Miền Trung-Tây Nguyên gồm 15 tỉnh với trên 15 triệu dân nằm trong khu vực trọng điểm sốt rét của cả nước, theo kết quả phân vùng dịch tễ sốt rét và can thiệp sắp được ban hành trong năm 2011 thì phần lớn vùng sốt rét lưu hành nặng và vừa đều tập trung ở khu vực này.
Trong 5 năm qua (2006-2010), mặc dù đã đạt được những kết quả đáng kể trong việc thực hiện các mục tiêu giảm chết, giảm mắc và không để dịch sốt rét xảy ra nhưng chưa mang tính bền vững; hiệu quả các biện pháp can thiệp và hoạt động của màng lưới y tế cơ sở còn hạn chế do chưa kiểm soát được các nhóm dân di biến động (dân di cư tự do, dân đi rừng, ngủ rẫy, giao lưu biên giới…), người dân chưa có ý thức tự bảo vệ khi sống trong vùng sốt rét lưu hành, lại phải thường xuyên đối mặt với thiên tai, bão lụt kéo dài trên diện rộng hàng năm nên nguy cơ sốt rét gia tăng trở lại và bùng phát thành dịch bất cứ lúc nào.
 |
sinh cảnh sốt rét tai địa phương |
Thực trạng tình hình sốt rét khu vực 2006-2010
So sánh các chỉ số sốt rét khu vực miền Trung-Tây Nguyên 2006-2010
So sánh các chỉ số sốt rét 2010 với 2006 thấy: bệnh nhân sốt rét (BNSR) giảm 44,46%, sốt rét ác tính (SRAT) giảm 43,23%, tử vong sốt rét (TVSR) giảm 68%, tỷ lệ ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) giảm 25,97%, không có dịch sốt rét xảy ra trong giai đoạn này.
TT | Năm | BNSR | SRAT | TVSR | %KSTSR | Dịch SR |
1 | 2006 | 38.351 | 192 | 25 | 1,54 | 0 |
2 | 2007 | 25893 | 97 | 13 | 0,93 | 0 |
3 | 2008 | 19485 | 85 | 14 | 0,69 | 0 |
4 | 2009 | 22331 | 113 | 16 | 1,03 | 0 |
5 | 2010 | 21302 | 109 | 8 | 1,14 | 0 |
| So sánh 2010/2006 | - 44,46% | - 43,23% | - 68,00% | - 25,97% | |
So sánh tỷ lệ tăng (+)/giảm (-)các chỉ số sốt rét giữa các khu vực 2006-2010
So sánh 2010 với 2006 giữa miền Trung và Tây Nguyên thấy các chỉ số sốt rét đều giảm, trong đó BNSR Tây Nguyên (-59,15%) giảm nhanh hơn miền Trung (-29,07%); TVSR tại Tây Nguyên (2 trường hợp), miền Trung (6 trường hợp); tỷ lệ KSTSR ở Tây nguyên giảm 53%, trong khi miền Trung tăng 5,11%.
TT | Chỉ số sốt rét | Khu vực | 2006 | 2007 | 2008 | 2009 | 2010 | % (-/+) 2006-2010 |
1 | BNSR | Miền Trung | 18738 | 15242 | 11433 | 12139 | 13291 | -29,07 |
Tây Nguyên | 19613 | 10651 | 8052 | 10192 | 8011 | -59,15 |
2 | SRAT | Miền Trung | 96 | 62 | 52 | 66 | 50 | -47,92 |
Tây Nguyên | 96 | 35 | 33 | 47 | 59 | -38,54 |
3 | TVSR | Miền Trung | 9 | 6 | 5 | 9 | 6 | -33,33 |
Tây Nguyên | 16 | 7 | 9 | 7 | 2 | -87,50 |
4 | %KSTSR | Miền Trung | 1,37 | 1,09 | 0,80 | 1,09 | 1,44 | +5,11 |
Tây Nguyên | 1,75 | 0,74 | 0,56 | 0,97 | 0,82 | -53% |
So sánh tỷ lệ tăng (+)/giảm (-)các chỉ số sốt rét giữa các tỉnh 2006-2010
Bệnh nhân sốt rét (BNSR)
So sánh chỉ số BNSR 2010 với 2006 ở 15 tỉnh khu vực, có 8 tỉnh có tỷ lệ giảm mắc đạt > 50% gồm Thừa Thiên-Huế (-79.01%), Kon Tum (-65.06%), Bình Định (-62.93%), Đak Nông (-61.75%), Quảng Ngãi (-58.29%), Gia Lai (-57.87%), Quảng Trị (-51.92%), Đà Nẵng (-51.89%); 4 tỉnh đạt từ 25% đến <50% gồm Quảng Bình (-48.66%), Đăk Lăk (-47.13%), Phú Yên (-30.72%), Khánh Hòa (-26.14%); 3 tỉnh có tỷ lệ sốt rét giảm chậm là Ninh Thuận (-8.04%), Bình Thuận (-6.22%), thậm chí gia tăng như Quảng Nam (+18%).
Tử vong sốt rét (TVSR)
Mặc dù năm 2010có 9 tỉnh không có TVSR và 6 tỉnh số TVSRthấp từ 1-2 trường hợp, tuy nhiên so sánh diễn biến qua các năm chỉ có 3 tỉnh có số TVSR giảm tương đối vững chắc là Thừa Thiên-Huế, TP.Đà Nẵng và Bình Định; các tỉnh còn lại không ổn định lúc tăng, lúc giảm.
Ký sinh trùng sốt rét (KSTSR)
So sánh năm 2010 so với 2006, có 5 tỉnh giảm chỉ số KSTSR ³ 50% gồm Gia Lai (-63.27%), Bình Định (-57.14%), Kon Tum (-54,25%), Thừa Thiên-Huế (-51.35%), Quảng Trị (-50%); có 5 tỉnh giảm chỉ số KSTSR < 50% gồm Đak Nông (-47%), Phú Yên (-44.71%), Quảng Bình (-42.26%%), Đak Lak (-25%), Đà Nẵng (-17.24%); Các tỉnh còn lai có chỉ số KSTSR gia tăng từ cao xuống thấp gồm Bình Thuận (+68.63%), Quảng Nam (+63.76%), Khánh Hòa (+19.88%), Ninh Thuận (19.75%) và Quảng Ngãi (+3%).
Cơ cấu KSTSR 2006-2010
TT | Năm | %P.f | %P.v | %P.m | %PH |
1 | 2006 | 84.03 | 15.04 | 0.01 | 0.93 |
2 | 2007 | 82.44 | 16.43 | 0.05 | 1.08 |
3 | 2008 | 85.28 | 13.70 | 0.12 | 0.90 |
4 | 2009 | 83.56 | 15.07 | 0.23 | 1.14 |
5 | 2010 | 76.45 | 21.98 | 0.20 | 1.36 |
Trong giai đoạn 2006-2010, cơ cấu chủng loại KSTSR hầu như không thay đổi, chủng có khả năng gây ác tính và tử vong là P.falciparum vẫn chiếm ưu thế tuyệt đối (76%-84%), P.vivax (15%-22%), P.malariae xuất hiện với tỷ lệ thấp (1%-1,3%).
Phân vùng dịch tễ sốt rét và can thiệp miền Trung-Tây Nguyên
Theo phân vùng dịch tễ và can thiệp 2009, khu vực miền Trung-Tây Nguyên có 1146 xã và6.383.517 dân thuộc vùng sốt rét lưu hành, trong đó:
-Vùng sốt rét lưu hành nặng: có 239 xã chiếm 11.40% (giảm 237 xã so với 2003) và 809.886 dân chiếm 5.19% (giảm 883.401 số dân so với 2003).
-Vùng sốt rét lưu hành vừa: có 347 xã chiếm 16.55% (giảm 11 xã so với 2003) và 1.439.735 dân chiếm 9.23% (giảm 707.901 số dân so với 2003).
-Vùng sốt rét lưu hành nhẹ: có 560 xã chiếm 26.70% số xã (tăng 279 xã so với 2003) và 4.133.896 dân chiếm 26.50% (tăng 1.522.930 dân).
-Vùng không có SRLH (46.13%) và nguy cơ sốt rét quay trở lại (12.95%).
Đặc điểm vùng sốt rét lưu hành nặng đồng thời cũng là vùng sâu, vùng xa, vùng trọng điểm kinh tế và quốc phòng, đời sống kinh tế của đồng bào các dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn nên nguy cơ mắc và xảy dịch sốt rét rất cao.
Các hoạt động phòng chống sốt rét 2006-2010
Hoạt động chỉ đạo tuyến
Trong 5 năm qua Chương trình PCSR luôn được coi là một trong những chương trình y tế quốc gia ưu tiên, được sự quan tâm đầu tư của Nhà nước, sự hỗ trợ của các địa phương vàtổ chức quốc tế, nhất là Dự án Quỹ toàn cầu PCSR; có hệ thống điều hành các hoạt động thống nhất từ trung ương đến địa phương nên đã xác định được các biện pháp can thiệp phù hợp, góp phần giảm thấp các chỉ số sốt rét theo mục tiêu đề ra.
Dự báo nguy cơ sốt rét và hệ thống giám sát dịch tễ được tiến hành đồng bộ từ Viện đến các địa phương nên thông tin sốt rét tại các “điểm nóng” được phân tích xử lý chính xác, kịp thời đưa ra các biện pháp ngăn chặn dịch ở các vùng sốt rét trọng điểm và vùng bị ảnh hưởng bởi thiên tai, bão lụt.
Mạng lưới y tế cơ sở và điểm kính hiển vi không ngừng được củng cố, từ 180 điểm kính hiển vi (1992) đến nay khu vực miền Trung-Tây Nguyên đã có trên 1000 điểm kính hiển vi (2010), trong đó có trên 970 điểm điểm kính hiển vi xã giúp cho việc phát hiện sớm và điều trị bệnh nhân sốt rét kịp thời ngay từ cơ sở.
 |
TS. Hồ Văn Hoàng-Phó Viện trưởng Viện Sốt rét - KST-CT Quy Nhơn khám bệnh cho bệnh nhân sốt rét tại địa phương |
Hoạt động quản lý và điều trị BNSR
Thuốc sốt rét có hiệu lực cao được cấp miễn phí và phân bổ kịp thời đến các địa phương, nghiên cứu kháng thuốc và hiệu lực các phác đồ chống kháng được duy trì hàng năm, góp phần đề xuất biện pháp điều trị thích hợp cho từng vùng và từng giai đoạn.
Do tình hình sốt rét ổn định nên số lượt điều trị bệnh nhân trong giai đoạn 2006-2010 giảm, tuy nhiên theo quy định mới trong những năm này nhiềuđối tượng đi rừng, ngủ rẫy hoặc giao lưu vào vùng sốt rét dài ngày được cấp thuốc tự điều trị thay vì điều trị dự phòng đối tượng nguy cơ như trước đây, với mục đích hạn chế sốt rét nặng và số rét ác tính khi nhiễm bệnh.
Viện thường xuyên phối hợp với các địa phương tổ chức giám sát chất lượng chẩn đoán và điều trị sốt rét tại các tuyến, nhất là phân tích nguyên nhân tất cả các ca tử vong sốt rét để chỉ đạo biện pháp khắc phục, hạn chế tử vong.
Hoạt động phòng chống vectơ
Biện pháp phun tồn lưu hóa chất và tẩm màn được tập trung chỉ định cho các vùng sốt rét trọng điểm, cùng với vận động người dân ngủ màn đã làm giảm tiếp xúc muỗi-người và hạn chế được sự lan truyền tự nhiên sốt rét.
Hoạt động đào tạo và truyền thông giáo dục PCSR
Hoạt động đào tạo và truyền thông giáo dục PCSR được nâng cao về số lượng cũng như chất lượng trong các năm 2007-2010, nhất là sử dụng các thông điệp và hình thức truyền thông phù hợp cho các đối tượng nguy cơ cao; phối hợp chặt chẽ với các ban ngành đoàn thể như Hội liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân, ngành Văn hóa-Thông tin, ngành Giáo dục, Quân y và Bộ đội biên phòng… xã hội hóa trong hoạt động PCSR.
Các tỉnh trong khu vực tổ chức chiến dịch ra quân phòng chống sốt rét đồng loạt nhân ngày 25-4 hàng năm, Viện đã tổ chức 3 lần phát động ngày sốt rét thế giới 25/4 tại Thừa Thiên-Huế (2008, 2010) và Đak Lak (2009).
Từ năm 2005 đến nay, Trang tin điện tử (Website) của Viện được duy trì đều đặn và có hiệu quả với gần 7 triệu lượt người truy cập, được xem là một kênh thông tin và truyền thông hữu ích đối với tất cả mọi đối tượng trong xã hội.
Hoạt động nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế
Hàng chục đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, cấp cơ sở và hợp tác quốc tế được tiến hành hàng năm nhằm tìm giải pháp phòng chống sốt rét phù hợp với đặc thù khu vực, đồng thời với nghiên cứu khoa học cơ bản và áp dụng các kỹ thuật cao tại labo để kịp thời tiếp cận với nền y học hiện đại.
Hợp tác quốc tế trong 5 năm qua chủ yếu là thực hiện Dự án Quỹ toàn cầu PCSR (vòng 3 & vòng 7), phối hợp nghiên cứu thí điểm sốt rét tại Khánh Phú của Tổ chức y tế Việt Nam-Hà Lan (MCNV), hợp tác nghiên cứu kháng thuốc sốt rét với Viện Sốt rét Quân đội Australia (AAMI), Tổ chức y tế thế giới (WHO)…
Các yếu tố ảnh hưởng đến tình hình sốt rét và khó khăn thách thức trong PCSR
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự lan truyền tự nhiên bệnh sốt rét
Mầm bệnh (Ký sinh trùng sốt rét)
Chủng P.falciparum luôn chiếm ưu thế tuyệt đối trong cơ cấu chủng loại KSTSR và được xác định là chủng đa kháng thuốc sốt rét (chloroquine, fansidar, mefloquine...),khó khăn cho việc điều trị và giảm tử vong.
Tỷ lệ ký sinh trùng lạnh trong cộng đồng rất khó phát hiện, tỷ lệ nhiễm KSTSR qua các điều tra cắt ngang nhiều nơi gần 10%, là nguồn bệnh thường xuyên tồn tại ở các vùng lưu hành sốt rét dễ bùng phát thành dịch khi gặp điều kiện thuận lợi.
Véc tơ truyền bệnh (Muỗi Anopheles)
Nguy cơ nhiễm sốt rét tại các vùng SRLH nặng và vừa còn cao, đặc biệt những vùng này lại có đặc điểm tự nhiên và khí hậu thuận lợi cho bệnh sốt rét lan truyền và phát triển. Kết quả điều tra côn trùng trong giai đoan 2006-2010 cho thấy vectơ chính truyền bệnh (An.minimus, An.dirus) vẫn tồn tại ở khắp các vùng sốt rét lưu hành, có xu hướng phục hồi trong khi đó mầm bệnh (KSTSR) vẫn tồn tại làm tăng khả năng lan truyền sốt rét và nguy cơ xảy dịch.
Qua phân tích số liệu giám sát vectơ năm 2009 có 8/9 điểm điều tra có sự hiện diện của An.minimus, 4/9 điểm có sự hiện diện của An.dirus; năm 2010 có 11/13 điểm điều tra có sự hiện diện của An.minimus, 7/139 điểm có sự hiện diện của An.dirus. Tỷ lệ muỗi Anopheles nhiễm KSTSR trung bình 0,8%. An.minimus và An.dirus còn nhạy cảm với ICON và Fendona; một số nơi An.vagus kháng với ICON và Fendona, An.maculatus và An.aconitus tăng sức chịu đựng.
Thời tiết và khí hậu thay đổi
Khu vực miền Trung-Tây Nguyên có điều kiện khí hậu thuận lợi cho muỗi và KSTSR phát triển quanh năm, bão lụt thường xuyên kéo dài ở hầu khắp các vùng, không chỉ làm cho tình hình sốt rét diễn biến phức tạp mà còn hạn chế hiệu quả biện pháp PCSR đã tác động.
Khó kiểm soát dân di biến động vào vùng sốt rét
Dân đi rừng, ngủ rẫy và di cư tự do
Mặc dù trong giai đoạn 2006-2010 số dân di cư tự do tại Tây Nguyên không nhiều như giai đoạn 2000-2005 nhưng các biện pháp quản lý đối tượng này vẫn gặp khó khăn, tại những vùng có dân di cư tự do hệ thống y tế thiếu về số lượng, yếu về chất lượng không đủ khả năng phát hiện và quản lý bệnh nhân; trong khi đó mầm bệnh và vectơ lan truyền vẫn tồn tại, các biện pháp bảo vệ khó đảm bảo hiệu quả tuyệt đối cho các cộng đồng này.
Bên cạnh đó nhiều cộng đồng người dân tộc của các tỉnh miền Trung (Quảng Ngãi, Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận) và các tỉnh Tây Nguyên (Gia Lai, Kon Tum, Đak Lak, Đak Nông) vẫn còn hoạt động làm nương rẫy, làm nhà rẫy và ngủ lại đó trong thời gian mùa vụ; một số lớn người dân vào rừng khai thác lâm thổ sản, chặt cây, tìm vàng... làm gia tăng tỷ lệ nhiễm.
|
Cán bộ Viện Sốt rét - KST-CT Quy Nhơn trong chuyến đi công tác tại địa phương |
Hiệu quả các biện pháp cho các nhóm dân này rất hạn chế vì phun tồn lưu hoá chất trong nhà, thì họ lại thường xuyên vào rừng và ngủ rẫy, cùng với thói quen không ngủ màn tại càng làm tăng thêm nguy cơ nhiễm bệnh, trong khi bị sốt rét ác tính vận chuyển và cấp cứu rất khó khăn nên tử vong là nguy cơ rất cao.
Sự bảo vệ nhân công tại các công trình kinh tế, giao thông
Hiện nay do nhu cầu phát triển kinh tế và xã hội, nhiều công trình thuỷ điện đang được triển khai tại các tỉnh (Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên, Bình Thuân, Gia Lai, Kon Tum, Đak Nông...); đường giao thông Hồ Chí Minh, Đông Trường Sơn qua các tỉnh Tây Nguyên và miền núi thuộc các tỉnh miền Trung với một số lượng lớn công nhân được huy động từ các nơi làm tăng tính phức tạp của tình hình sốt rét.
Hệ thống y tế tại các công trình này ít có sự liên hệ với ngành y tế địa phương trong việc bảo vệ phòng chống sốt rét, nên dịch sốt rét có nguy cơ xảy ra nếu họ không có biện pháp quản lý và dự phòng kịp thời.
Nhiễmsốt rét do giao lưu biên giới
Tại các vùng biên giới (Việt-Lào, Việt-Campuchia) giao lưu biên giới làm cho nguy cơ lan truyền sốt rét tiếp diễn và phức tạp, việc kiểm dịch biên giới tập trung tại các cửa khẩu, nhưng sự giao lưu và nhiễm bệnh lại chủ yếu thông qua các đường tiểu ngạch nên rất khó khăn trong việc quản lý BNSR
Phân tích số liệu BNSR (2006-2010) ở xã Lao Bảo, huyện Hướng Hoá (Quảng Trị) thấy tình hình giao lưu và mắc bệnh tại biên giới Việt Lào rất phức tạp; một số bệnh nhân mắc bệnh sau khi đi qua Lào trở về, một số là người Lào mắc bệnh được y tế xã quản lý, một số nhiễm từ các vùng SRLH khác nhau.
Hoạt động PCSR của màng lưới y tế cơ sở còn hạn chế
Màng lưới y tế cơ sở các tuyến (huyện, xã, thôn bản) mặc dù có tham gia các hoạt động PCSR nhưng do số lượng thiếu, trình độ hạn chế nên ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả của biện pháp.
Y tế huyện: trong thời gian qua có sự thay đổi về tổ chức lại kiêm nhiệm quá nhiều chương trình/dự án nên việc lựa chọn ưu tiên cho từng chương trình chưa được quan tâm, bên cạnh đó cán bộ dự phòng chủ yếu có trình độ trung cấp, một số đi học nên ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động phòng chống sốt rét.
Y tế xã: mỗi xã có 4-5 cán bộ/xã hoạt động chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, nhưng do kiêm nhiệm quá nhiều chương trình nên việc giám sát cơ sở không được thường xuyên; việc thực hiện điều trị BNSR mới ở mức độ cấp phát thuốc, chưa kiểm soát được bệnh nhân trong và sau điều trị.
Y tế thôn bản: mỗi thôn bản có 1 nhân viên y tế nhưng trình độ không đồng đều, khoảng 55% nhân viên y tế thôn bản được đào tạo 3 tháng, hiệu quả hoạt động phòng chống sốt rét chưa cao, 45% chưa qua đào tạo cơ bản chỉ là cộng tác viên hoặc tình nguyện viên chuyển qua nên chưa giúp gì nhiều cho việc quản lý điều trị bệnh sốt rét và các bệnh khác tại tuyến thôn bản, bên cạnh đó chế độ trợ cấp có thay đổi nhưng vẫn thấp nên nhân viên y tế không yên tâm công tác.
Thiết bị kính hiển vi hư hỏng
Miền Trung Tây Nguyên hiện có 1.096 điểm kính hiển vi phục vụ công tác xét nghiệm tìm KSTSR, nhưng có 363 kính hỏng cần bổ sung trang thiết bị, đặc biệt là vật kính dầu. Với những hư hỏng này nếu không có những thay thế kịp thời sẽ ảnh hưởng đến độ chính xác của xét nghiệm, dẫn đến sai lầm trong chẩn đoán và điều trị.
Các giải pháp chính trong kế hoạch phòng chống sốt rét năm 2011
Chỉ tiêu thực hiện
Dân số được bảo vệ bằng hóa chất diệt muỗi: 3.419.000 người, trong đó:
+ Bảo vệ bằng phun hóa chất tồn lưu: 593.000 người;
+ Bảo vệ bằng màn tẩm hóa chất: 2.826.000 người.
Số lượt người được điều trị sốt rét: 231.000 người.
Số lam máu phát hiện KSTSR: 997.000 lam .
Tăng cường chỉ đạo tuyến và giám sát dịch tễ tại các vùng trọng điểm
Chỉ đạo triển khai kế hoạch phòng chống sốt rét phù hợp với đặc thù của từng địa phương, tăng cường kiểm tra, giám sát dịch tễ sốt rét các vùng trọng điểm; đặc biệt là các vùng bị ảnh hưởng lũ lụt để phát hiện và xử lý, kịp thời ngăn chặn sốt rét gia tăng và nguy cơ xảy dịch, hạn chế tử vong sốt rét ở các đối tượng di biến động (dân di cư tự do, đi rừng, ngủ rẫy, giao lưu biên giới).
Tập trung đầu tư PCSR cho các vùng SRLH nặng, có tỷ lệ mắc và chết sốt rét cao; đặc biệt là các tỉnh Quảng Nam, Đak Lak, Gia Lai, Kon Tum, Đak Nong, Khánh Hoà nơi có số BNSR và TVSR cao hơn hẳn các nơi khác.
Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động giám sát dịch tễ của tuyến huyện, tuyến xã và các điểm kính hiển vi; duy trì họp giao ban hàng tháng ở cơ sở để nắm bắt tình hình sốt rét kịp thời giúp cho công tác chỉ đạo và phòng chống sốt rét có hiệu quả; chú trọng kết hợp quân dân y trong phòng chống sốt rét ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới.
Xây dựng các định nghĩa và tiêu chuẩn về yếu tố bền vững, triển khai tập huấn các biểu mẫu báo cáo thống kê sốt rét mới đảm bảo nhanh chóng, chính xác; xây dựng các điểm điều tra giám sát cố định tại các vùng sốt rét trọng điểm để dự báo tình hình sốt rét, phát triển và nâng cao vai trò hệ thống giám sát dịch tễ ở các tuyến để làm tốt công tác giám sát tình hình sốt rét ở địa phương, đặc biệt là ứng dụng phần mềm quản lý sốt rét MMS (Malaria Management System) có hiệu quả trong dự báo dịch sốt rét ở tuyến tỉnh và triển khai thực hiện ở một số huyện trọng điểm sốt rét có nguy cơ xảy dịch cao.
Nâng cao chất lượng phòng chống véc tơ
Chỉ định phun tẩm hóa chất trên cơ sở phân vùng dịch tễ sốt rét & can thiệp mới ban hành đảm bảo độ bao phủ theo kế hoạch được giao, nâng cao chất lượng kỹ thuật phun tẩm hóa chất bằng cách tập huấn kỹ thuật cho y tế cơ sở; tổ chức phối hợp kiểm tra, giám sát chất lượng phun tẩm trong các đợt triển khai chiến dịch phòng chống véc tơ.
ưu tiên phòng chống sốt rét cho các vùng có dân di biến động khó kiểm soát, tìm các giải pháp khắc phục tình trạng thiếu màn, tỷ lệ ngủ màn thấp; tuyên truyền vận động nhân dân nằm màn, đi rừng/ngủ rẫy phải mang theo màn nằm để bảo vệ cá nhân;
Giám sát biến động vectơ truyền sốt rét dưới tác động của biến đổi khí hậu, môi trường, xã hội, sự phục hồi của vectơ sốt rét trong quá trình phòng chống sốt rét. Hướng dẫn cán bộ côn trùng tuyến tỉnh tiến hành giám sát véc tơ sốt rét ở các vùng trọng điểm, vùng có di biến động dân, đánh giá tác dụng tồn lưu hóa chất diệt muỗi trên màn, trên tường vách để có biện pháp xử lý kịp thời và đề xuất biện pháp phòng chống véc tơ có hiệu quả.
Quản lý, sử dụng và bảo quản tốt bình phun, hóa chất diệt muỗi tránh thất thoát hư hỏng, xử lý bao bì đựng húa chất diệt muỗi sau khi phun tẩm theo đúng quy định.
Nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều trị bệnh nhân sốt rét
Tăng cường công tác kiểm tra và giám sát điều trị sốt rét ở các tuyến bệnh viện tỉnh, huyện, trạm y tế xã và điểm kính hiển vi ở các vùng trọng điểm sốt rét; cấp thuốc sốt rét tự điều trị đầy đủ cho đối tượng đi rừng, ngủ rẫy khi đi xa cơ sở y tế nhiều ngày; phát hiện sớm và điều trị sốt rét kịp thời cho các nhóm dân di biến động.
Phối hợp với các tuyến bệnh viện có tử vong sốt rét cao tìm nguyên nhân tử vong, đề xuất biện pháp nâng cao chất lượng chẩn đoán, điều trị sốt rét và hạn chế số ca tử vong.
Tăng cường công tác quản lý, phân phối, sử dụng và bảo quản thuốc sốt rét; đảm bảo cung cấp đầy đủ thuốc sốt rét miễn phí đến tận người dân.
Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền phòng chống sốt rét
Đẩy mạnh công tác truyền thông giáo dục-xã hội hóa phòng chống sốt rét bằng các hình thức phù hợp với từng địa phương, phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động của màng lưới truyền thông viên, phối hợp có hiệu quả với các đoàn thể, ban ngành địa phương để phát động chiến dịch TTGD-XHHPCSR; tổ chức hội thi kiến thức PCSR và truyền hình trực tuyến về phòng chống sốt rét ở các vùng trọng điểm sốt rét,cung cấp đầy đủ các tài liệu, tranh ảnh, băng cassette, băng video về phòng chống sốt rét cho các tuyến.
Phối hợp với các tỉnh Tây Nguyên tổ chức lễ phát động truyền thôngngàysốt rét thế giới (25/4), hỗ trợ hai tỉnh Khánh Hòa và Quảng Ngãi tổ chức Hội thi kiến thức phòng chống sốt rét tại một số xã vùng sâu, vùng xa.
Nâng cao chất lượng đào tạo và đào tạo lại về phòng chống sốt rét
Đào tạo Kỹ thuật viên trunghọc xét nghiệm theo chỉ tiêu của Bộ Y tế và Bộ Giáo dục-Đào tạo giao (80 chỉ tiêu chính quy và 40 chỉ tiêu vừa học vừa làm), hoàn tất thủ tục nâng cấp Khoa Đào tạo thành Trường Trung cấp kỹ thuật xét nghiệm khu vực miền Trung-Tây Nguyên; phối hợp với các trường đại học, các viện nghiên cứu trong cả nước đào tạo đại học và sau đại học chuyen ngành ký sinh trùng.
Đào tạo lại hoặctập huấn ngắn hạn cho màng lưới cán bộ các tuyến về dịch tễ học sốt rét, côn trùng sốt rét, chẩn đoán và điều trị sốt rét, kỹ thuật xét nghiệm ký sinh trùng sốt rét theo kế hoạch của Dự án quốc gia PCSR, Dự án Quỹ toàn cầu PCSR và Tổ chức Y tế thế giới (WHO). Tập trung đào tạo và quản lý y tế thôn bản, y tế xã trong PCSR theo phương pháp đào tạo tích cực tại cơ sở
Tổ chức Hội thi kỹ thuật viên giỏi về côn trùng khu vực miền Trung-Tây Nguyên để nâng cao tay nghề, đồng thời với trao đổi và học hỏi kinh nghiệm về công tác côn trùng giữa các tỉnh trong khu vực.
Nghiên cứu khoa học, công nghệ thông tin và hợp tác quốc tế
Các đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, cấp cơ sở và hợp tác quốc tế chủ yếu tập trung giải quyết các vấn đề tồn tại, bức xúc trong phòng chống sốt rét hiện nay như nghiên cứu và ứng dụng các biện pháp PCSR cho các đối tượng di biến động ( di dân tự do, di dân lao động theo mùa vụ, dân có tập quán ngủ rẫy theo muà vụ .v.v...). Tổng kết đưa vào ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học, các mô hình phát triển các yếu tố bền vững trong PCSR, tăng cường kiểm tra, đánh giá và khen thưởng đối với các hoạt động PCSR. Theo dõi, đánh giá ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc Artemisinin và hiệu lực các thuốc chống sốt rét hiện nay; nghiên cứu sinh phân tử KSTSR kháng thuốc, phát hiện các đột biến kháng thuốc, hình thành bản đồ dịch tễ học kháng thuốc, xây dựng hệ thống giám sát sốt rét kháng thuốc đồng bộ từ trung ương đến địa phương. Nghiên cứu sự biến đổi của mùa truyền bệnh dưới tác động của biến đổi khí hậu, nghiên cứu sinh học phân tử xác định cơ chế kháng hóa chất của muỗi, xây dựng bản đồ phân bố muỗi kháng hóa chất tại miền Trung-Tây Nguyên; nghiên cứu lựa chọn các loại hóa chất thích hợp phòng chống vectơ, chú ý các nhóm dân di biến động, đi rừng ngủ rẫy, giao lưu biên giới.
Ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin trong phạm vi chuyên ngành, đặc biệt là hiệu quả của Trang tin điện tử (Website) trong truyền thông giáo dục phòng chống sốt rét, phòng chống các bệnh ký sinh trùng và côn trùng, cập nhật thông tin khoa học.
Tiếp tục hợp tác với Quỹ toàn cầu phòng chống sốt rét (VGF) vòng 7, Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Ủy ban Y tế Hà Lan-Việt Nam (MCNV) triển khai các hoạt động nghiên cứu và phòng chống sốt rét theo kế hoạch; phối hợp với Viện nghiên cứu sốt rét Quân đội Australia (AAMI) và Viện Vệ sinh phòng dịch quân đội Việt Nam (MIHE) nghiên cứu về ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc.
Quản lý thuốc sốt rét, hóa chất, vật tư, kinh phí phòng chống sốt rét
Cung cấp đầy đủ và kịp thời thuốc sốt rét, hóa chất phun; tẩm và vật tư phòng chống sốt rét để các tỉnh kịp triển khai các chiến dịch phòng chống sốt rét theo kế hoạch. Tổ chức kiểm tra, giám sát việc sử dụng thuốc sốt rét, hóa chất, vật tư và kinh phí phòng chống sốt rét ở các tuyến.
Thực hiện tốt công tác quản lý và báo cáo vật tư, kinh phí phòng chống sốt rét theo quy định của Dự án quốc gia phòng chống sốt rét; báo cáo quyết toán thuốc, hóa chất và vật tư đúng hạn, sử dụng đúng kinh phí được cấp, không để thuốc sốt rét và hóa chất quá hạn, kém phẩm chất hoặc thất thoát.
Xây dựng kế hoạch phòng chống sốt rét hàng năm từ địa phương phù hợp với nhu cầu thực tế, tránh tình trạng thừa thiếu gây lãng phí và đảm bảo gửi kế hoạch phòng chống sốt rét hàng năm đúng thời gian quy định.
Thống nhất cơ cấu phân bổ nguồn kinh phícủa DAQGPCSR cũng như nguyên tắc làm việc của Ban chủ nhiệm DAQGPCSR để việc triển khai thực hiện kế hoạch phòng chống sốt rét năm2011 phù hợp với thực tế và đạt hiệu quả mong muốn.