trong đó10-15% sử dụng cho điều trị bệnh nhân sốt rét và 80-85% cấp cho người dân giao lưu vào vùng sốt rét xa cơ sở y tế để tự điều trị thay thế cho điều trị dự phòng; đặc biệt là ưu tiên các thuốc sốt rét có hiệu lực cao như Artemisinine (2006-2009) và thay thế bằng thuốc phối hợp có gốc Artemisinine_ACT (từ 2010); các hoạt động giám sát kháng thuốc, hiệu lực thuốc điều trị và nâng cao chất lượng chẩn đoán, điểu trị sốt rét cũng như chất lượng xét nghiệm tại các cơ sở điều trị tại các tuyến y tế. Hàng năm có10-11 triệu dân sống trong vùng sốt rét lưu hành được bảo vệ bằng hóa chất diệt muỗi (phun tồn lưu, tẩm màn), đồng thời với các hoạt động giám sát véc tơ, thử sinh học xác định mức độ nhạy-kháng hóa chất của véc tơ truyền bệnh chính với hóa chất diệt. Các hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe và xã hội hóa phòng chống sốt rét được duy trì bằng nhiều hình thức, chú trọng các vật liệu truyền thông phù hợp với người dân tộc thiểu số; đặc biệt là hoạt động hưởng ứng ngày thế giới PCSR 25/4 hàng năm, hoạt động quân dân y kết hợp, hội nghị phòng chống sốt rét các tỉnh biên giới…
Công tác quản lý chương trình được đẩy mạnh như giám sát dịch tễ vùng trọng điểm, thông tin báo cáo và đánh giá hiệu quả hoạt động của chương trình, đào tạo và nghiên cứu khoa học; đặc biệt là trong 5 năm qua nguồn lực đầu tư cho phòng chống sốt rét vẫn được Chính phủ quan tâm (65 đến 95 tỷ đồng mỗi năm), cùng với sự hỗ trợ của Dự án Quỹ toàn cầu PCSR (3 triệu đến 8,5 triệu USD mỗi năm và nguồn hỗ trợ kỹ thuật của Tổ chức Y tế thế giới (20.000 đến 85.000 USD mỗi năm). Chính nhờ sự quan tâm đầu tư này dưới sự lãnh đạo của Bộ Y tế, sự chỉ đạo điều hành thống nhất chuyên môn thống nhất từ tuyến trung ương đến địa phương, sự hỗ trợ tích cực của các cấp chính quyền và các ban ngành liên quan, đặc biệt là sự nỗ lực không mệt mỏi của đội ngũ cán bộ làm công tác phòng chống sốt rét các tuyến nên thành quả phòng chống sốt rét đã đạt được hiệu quả tương đối vững chắc, làm bàn đạp cho Chiến lược phòng chống và loại trừ sốt rét giai đoạn 2011-2020 đạt được các đỉnh cao mới.
 |
 |
GS.TS. Trịnh Quân Huấn trao tặng cờ thi đua và Bằng khen Bộ Y tế cho các tập thể, cá nhân các đơn vị y tế từ tuyến trung ương đến địa phương đạt nhiều thành tích xuất sắc trong công tác phòng chống sốt rét giai đoạn 2006-2010. |
Kế hoạch phòng chống và loại trừ sốt rét năm 2011
Mặc dù công tác phòng chống sốt rét giai đoạn 2006-2010 đạt nhiều kết quả khả quan, nhưng gánh nặng sốt rét vẫn rất tiềm tàng và nguy cơ sốt rét quay trở lại đang hiện hữu ở các vùng sốt rét lưu hành nặng, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Bước sang giai đoạn mới (2011-2015) chúng ta đang phải đối mặt với không ít khó khăn thách thức do sự biến đổi khí hậu toàn cầu thuận lợi cho véc tơ truyền bệnh phát triển làm tăng khả năng lan truyền tự nhiên sốt rét, tình trạng di biến động dân số vào vùng sốt rét ngày càng gia tăng và khó kiểm soát, hiểu biết và thực hành phòng chống sốt rét của đồng bào các dân tộc thiểu số còn thấp nên chưa có ý thức tự bảo vệ khi sống trong vùng sốt rét lưu hành; thiếu nhân lực làm công tác phòng chống sốt rét từ tuyến trung ương đến cơ sở , nguồn tài chính hạn hẹp chủ yếu dựa vào kinh phí Nhà nước, cùng với tư tưởng chủ quan coi nhẹ các hoạt động phòng chống sốt rét ở các vùng sốt rét đã giảm thấp. Bên cạnh đó các khó khăn về chuyên môn kỹ thuật ngày càng gia tăng như ký sinh trùng sốt rét đa kháng thuốc hiện diện ở hầu khắp các vùng và đã có hiện tượng kháng các thuốc có hiệu lực cao (Artemisinine và dẫn chất); véc tơ truyền bệnh chính vùng núi (A,.minimus, An.dirus) đốt người ngoài nhà và trú đậu tiêu máu ngoài nhà, véc tơ truyền bệnh vùng ven biển Nam bộ (An.epiroticus) đã kháng với hầu hết hóa chất diệt nhóm Pyrethroid.
Từ thực trạng sốt rét nêu trên, có thể nói năm 2011 là năm bản lề cho Chiến lược phòng chống và loại trừ sốt rét với mục tiêu phòng chống sốt rét chủ động tích cực tại các vùng sốt rét lưu hành, triển khai loại trừ bệnh sốt rét ở các vùng sốt rét đã giảm thấp nhiều năm; đến năm 2011 tỷ lệ mắc sốt rét < 0,55/1.000 dân, tỷ lệ chết do sốt rét < 0,02/100.000 dân. Bước đầu triển khai loại trừ bệnh sốt rét tại các tỉnh đã đạt các tiêu chí để chuyển từ phòng chống sốt rét sang loại trừ bệnh sốt rét, góp phần chăm sóc sức khỏe nhân dân và sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước.
Các hoạt động phòng chống sốt rét trong giai đoạn này nhằm đảm bảo cho mọi người dân được tiếp cận các dịch vụ chẩn đoán sớm bệnh sốt rét, điều trị kịp thời, hiệu quả thông qua cơ sở y tế nhà nước và y tế tư nhân (80% người mắc sốt rét và nghi sốt rét được xét nghiệm máu tìm ký sinh trùng sốt rét, 95% người nhiễm ký sinh trùng P.falciparum được điều trị bằng thuốc sốt rét phối hợp (ACT), 62% bệnh nhân sốt rét được điều trị đúng phác đồ) với 800.000 lượt người được điều trị và 2.500.000 lam máu soi phát hiện KSTSR; đảm bảo diện tích bao phủ cho dân có nguy cơ mắc sốt rét bằng các biện pháp phòng chống muỗi truyền bệnh thích hợp (90% màn hiện có trong dân được tẩm lại hóa chất hàng năm và 97% hộ gia đình trong vùng được chỉ định phun tồn lưu hóa chất diệt muỗi) với 1.900.000 lượt người được bảo vệ bằng phun tồn lưu hóa chất và 9.100.000 lượt người được bảo vệ bằng tẩm màn; nâng cao tỷ lệ người dân sử dụng các dịch vụ phòng chống sốt rét và tăng cường huy động cộng đồng cùng tham gia phòng chống sốt rét thông qua truyền thông giáo dục sức khỏe phòng chống và loại trừ sốt rét; nâng cao năng lực hệ thống giám sát dịch tễ sốt rét và đảm bảo đầy đủ khả năng đáp ứng dịch (> 95% số thôn bản có cán bộ y tế hoạt động PCSR, không để dịch lớn xảy ra).
Các hoạt động loại trừ sốt rét sẽ được triển khai tại 16 tỉnh/thành phố không có sốt rét hoặc sốt rét lưu hành nhẹ (Hà Nội, Hải Phòng, Thái Bình, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hưng Yên, Hải Dương, Hà Nam, Nam Định, Vĩnh Long, An Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Long An, Tiền Giang và Trà Vinh); ban hành các tài liệu hướng dẫn về loại trừ sốt rét trên cơ sở hướng dẫn của WHO và tập huấn nội dung về loại trừ sốt rét.
Trong năm 2011 nguồn kinh phí phòng chống sốt rét từ nguồn ngân sách Nhà nước cấp là 105 tỷ đồng (97 tỷ đồng chi cho hoạt động phòng chống & loại trừ sốt rét, 7 tỷ đồng chi cho hoạt động phòng chống sốt rét kháng Artemisinine và dẫn chất, 1 tỷ đồng đối ứng Dự án Quỹ toàn cầu PCSR); tuy nhiên định mức chi cho các hoạt động từ nguồn ngân sách này còn rất hạn hẹp và không phù hợp với các văn bản hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí hiện hành của Thông tư 147/2007 liên Bộ Tài chính và Bộ Y tế; các địa phương, đơn vị chưa chủ động tích cực hỗ trợ thêm kinh phí cho các hoạt động phòng chống và loại trừ sốt rét.