Một số năm gần đây sốt rét ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên đang có xu hướng giảm thấp nên không ít ý kiến ngộ nhận rằng tình hình phòng chống sốt rét đang tiến triển thuận lợi, có thể chuyển sang giai đoạn tiền loại trừ hoặc loại trừ sốt rét, thậm chí không cần tiếp tục chương trình phòng chống sốt rét ở Việt Nam ? Chúng ta phải hiểu rõ bản chất của vấn đề này khi “ngọn lửa sốt rét” vẫn ngày đêm âm ỉ trong “ngọn núi lửa miền Trung-Tây Nguyên” và sẵn sàng phun trào dịch sốt rét bất cứ lúc nào ?
Những năm gần đây mặc dù các chỉ số sốt rét có chiều hướng giảm dần nhưng không mang tính bền vững, hàng năm số mắc sốt rét và số chết sốt rét vẫn gia tăng cục bộ ở các địa phương nên phân bố các nhóm tỉnh thực hiện chiến lược phòng chống và loại trừ sốt rét ngoài những tiêu chuẩn quy định cần xem xét các yếu tố nguy cơ và đặc thù sốt rét khu vực miền Trung-Tây Nguyên.
Mầm bệnh (KSTSR)
KSTSR P.falciparum là chủng gây sốt rét ác tính và tử vong luôn chiếm ưu thế tuyệt đối trong cơ cấu chủng loại KSTSR, đã kháng cao trên diện rộng với nhiều loại thuốc sốt rét (chloroquine, fansidar, amodiaquine) và giảm đáp ứng với các thuốc sốt rét có hiệu lực cao (artemisinine, quinine) khó khăn cho việc điều trị và giảm tử vong.
Tỷ lệ ký sinh trùng lạnh tiềm ẩn trong cộng đồng rất khó phát hiện, tỷ lệ nhiễm KSTSR tại các điểm điều tra cắt ngang nhiều nơi gần 10%, là nguồn bệnh thường xuyên tồn tại ở các vùng sốt rét dễ bùng phát thành dịch khi gặp điều kiện thuận lợi.
Véc tơ truyền bệnh (muỗi Anopheles)
Nguy cơ nhiễm sốt rét tại các vùng SRLH nặng và vừa còn cao, đặc biệt những vùng này lại có đặc điểm tự nhiên và khí hậu thuận lợi cho bệnh sốt rét lan truyền và phát triển quanh năm. Kết quả điều tra côn trùng giai đoạn 2006-2010 cho thấy véc tơ chính truyền bệnh (An.minimus, An.dirus) vẫn tồn tại với mật độ cao ở khắp các vùng sốt rét lưu hành, có xu hướng phục hồi cùng với mầm bệnh (KSTSR) luôn tiềm ẩn trong cộng đồng làm tăng khả năng lan truyền tự nhiên sốt rét và nguy cơ xảy dịch.
Qua phân tích số liệu giám sát véc tơ năm 2009 có 8/9 điểm điều tra có sự hiện diện của An.minimus, 4/9 điểm có sự hiện diện của An.dirus. Năm 2010 có 11/13 điểm điều tra có sự hiện diện của An.minimus, 7/13 điểm có sự hiện diện của An.dirus. Tỷ lệ muỗi Anopheles nhiễm KSTSR trung bình 0,8%. Mặc dù An.minimus và An.dirus còn nhậy cảm với hóa chất diệt hiện dùng (ICON và Fendona); nhưng một số nơi véc tơ phụ như đã kháng (An.vagus) hoặc tăng sức chịu đựng (An.maculatus và An.aconitus) đã tăng sức chịu đựng với các loại hóa chất này.
Dân di biến động vào vùng sốt rét khó kiểm soát
Đặc thù hoạt động canh tác của cộng đồng dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền Trung (Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận) và Tây Nguyên (Gia Lai, Kon Tum, Đắc Nông, Đăk Lăk) là làm rẫy, ngủ rẫy ở rừng sâu có sốt rét lưu hành nặng; cùng với số lượng lớn người dân từ các tỉnh đồng bằng vào rừng khai thác (lâm thổ sản, chặt cây, tìm vàng…), dân di cư tự do từ các tỉnh miền núi phía Bắc vào Tây Nguyên ngoài tầm kiểm soát của chính quyền cũng như y tế địa phương. Những vùng có dân đi rừng, ngủ rẫy và di cư tự do cũng là những vùng trọng điểm sốt rét, tuy nhiên hiệu quả các biện pháp PCSR cho các nhóm dân này rất hạn chế vì phun tồn lưu hóa chất trong nhà thì họ lại thường xuyênvào rừng và ngủ rẫy cùng với thói quen không ngủ màn làm tăng nguy cơ phơi nhiễm bệnh, hầu hết các trường hợp tử vong sốt rét hàng năm đều tập trung ở cộng đồng này.
Sốt rét do giao lưu biên giới cũng đang là vấn đề “nóng” hiện nay, khu vực miền Trung-Tây Nguyên có 8 tỉnh có chung đường biên giới với Lào và Cambodia: miền Trung có 4 tỉnh giáp Lào (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa thiên-Huế, Quảng Nam), Tây Nguyên có 4 tỉnh giáp Cambodia (Gia Lai, Kon, Đắc Lắc, Đắc Nông), trong đó tỉnh Kon Tum giáp cả Lào và Cambodia (ngã ba Đông Dương). Việc giao lưu biên giới làm cho nguy cơ lan truyền sốt rét diễn biến phức tạp, kiểm dịch biên giới tập trung tại các cửa khẩu nhưng sự giao lưu và nhiễm bệnh lại chủ yếu thông qua các đường tiểu ngạch nên rất khó khăn trong việc quản lý BNSR.
Phân tích số liệu BNSR (2006-2010) ở xã Lao Bảo (huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị) thấy tình hình giao lưu và nhiễm bệnh tại biên giới Việt-Lào rất phức tạp, trong 2.721 BNSR phát hiện có 55,57% nhiễm tại biên giới, 13,78% người dân địa phương nhiễm bệnh sau khi sang Lào về và 7,35% người Lào mắc bệnh sốt rét được điều trị tại Việt Nam, ngoài ra 23,30% bệnh nhân nhiễm sốt rét từ các vùng SRLH khác.
Bảng 5: đối tượng mắc bệnh ở 3 xã biên giới Việt – Lào (Quảng Trị) 2006-2010
Địa điểm | BNSR | Tại chổ | Sang Lào về | Người Lào | Xã khác | |
|
SL | % | SL | % | SL | % | SL | % | |
Xy | 1360 | 731 | 53.75 | 152 | 11.18 | 114 | 8.38 | 363 | 26.69 | |
Thanh | 850 | 521 | 61.29 | 102 | 12.00 | 71 | 8.35 | 156 | 18.35 | |
Lao Bảo | 511 | 260 | 50.88 | 121 | 23.68 | 15 | 2.94 | 115 | 22.50 | |
3 xã biên giới | 2721 | 1512 | 55.57 | 375 | 13.78 | 200 | 7.35 | 634 | 23.30 | |
Vào cuối năm 2011, tỉnh Attapeu (Lao PDR) giáp huyện Ngọc Hồi (tỉnh Kon Tum) có sự gia tăng số ca sốt rét và tử vong do sốt rét tại 5 huyện. Theo số liệu thống kê chỉ vòng 3 tháng (từ 1/10 đến 31/12 năm 2011), trong tổng số 11.833 người được xét nghiệm có 3.091 người được xác định là sốt rét (26.12%), 8 ca tử vong do sốt rét. Sự bùng nổ dịch sốt rét ở đây được xác định là do sự góp phần của một số dự án thủy điện đang thực hiện, chủ yếu tập trung vào huyện Phuvong và Sanamxay; sự nổi lên và tăng cường các hoạt động đốn gỗ có liên quan đến san bằng đất, trước hết là đi lấy nhóm gỗ hồng sắc (‘Mai Khayung’_rosewood) có chất lượng cao và quý dùng đóng đồ đạc gia đình) đã lôi cuốn dân địa phương cũng như các dân từ các tỉnh khác đến Attapeu. Khoảng 10.000 hectars đất được cấp hay phân phối để trồng cao su trong tỉnh chủ yếu từ sự đầu tư của người Việt Namcũng đã dẫn đến một lượng lớn dân địa phương từ các vùng cao nguyên xuống đồng bằng, đặc biệt ở Sanamxay để làm việc.
Đây là điều hết sức đáng quan ngại vì vụ dịch này giáp biên giới tỉnh Kon Tum và có rất nhiều người dân địa phương từ Việt Nam đến làm ăn tại đây. Tình hình hiện tại rất khó phòng chống cho Attepeu do các hoạt động bất hợp pháp và nhóm dân di biến động ở khu vực này.
Điều kiện tự nhiên phức tạp
Khu vực miền Trung-Tây Nguyên có 11 tỉnh miền Trung (từ Quảng Bình đến Bình Thuận) với dải đồng bằng nhỏ hẹp ven biển tiếp giáp hoặc đan xen với vùng rừng núi nối liền với các tỉnh Tây Nguyên, diện tích rừng núi chiếm 75% đồng thời cũng là các vùng sốt rét lưu hành (từ đồng bằng, đô thị vào vùng sốt rét chỉ trong vòng 1-2 giờ) nên khả năng giao lưu và nhiễm bệnh sốt rét rất lớn.
Điều kiện khí hậu (nhiệt độ trung bình năm là 280C) thuận lợi cho muỗi Anopheles và ký sinh trùng sốt rét phát triển quanh năm, nhất là vào các thời điểm đỉnh cao của mùa truyền bệnh sốt rét (tháng 3-5 và tháng 9-11), hầu hết các cơn bão hàng năm đều đổ vào khu vực này kèm theo mưa lụt kéo dài trên diện rộng làm cho tình hình sốt rét diễn biến phức tạp và hạn chế hiệu quả các biện pháp PCSR đã tác động.
Khả năng kiểm soát sốt rét của màng lưới y tế cơ sở còn hạn chế
Màng lưới y tế cơ sở (huyện, xã, thôn bản) là lực lượng PCSR chủ yếu tại địa phương nhưng thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, chưa đủ khả năng phát hiện và quản lý bệnh nhân.
- Y tế huyện: trong những năm vừa qua có sự xáo trộn về mô hình tổ chức lại kiêm nhiệm quá nhiều chương trình/dự án nên việc lựa chọn ưu tiên cho từng chương trình chưa được quan tâm, bên cạnh đó cán bộ y tế dự phòng chủ yếu là trung cấp phải đi học nâng cao trình độ và chưa nhậy bén trong nhận định dịch tễ học nên ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động PCSR. Hầu hết bệnh viện tuyến huyện chưa đủ khả năng điều trị sốt rét ác tính phải chuyển lên tuyến trên dẫn đến các biến chứng muộn.
- Y tế xã: mỗi xã có từ 4-5 cán bộ y tế hoạt động chăm sóc sức khỏe nhân dân nhưng do kiêm nhiệm quá nhiều chương trình mục tiêu nên giám sát cơ sở không thường xuyên, việc thực hiện điều trị BNSR mới ở mức độ cấp phát thuốc, chưa kiểm soát được bệnh nhân trong và sau điều trị.
- Y tế thôn bản: trung bình mỗi thôn bản có 1 nhân viên y tế trình độ không đồng đều, khoảng 55% nhân viên y tế thôn bản được đào tạo 3 tháng nhưng hiệu quả hoạt động PCSR chưa cao, 45% chưa qua đào tạo cơ bản chỉ là cộng tác viên hoặc tình nguyện viên chuyển qua nên chưa giúp gì nhiều cho việc quản lý điều trị sốt rét cũng như các bệnh thông thường khác, bên cạnh đó chế độ trợ cấp có thay đổi nhưng vẫn thấp nên chưa yên tâm công tác.
- Điểm kính hiển vi: miền Trung-Tây Nguyên có 1096 điểm kính hiển vi phục vụ công tác xét nghiệm tìm KSTSR nhưng hơn 1/3 số kính hư hỏng cần thay thế, khoảng 50% số xét nghiệm viên mới ở trình độ sơ cấp, một số bỏ việc hoặc chưa đào tạo bổ sung kịp thời nên ảnh hưởng tới kết quả xét nghiệm.
Bảng 6: Tình hình hư hỏng của các kính hiển vi phục vụ công tác PCSR
TT | Khu vực | TS điểm kính hiển vi | TS kính có hư hỏng | Loại hư hỏng |
VK dầu | Thị kính | Xà trượt |
1 | Miền Trung | 720 | 247 | 193 | 90 | 127 |
2 | Tây Nguyên | 376 | 116 | 72 | 36 | 29 |
3 | Toàn khu vực | 1096 | 363 | 265 | 126 | 156 |
Đây là những đặc điểm khác biệt với các khu vực khác trong nước, đặc biệt là các tỉnh miền Bắc nên miền Trung-Tây Nguyên luôn là “điểm nóng” sốt rét, tỷ lệ KSTSR hàng năm chiếm trên 70% và tử vong sốt rét chiếm 60-80% so với cả nước, sự giảm sốt rét không mang tính bền vững, dịch sốt rét có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Những đặc thù nêu trên cho thấy điều kiện lan truyền sốt rét ở miền Trung-Tây Nguyên khó khăn phức tạp hơn ở miền Bắc và miền Nam rất nhiều nên giải quyết được sốt rét ở khu vực này cũng có nghĩa là giải quyết được tình hình sốt rét trên cả nước.
Muốn dập tắt được nguy cơ tiềm ẩn sốt rét trong ngọn “Hỏa Diệm Sơn” này công tác nghiên cứu, ứng dụng và chỉ đạo muốn có hiệu quả phải căn cứ vào đặc thù khu vực cũng như thực trạng sốt rét địa phương, việc đầu tư cũng cần được thích đáng về phòng chống sốt rét cũng như các bệnh ký sinh trùng cho khu vực này là hết sức quan trọng và cần thiết.