Y tế dự phòng là một mắt xích quan trọng trong hoạt động của ngành y tế cả nước, hệ Y tế dự phòng chịu trách nhiệm “đứng mũi, chịu sào” chặn đứng các ổ dịch truyền nhiễm và ngăn chặn sự phát sinh dịch bệnh từ xa góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân; tuy nhiên với suy nghĩ của nhiều người kể cả các cán bộ y tế nhà nước, hệ y tế dự phòng chỉ làm công tác phong trào, khó có cơ hội phát triển kinh tế và chỉ là bến đỗ tạm thời trước khi tìm cách sang hệ điều trị.
Thành quả đạt được
Trong hơn nửa thế kỷ qua dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, với sự nỗ lực phấn đấu không mệt mỏi của đội ngũ những người làm công tác y tế dự phòng, mô hình bệnh tật đã được thay đổi căn bản, các bệnh truyền nhiễm gây dịch từng bước được khống chế và đẩy lùi như dịch bệnh SARS, cúm A (H5N1), cúm A (H1N1), tả; số người chết do bệnh sốt rét, sốt xuất huyết, viêm não Nhật Bản cũng như các bệnh ký sinh trùng từ động vật lây sang người mới nổi như sán lá gan lớn, giun đũa chó… được giảm thấp so với nhiều năm trước đây; các hoạt động phòng chống HIV/AIDS, vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường, phòng chống suy dinh dưỡng, phòng chống bệnh nghề nghiệp, kiểm dịch y tế biên giới không ngừng được cải thiện. Với các thành quả này, đội ngũ cán bộ y tế dự phòng rất tự hào vì đã góp phần không nhỏ trong việc bảo vệ sức khỏe và sức lao động cho hàng triệu người dân, đem lại những lợi ích thiết thực trong công cuộc phát triển kinh tế, xã hội.
Thành công lớn nhất của công tác y tế dự phòng trong những năm qua là khống chế dịch bệnh, không để xảy ra dịch bệnh trong những đợt bão lụt tại các tỉnh miền Trung và miền Nam. Việt Nam đã thanh toán được bệnh đậu mùa vào thập kỷ 70, thanh toán bại liệt vào năm 2000, loại trừ bệnh phong và uốn ván sơ sinh vào năm 2005, đang tiến tới loại trừ bệnh sởi vào năm 2012. Thông qua việc triển khai thành công Chương trình tiêm chủng mở rộng và các chương trình y tế khác nước ta đã giảm đáng kể tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi từ 56%0 /năm xuống còn 17%0 /năm vào năm 2007 và đạt được mục tiêu thứ tư của Thiên niên kỷ trước thời hạn 8 năm.
Khó khăn thách thức
Bên cạnh những thành quả đạt được, hoạt động y tế dự phòng còn phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức; đó là các bệnh truyền nhiễm gây dịch luôn có khả năng bùng phát và lây lan trên diện rộng, các bệnh nghề nghiệp, bệnh học đường, ngộ độc thực phẩm và tai nạn giao thông chưa có chiều hướng thuyên giảm; trong khi đời sống và thu nhập của cán bộ y tế dự phòng hết sức khó khăn.
Theo thông báo của Bộ Y tế tại Hội nghị phát triển nhân lực y tế dự phòng, chỉ tiêu đào tạo hệ y tế dự phòng hàng năm thấp hơn nhiều so với hệ điều trị, chiếm khoảng 10-15% tổng số chỉ tiêu đào tạo ngành y; không hấp dẫn và thu hút được sinh viên đăng ký thi và nhập học chuyên ngành y tế dự phòng, thay vì đổ xô vào chuyên ngành của hệ điều trị. Đội ngũ giảng viên về lĩnh vực y học dự phòng tại một số cơ sở còn thiếu về số lượng, thiếu kinh nghiệm thực tiễn và yếu về chất lượng, thiếu sự kết hợp giữa các trường và các viện trong hệ y tế dự phòng trong đào tạo cán bộ, nghiên cứu và phòng chống dịch. Sinh viên ra trường chưa có khả năng tham gia ngay vào các hoạt động y tế dự phòng và không thích làm việc trong lĩnh vực y tế dự phòng. Về chính sách tuyển dụng, sử dụng và đãi ngộ nhân lực y tế dự phòng cũng còn nhiều bất cập, định mức phụ cấp nhìn chung còn thấp, chưa thỏa đáng, chưa tương xứng với lao động đặc thù ngành; định mức phụ cấp đã lạc hậu so với mức lương tối thiểu và giá cả thị trường nhất là với một số phụ cấp có tính cách chi trả chưa hợp lý. Các chế độ phụ cấp hiện nay chưa đảm bảo được tính công bằng giữa lao động ngành y tế so với các ngành khác và chưa đủ hấp dẫn để thu hút cán bộ y tế về công tác tại vùng sâu, vùng xa và các chuyên khoa đặc thù. Về cơ sở vật chất, trang thiết bị của các tuyến y tế dự phòng còn thiếu thốn và cũ kỹ, chưa đáp ứng với yêu cầu kiểm soát dịch bệnh hiện nay, thiếu trang thiết bị kỹ thuật hiện đại để phát hiện và chẩn đoán sớm dịch bệnh để ngăn chặn dịch bùng phát trên diện rộng.
Thực tế hiện nay, hầu như cán bộ y tế nhất là các bác sĩ, dược sĩ không muốn về công tác tại hệ y tế dự phòng với lý do đơn giản đồng lương ít ỏi và thu nhập thấp kém, lại phải ngày đêm lăn lộn phòng chống dịch bệnh tại cộng đồng, không có điều kiện khám chữa bệnh ngoài giờ; bên cạnh đó vẫn còn nhiều tư tưởng coi nhẹ và nhận thức phiến diện về công tác y tế dự phòng, coi dự phòng chỉ là vệ sinh phòng chống dịch, cấp phát thuốc cho dân và không có khả năng khám chữa bệnh. Từ quan niệm lệch lạc này, dẫn đến tình trạng quan liêu ngại khó, kết quả nghiên cứu chưa đáp ứng yêu cầu phục vụ sức khỏe cộng đồng, tách rời công tác chuyên môn với công tác tuyên truyền vận động quần chúng tự bảo vệ sức khỏe và tham gia phòng chống dịch bệnh; nhiều đơn vị y tế dự phòng 6-7 năm nay không nhận thêm được bác sĩ nào, thậm chí các bác sĩ đang công tác tại đơn vị luôn tìm mọi cách để được chuyển sang hệ điều trị có thu nhập cao hơn. Nếu so sánh những nỗ lực hoạt động phòng chống dịch bệnh của đội ngũ cán bộ y tế dự phòng với thực trạng nguồn nhân lực y tế dự phòng hiện nay, hình như vẫn có chút gì cay đắng và hơi mâu thuẫn ?
Thuận lợi
Những thành quả đạt được cũng như những khó khăn của hệ y tế dự phòng đã được ngành y tế đánh giá và nhìn nhận đúng mức, không ít cuộc họp chuyên đề về y tế dự phòng đã được tổ chức nhằm đầu tư năng lực đội ngũ cán bộ cùng các giải pháp khắc phục khó khăn, nhưng nhìn chung thực tế đời sống cán bộ y tế dự phòng vẫn ít được cải thiện. Với phương châm “phòng bệnh hơn chữa bệnh”, công tác kiểm soát chặt chẽ dịch bệnh, phục vụ đắc lực sức khỏe cũng như sức sản xuất của đông đảo nhân dân lao động; ngành y tế đã đề ra mục tiêu chung của hệ y tế dự phòng là giảm tỷ lệ mắc và chết của các bệnh truyền nhiễm gây dịch, thay đổi cơ cấu bệnh tật, tăng cường phòng chống các bệnh không nhiễm trùng. Từng bước thực hiện xã hội hóa công tác y tế dự phòng, đẩy mạnh thực hiện các chương trình mục tiêu y tế, mở rộng quan hệ quốc tế, tăng cường nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ nhằm đảm bảo tốt việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.
Để thực hiện tốt mục tiêu này, những năm qua Nhà nước, Bộ Y tế đã có nhiều chính sách đãi ngộ với đội ngũ cán bộ hệ y tế dự phòng và có nhiều nỗ lực để phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt tạo cơ chế mở như cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp theo Nghị định 43/2005/NĐ-CP hoặc cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học công nghệ công lập theo Nghị định 115/2005/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ ban hành. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế cùng với tình trạng lạm phát toàn cầu hiện nay, những cơ chế này của Nhà nước không chỉ tạo đà cho việc phát triển khoa học - công nghệ mà còn giúp cho các đơn vị thực hiện chủ động khai thác nguồn thu, hạn chế bội chi ngân sách sự nghiệp .
Thế mạnh chuyên ngành thuộc hệ y tế dự phòng
Dự báo trong những năm tới mô hình bệnh tật chủ yếu là bệnh truyền nhiễm, trong khi đó tình hình các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm gây dịch trên thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, xuất hiện nhiều bệnh truyền nhiễm tối nguy hiểm với tốc độ lây lan nhanh, tỷ lệ tử vong cao như SARS, cúm A (H5N1), cúm A (H1N1)… có nguy cơ đe dọa lớn đến sức khỏe con người; bên cạnh đó các bệnh dịch mới nổi, các bệnh dịch từ động vật truyền sang người và các bệnh truyền nhiễm kinh điển có nguy cơ quay trở lại. Ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội đang ảnh hưởng xấu đến sức khỏe nhân dân, các tác nhân ảnh hưởng tới sức khỏe ngày càng gia tăng; ô nhiễm chất thải sinh hoạt, chất thải công nghiệp là nguyên nhân gây ra nhiều loại bệnh tật. Các tệ nạn xã hội như nghiện hút ma túy, mại dâm là nguyên nhân gây gia tăng bệnh HIV/AIDS và các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Một số bệnh không lây nhiễm ngày càng gia tăng như tim mạch, ung thư, đái tháo đường, rối loạn tâm thần do thay đổi lối sống, ô nhiễm môi trường, chế độ dinh dưỡng không hợp lý. Ngoài ra việc chấp nhận cơ chế thị trường cũng cho phép cán bộ được tự do chọn ngành nghề yêu thích dẫn đến việc mất cân đối giữa nguồn nhân lực y tế dự phòng và điều trị.
Mặc dù còn nhiều khó khăn thách thức, nhưng thành quả trong phòng chống & kiểm soát dịch bệnh những năm qua đã chứng tỏ năng lực của đội ngũ y tế dự phòng góp phần tích cực nâng cao sức khỏe người dân, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị được giao của ngành y tế tại sao lại không thể phát huy thế mạnh trong hoạt động của mình. Quan điểm quy hoạch nguồn nhân lực y tế dự phòng của Bộ Y tế tập trung mở rộng và cân đối quy mô đào tạo theo các bậc học, ngành học nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng về nhân lực thực hiện nhiệm vụ phòng chống bệnh dịch, bảo đảm cung cấp đủ nguồn nhân lực từ tuyến trung ương đến địa phương; đặc biệt là cần có chính sách ưu tiên cho cán bộ làm công tác y tế dự phòng, đặc biệt là các vùng sâu, vùng xa, vùng trọng điểm; ban hành các chính sách đào tạo, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ y tế cơ sở, thu hút cán bộ kỹ thuật…
Từ những quan điểm và cơ chế nêu trên, theo chúng tôi mỗi đơn vị y tế dự phòng phải biết cách kiên trì để đương đầu với những khó khăn gặp phải, vận dụng cơ chế chuyển đổi để nâng cao thế mạnh hoạt động của mình trong dịch vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân. Nếu xây dựng được thế mạnh, tạo đựng được lòng tin với tinh thần “phục vụ hơn dịch vụ” thì không chỉ xây dựng được thương hiệu “y tế dự phòng” mà còn thu hút và giữ chân được nguồn nhân lực có trình độ, đảm bảo bước đi vững chắc trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao.