Giá thuốc quá cao, vì đâu? và có lẽ bên thiệt vẫn là bệnh nhân!
Viên thuốc ở Việt Nam rất “thú vị”, nó vừa dùng để chữa bệnh, vừa làm “nhiệm vụ” đem lại khoản thu nhập cho bác sĩ, người kê toa...
“Diễn” trong đấu thầu
Hôm qua 6.8.2010, tại thành phố Hồ Chí Minh, Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội đã chủ trì hội thảo “Đại biểu dân cử phía Nam với chính sách, pháp luật y tế”. Có 3 chuyên đề được đưa ra, gồm: khám chữa bệnh bảo hiểm y tế (BHYT), chính sách cho người bệnh tâm thần, nhưng “nóng” nhất vẫn là đề tài “muôn thuở” xoay quanh câu chuyện về giá thuốc chữa bệnh, chuyện kê toa...Mổ xẻ vấn đề này, bản dự thảo Về tình hình quản lý giá thuốc của Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội nêu: “Theo phản ánh của cử tri, và thông tin trên báo chí, thì giá của một số loại thuốc nhập khẩu, thuốc biệt dược, thuốc đặc trị tăng cao, có loại lên đến 150 -300% so với giá gốc. Giácủa một số loại thuốc ở nhà thuốc bệnh viện (BV) nhà nước, và cả giá thuốc đã được đấu thầu cũng cao hơn thị trường”.
Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội kiến nghị: Chính phủ cần chỉ đạo các bộ, ngành liên quan rà soát, đánh giá và sửa đổi, bổ sung các nội dung quy định về công khai giá thuốc, đấu thầu thuốc, giám sát giá thuốc... đã lạc hậu; nghiên cứu bổ sung quy định trách nhiệm của cơ quan BHXH trong việc tham gia kiểm soát giá thuốc; chỉ đạo Bộ Y tế thực hiện thí điểm đấu thầu chung cho cả nước với những loại thuốc thông dụng nhất và có doanh số lớn, để đảm bảo sự thống nhất và giá cả hợp lý ở những thuốc này...
|
Người bệnh trong nước phải chi phí cho tiền thuốc rất cao |
Ông Trương Quốc Cường - Cục trưởng Cục Quản lý dược Việt Nam (Bộ Y tế) cũng cho biết: “Lẽ ra thực hiện đấu thầu là để giá thuốc BV mua vào thấp hơn, nhưng qua kiểm tra lại có những mặt hàng thuốc đấu thầu ở các BV lại cao hơn; có 2,22% loại thuốc trong nhà thuốc BV có giá cao hơn bên ngoài (với tỷ lệ bình quân cao hơn là 6,54%). “Tại các BV, hồ sơ mời thầu khác nhau, nên dẫn đến giá thuốc đấu thầu của các BV cũng khác nhau. Bên cạnh đó, bác sĩ kê đơn cũng có nhiều bất cập”, ông Cường nói. Báo cáo của đại diện Sở Y tế TP.HCM cũng cho biết: “Có BV mua thuốc của các công ty với giá cao, và giá cao này là do các công ty đã đẩy lên trước đó (?); vẫn còn tình trạng mua bán thuốc lòng vòng, qua nhiều tầng nấc trung gian làm cho giá thuốc tăng cao”.
Theo phân tích của Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội, việc đấu thầu thuốc được thực hiện riêng lẻ từng BV, từng tỉnh, với hàng trăm hội đồng đấu thầu khác nhau dẫn đến sự khác nhau về giá thuốc là điều tất yếu. Ngoài ra, nhiều ý kiến chuyên gia y tế cho rằng việc đấu thầu thuốc tại BV công chỉ là “đấu giá và diễn” chứ chưa phải là “đấu thầu” theo đúng nghĩa của nó.
Viên thuốc ở Việt Nam rất “thú vị”(!)
Tham luận tại hội thảo, bà Nguyễn Thị Kim Phương (thuộc Tổ chức Y tế thế giới - WHO tại VN) cho biết: “Trong tổng chi cho y tế ở nước ta, thì người bệnh (hộ gia đình) phải trả tiền (chi trả tiền trực tiếp) chiếm lớn nhất - 55-56% trong tổng chi y tế. Trong đó thì chi cho tiền thuốc chiếm rất cao (lên đến 40%), trong khi ở các nước tiên tiến, bình quân chi cho tiền thuốc chỉ chiếm 10%trong tổng chi y tế. Điều này cho thấy, việc sử dụng thuốc ở VN là quá nhiều. Viên thuốc ở Việt Nam rất “thú vị”, nó vừa dùng để chữa bệnh, vừa làm “nhiệm vụ” đem lại khoản thu nhập cho bác sĩ, người kê toa!”.
Một số ý kiến nhận định, sự liên minh giữa một số bác sĩ với các công ty dược phẩm thông qua trình dược viên để lấy hoa hồng đối với những thuốc mới, thuốc độc quyền đã làm tăng giá thuốc. Theo ông Lê Văn Truyền, chuyên gia cao cấp về dược học: “Lệch lạc, khuyết tật của thị trường dược phẩm trong nước đó là tình trạng hoa hồng trong kê đơn; vận động hành lang (lobby) cho cơ quan quản lý, cho thầy thuốc đầu ngành...”.
Loạn giá thuốc tây
Thuốc tây không thể thiếu trong đời sống hàng ngày vì liên quan đến sức khỏe và sinh mạng con người. Nhưng giá thuốc tây đang bị thả nổi, cho tăng vô giới hạn.
Thuốc đặc trị giá trên trời
Các loại dược phẩm đặc trị để chữa trị các bệnh hiểm nghèo giá vốn dĩ đã cao, lại còn bị nâng giá thêm. Thực trạng này làm cho các bệnh nhân đã khổ càng khổ hơn, nhất là các đối tượng thuộc diện khó khăn. Sau khi báo chí trong nước đăng bài nói về một số nhà thuốc độc quyền đã đẩy giá thuốc viêm gan siêu vi C tăng vọt, các ngành chức năng tại Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức cuộc họp để bàn về việc quản lý giá thuốc.
Dự luận đang xôn xao về thông tin thuốc trị viên gan siêu vi C tại Việt Nam được các công ty độc quyền phân phối đẩy giá lên mức khủng khiếp để thu lợi từ chiết khấu 30%. Cùng với việc nâng giá đó còn có sự tiếp tay của các bác sĩ thiếu lương tâm kê toa và chỉ định mua tại các nhà thuốc mà họ sẽ nhận được hoa hồng. Chỉ có người bệnh phải bóp bụng móc hầu bao trả tiền thuốc. Người ta có máy tính nên đâu có tính nhầm, mà cũng không thể nói là lộn được. Tóm lại chỉ có người bệnh là phải chịu thiệt thòi thôi.
Mới đây Báo Lao Động có đưa tin, bệnh nhân Huỳnh Văn Truyện - 64 tuổi, ở quận 3 đến khám tại Bệnh viện Đại học Y - Dược Thành phố Hồ Chí Minh. Ông được chẩn đoán mắc bệnh viêm gan siêu vi C và bác sĩ kê toa thuốc tiêm Pegasys 180mcg để điều trị. Người nhà ông Truyện cho biết mua thuốc này tại nhà thuốc Cẩm Hà ở Thành phố Hồ Chí Minh với giá 4.200.000 đồng/lọ. Cũng theo báo này, sự chênh lệch giữa giá mua và giá bán của lọai thuốc này gần tới 900.000 đồng/lọ thuốc. Điều này cho thấy bệnh nhân đã bị móc túi một số tiền khổng lồ cho một lọ thuốc điều trị bệnh viêm gan siêu vi C. Thuốc tây, nhất là các lọai thuốc đặc trị thường được bán với giá “trên trời”. Ông Phan Huỳnh Liễu, một cán bộ hưu trí cho biết “hiện giờ các loại thuốc tăng giá đột biến một cách vô tội vạ.”
Nói đến chuyện các nhà thuốc tây ấn định giá bán một cách vô tội vạ, một chị ở tại Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh kể lại chuyện chị đi mua thuốc đau răng với giá 15 ngàn đồng/ngày. Hôm sau chị đến đúng nhà thuốc đó, mua đúng loại thuốc đó thì cô bán hàng khác tính cho chị 5 ngày thuốc chỉ có 30 ngàn đồng. Chị nói: “Người ta có máy tính nên đâu có tính nhầm, mà cũng không thể nói là lộn được. Tóm lại chỉ có người bệnh là phải chịu thiệt thòi thôi.” Chị nói thêm: “Cũng như đối với que thử bệnh tiểu đường, tôi mới mua cách đây hơn một tháng với giá là 200,000 đồng/hộp/ 25 que. Bây giờ cũng vừa hết tôi đi mua thì giá vọt lên 215,000 đồng. Coi như vừa hết thuốc mình đi mua thì lại lên giá. Vì thuốc là cái cần nên người ta nói bao nhiêu thì mình phải mua bấy nhiêu. Ở Việt Nam bây giờ không biết giá thực sự của thuốc tây là bao nhiêu.”
Nguyện vọng của người dân
Theo quy định của Bộ Y tế, các nhà thuốc trong bệnh viện không được bán thuốc với giá cao hơn giá bán lẻ thuốc trên thị trường trong cùng thời điểm. Đồng thời tất cả các nhà thuốc phải thực hiện việc niêm yết giá thuốc và không được bán cao hơn giá niêm yết. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều nơi không chấp hành quy định này. Bản thân ông Liễu là một bệnh nhân bị bệnh tim mạch, nên ông “mong rằng nên có một biện pháp quản lý giá các tiệm thuốc tây ở trong các bệnh viện hay ở bên ngoài thuốc tây như thế nào để đừng tăng giá một cách bừa bãi, vô tội vạ, để cho những người dân nghèo có thể có khả năng mua được những loại thuốc đặc trị để chữa bệnh. Điều đó rõ ràng là mong muốn của mọi nguời dân”. Chị Ngọc Thành, có hai con nhỏ, một cháu lại bị bệnh tim bẩm sinh, nên chị là khách hàng thường xuyên của các hiệu thuốc từ Thành phố Hồ Chí Minh cho đến Bình Dương. Theo chị thì “giá thuốc tây ở các nhà thuốc không thống nhất mặc dù có sự quản lý, có văn bản quy định ở mỗi tiệm thuốc tây phải có treo bảng ghi giá các loại thuốc. Nhưng kh i mua thuốc, người mua đâu có nhìn lên bảng”. Chị Thành cũng bày tỏ nguyện vọng của những người có người thân không may mắc phải những căn bệnh hiểm nghèo:
"Đối với các loại thuốc đặc trị thì khó mua và giá rất cao, người nghèo không thể mua nổi, nhà nước nên hỗ trợ bằng chính sách như bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội đa dạng cho người dân. Điều này cực kỳ quan trọng đối với các loại thuốc trị các bệnh như: ung thư, tim ,thận, gan, phổi. Người nghèo đâu có tiền để mua những loại thuốc đó. Đối với các loại thuốc đặc trị thì khó mua và giá rất cao, người nghèo không thể mua nổi, nhà nước nên hỗ trợ bằng chính sách như bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội đa dạng cho người dân.
Đối với những loại thuốc bình thường thì phải quản lý giá cả thống nhất. Cho đăng giá thuốc trên mạng,trên báo chí thường xuyên; như có một trang chuyên về giá cả các loại thuốc tây. Nếu nơi nào vi phạm, bán thuốc quá giá quy định thì phải bị rút giấy phép hoạt động kinh doanh. Còn đối với những mặt hàng dụng cụ y khoa, nên cho sản xuất tại Việt Nam để giảm thuế và có giá rẻ cho người tiêu dùng”. Thuốc là mặt hàng đặc biệt không thể đánh đồng như các loại hàng hóa bình thường khác, nên cần một cơ chế quản lý đặc biệt về giá cả cũng như chất lượng, và phải có sự giám sát của ngành y tế, và tài chính, để người bệnh được chữa trị bằng các loại thuốc với đúng giá trị thực của nó.
Đó là những thông tin và ý kiến từ các người dân, bệnh nhân trong cuộc khi bị móc hầu bao khi mua thuốc tại các nhà thuốc và cơ sở điều trị. Có lẽ nói vấn đề giá thuốc hiện nay đã rất “loạn” và bên thiệt chỉ là người dân, bệnh nhân mà thôi. Nhân đây, chúng tôi xin tổng hợp từ ý kiến và luận bàn từ các tác giả, dược sĩ như bài viết của PGS.TS. Lê Văn Truyền (Chuyên gia cao cấp dược học), DS. Hà Thủy Phước, DS. Nguyễn Xuân Hùng, DSCKII. Bùi Văn Uy trên báo Sức khỏe và Đời sống, …để chia sẻ thông tin cùng đồng nghiệp về các ý kiến cũng như bàn luận xung quanh vấn đề giá thuốc này.
Giá thuốc - Đâu là giá trị thực?
Thuốc là một loại hàng hóa đặc biệt (dùng để phòng chữa bệnh, mua theo hướng dẫn, khi cần không thể lưỡng lự...) và đòi hỏi có điều kiện kinh doanh. Trong bối cảnh giá của mọi hàng hóa khác đều biến động thì giá thuốc cũng có sự biến động là điều tất yếu. Thế nhưng, hàng ngày báo SK&ĐS vẫn nhận được nhiều ý kiến của bạn đọc xung quanh vấn đề giá thuốc: Vì sao loại thuốc có cùng hoạt chất, có cùng công dụng chữa bệnh như nhau mà giá lại khác nhau? Vì sao nhiều loại thuốc nội đã sản xuất trên dây chuyền công nghệ hiện đại, nhưng giá lại thấp hơn nhiều so với thuốc ngoại cùng chủng loại... Để bạn đọc có thể hiểu được đâu là giá trị thực của thuốc, báo SK&ĐS sẽ giới thiệu loạt bài của các chuyên gia xung quanh vấn đề này.
Phát minh thuốc mới - Chi phí cao
Thuốc mới phát minh là các hoạt chất hóa học sinh học mới (new APIs) dùng làm thuốc (dạng thành phẩm) lần đầu, được cấp bằng sáng chế độc quyền với thời hạn bảo hộ từ 15-20 năm.
Chi phí nghiên cứu tìm ra thuốc mới các thập kỷ vừa qua ngày càng lớn nhưng kết quả không tương xứng với sự đầu tư. Số lượng thuốc mới được FDA Hoa Kỳ cấp phép hàng năm sụt giảm trong thập kỷ vừa qua so với các thập kỷ trước. Số lượng thuốc đang nghiên cứu trong năm 2009 lên đến 9.605 so với 5.930 (năm 1998) nhưng chắc chắn số thuốc nghiên cứu thành công và được cấp phép sẽ không quá 30-40. Trong khi đó chi phí cho nghiên cứu phát minh thuốc mới ngày càng cao. Chỉ trong vòng hơn 1 thập kỷ (từ 1990 đến 2006), chi phí bình quân để phát minh thuốc mới đã tăng gần 6 lần, từ 173 triệu USD (1990) lên đến 1,1 tỷ USD (năm 2006).
Trong thập niên 2001-2010 đã xuất hiện những khó khăn trong công tác nghiên cứu-phát triển thuốc mới thể hiện trên các vấn đề sau đây:
-Hiệu suất thành công sút giảm. Năm 2001, FDA chỉ cấp phép cho 24 phân tử thuốc mới (NCE: new chemical entity) ít hơn số phân tử được cấp phép trong 6 năm trước đó mặc dù nguồn vốn đầu tư tăng gấp hai lần từ 1997.
-Các sản phẩm nghiên cứu thất bại ở giai đoạn nghiên cứu cuối cùng và/hoặc sau khi đưa ra thị trường nghĩa là các công ty đã đầu tư không có cơ hội thu hồi vốn và lợi nhuận. Trong 3 năm (1999-2001) ít nhất 28 sản phẩm nghiên cứu với một thị phần tiềm năng lên đến 20 tỷ USD đã phải kết thúc ở giai đoạn cuối cùng của quá trình nghiên cứu-phát triển. Trong 5 năm 1997-2001, có 12 dược phẩm với doanh số tiềm năng lên đến 11 tỷ USD đã phải rút khỏi thị trường do nhiều nguyên nhân khác nhau. Người ta nhận thấy rằng có đến 85% nguyên nhân thất bại trong nghiên cứu thuốc mới liên quan đến tác dụng dược lý, tác dụng phụ và tác dụng có hại không mong muốn, độc tính của thuốc...
-Nhiều thuốc đến thời kỳ hết hạn bảo hộ sở hữu trí tuệ, xuất hiện các phiên bản thuốc gốc trên thị trường, lợi nhuận giảm.
-Cạnh tranh khốc liệt. Ví dụ: khi xuất hiện 4 thuốc ức chế Cox-2 trên thị trường thì ngay lập tức có 9 sản phẩm tương tự đang ở giai đoạn cuối của quá trình nghiên cứu-phát triển hoặc chờ được cấp phép.
-Ngày càng ít nghiên cứu thành công các sản phẩm có doanh số cao (dược phẩm "bom tấn"). Trong giai đoạn 2003-2008, chỉ có 14 dược phẩm có doanh số cao và không có sản phẩm nào có thể đem lại thu nhập cao như các sản phẩm "bom tấn" hiện có trên thị trường.
Có thể nói việc phát minh ra thuốc mới giúp cho con người thêm vũ khí để ứng phó với bệnh.
Bảng 1 - Số thuốc phát minh giai đoạn 1996 - 2005 Năm | Số thuốc mới được cấp phép | Năm | Số thuốc mới được cấp phép | 1969 | 53 | 2001 | 24 | 1997 | 39 | 2002 | 17 | 1998 | 30 | 2003 | 21 | 1999 | 35 | 2004 | 31 | 2000 | 27 | 2005 | 18 |
Bảng 2 - Chi phí phát minh thuốc mới giai đoạn 1990 - 2006 | 1990 | 2001 | 2006 | Chi phí R & D (tỷ USD) | 9 | 20 | 24 | Số thuốc phát minh | 42 | 31 | 22 | Chi phí trung bình/1thuốc (triệu USD) | 173 | 645 | 1.100 |
|
Độc quyền thuốc mới phát minh và chi phí phải trả cho khám chữa bệnh
Được bảo vệ bởi Hiệp định TRIP's (Hiệp định về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ), thị trường các thuốc mới phát minh là thị trường trong đó yếu tố độc quyền chi phối giá thuốc được đặc trưng bằng các hình thức sau đây:
-Độc quyền (Monopoly): Thuốc chỉ do một công ty phát minh độc quyền sản xuất trong khoảng 20 năm.
-Độc quyền có phân biệt (Discriminating monopoly): Công ty phát minh có thể độc quyền áp giá khác nhau đối với cùng một dược phẩm cho những nhóm người tiêu dùng khác nhau.
-Độc quyền của một nhóm người bán (Oligopoly): Chỉ có một số ít công ty được phép sản xuất và/hoặc cung cấp hàng hóa.
-Bất bình đẳng thông tin (Information asymetry): Thông tin và dữ liệu thí nghiệm về thuốc do công ty phát minh sở hữu và được bảo hộ bởi luật pháp về sở hữu trí tuệ (data exclusivity). Người sử dụng không được quyền tiếp cận thông tin và dữ liệu thí nghiệm.
Không cần phải đi sâu phân tích cũng có thể dễ dàng nhận thấy, thị trường các thuốc phát minh và/hoặc các biệt dược phát minh của các tập đoàn dược phẩm đa quốc gia, các công ty dược nghiên cứu - phát minh (research - based pharmaceutical company) là một thị trường không hoàn hảo (imperfect market) với rất nhiều hình thức độc quyền. Trong thị trường này, cơ chế cạnh tranh bị triệt tiêu. Đặc điểm điển hình nhất của "thị trường không hoàn hảo" là công ty độc quyền có khả năng định đoạt giá cả của thuốc và điều khiển mối quan hệ cung - cầu để thu lợi. Vì vậy, sự quản lý Nhà nước và/hoặc sự can thiệp của Nhà nước về giá cả đối với các dược phẩm độc quyền là hoàn toàn cần thiết để khắc phục sự "lệch lạc" của thị trường (market failure), đảm bảo quyền lợi của người bệnh và giảm chi phí khám chữa bệnh cho ngân sách y tế.
Thuốc gốc - Biệt dược: giá và sự lựa chọn
Thuốc gốc là gì?
Thuốc gốc (generic products) là những thuốc (sản phẩm) được sản xuất sau khi hết hạn bảo hộ bằng sáng chế độc quyền (BSCĐQ). Hết thời hạn bảo hộ trên, nhiều nơi có quyền sản xuất, không cần xin phép nơi sở hữu BSCĐQ. Chúng có thể mang tên chung (không có sở hữu) hay tên riêng (có sở hữu) còn gọi là tên thương mại (trade name), biệt dược (brand name). Theo đó, thị trường có thành phẩm từ nhiều nguồn, nên ta thay thuật ngữ thuốc gốc bằng thuật ngữ tổng quát chuẩn xác hơn dược phẩm có nhiều nguồn.
Thí dụ, cefuroxim phát minh năm 1977. Khoảng 15 năm tiếp theo nằm trong thời hạn bảo hộ BSCĐQ, được coi là thuốc mới phát minh. Sau thời hạn đó, nhiều nơi sản xuất mà không cần xin phép nơi sở hữu BSCĐQ, với các tên chung cefuroxim (nước ta); hay tên riêng như ceroxim, cefosan, zencef (Ấn Độ); kalcef (Indonesia); tafurex (Hàn Quốc). Chúng là thuốc gốc hay dược phẩm có nhiều nguồn.
Vì sao giá thuốc gốc thấp hơn thuốc mới phát minh?
Thuốc mới phát minh chỉ do nơi sở hữu BSCĐQ sản xuất (số lượng hạn chế). Người ta sẽ phải đầu tư vào đó các chi phí nghiên cứu và tiếp thị. Số tiền này không phải nhỏ nên các sản phẩm mới này có giá thành cao. Trong khi đó thuốc gốc có nhiều nguồn sản xuất (số lượng không bị hạn chế, có lúc vượt quá nhu cầu, dùng yếu tố giá cạnh tranh tiêu thụ), không có chi phí nghiên cứu, ít chi phí tiếp thị nên thành phẩm có giá thấp hơn là lẽ đương nhiên. Một ví dụ vào những năm 80, cefuroxim là thuốc mới phát minh (bd: ceftin), giá 01 viên 500mg tính ra tiền bây giờ khoảng 180.000đ nhưng hiện nay các thuốc chứa cefuroxim là thuốc gốc, giá 01 viên 500mg chỉ khoảng 8.000đồng (thấp hơn giá cũ 22, 5 lần).
 |
Đa số thuốc được sản xuất trong nước hiện nay là thuốc gốc nên có giá thành rẻ hơn thuốc nhập ngoại. |
Đa số trường hợp, dùng thuốc gốc chữa được bệnh mà giá lại thấp hơn thuốc mới phát minh. Suốt thập niên 80 của thế kỷ trước, cefutoxim (phát minh 1977) là thuốc mới phát minh, có giá rất cao, trong khi đó amoxicilin (phát minh 1964), benzylpenicillin (phát minh 1928) đều là thuốc gốc, có giá thấp. Với nhiễm khuẩn hô hấp, nên chọn dùng hai thuốc này (tùy giai đoạn), chỉ dùng cefuroxim khi amoxicylin không đáp ứng. Suốt thập niên 2000, gatifloxacin (biệt dược terquin, sản xuất độc quyền từ 1999) là thuốc mới phát minh, có giá thành cao, trong khi benzylpenicilin, cephalothin, cefuroxim đều là thuốc gốc có giá thành thấp. Với viêm phổi mắc phải cộng đồng, người lớn chọn dùng một trong 3 thuốc này (tùy tình trạng), chỉ dùng gatifloxacin khi các thuốc gốc trên không đáp ứng. Dùng thuốc nội có giá thấp sẽ có ý nghĩa về kinh tế - xã hội là tiết kiệm chi phí, tạo điều kiện cho người có thu nhập thấp có cơ hội chữa bệnh. Như vậy thuốc gốc không chỉ có vai trò lớn trong điều trị mà còn có ý nghĩa cao về kinh tế - xã hội.
Xu hướng dùng thuốc gốc hiện nay
Chủ trương của Bộ y tế, cũng theo đúng khuyến cáo của WHO là dùng thuốc gốc chữa bệnh. Điều này thể hiện trong việc đưa ra Danh mục thuốc thiết yếu, Danh mục thuốc chủ yếu dùng khám chữa bệnh (DMTCY-KCB), đưa ra các phác đồ điều trị (PĐĐT) chuẩn. Các Danh mục, Phác đồ này bao gồm chủ yếu là các thuốc gốc.
Bệnh viên nhà nước lập danh mục sử dụng nằm trong phạm vi DMTCY-KCB, dùng thuốc này cho nội trú, cấp ngoại trú BHYT theo các PĐĐT chuẩn. Như vậy về căn bản các bệnh viện nhà nước tuân thủ chủ trương dùng thuốc gốc chữa bệnh. Năm 2010 đã có 62% dân số dùng thuốc do BHYT chỉ trả. Con số dùng thuốc gốc trong cả nước là rất lớn.
Những tồn tại trong việc dùng thuốc gốc:
Trong bào chế sinh dược học, hai biệt dược có cùng hoạt chất, dạng bào chế, hàm lượng chỉ được coi có giá trị chữa bệnh căn bản như nhau khi có tương đương sinh học (bioequivalence) nghĩa là có chỉ số biểu thị sinh khả dụng (biovailability) chỉ chênh lệch nhau trong giới hạn cho phép 10%-20%. Quan niệm bào chế tiên tiến này thúc đẩy việc nâng cao chất lương thuốc. Song dựa vào đó, hãng sản xuất thường ít nói đến sự giống nhau căn bản về giá trị chữa bệnh mà thổi phồng quá mức sự chênh lệch sinh khả dụng (thực ra chỉ trong giới hạn cho phép) và dùng nhiều thủ thuật khác định giá cao biệt dược hãng mình, tạo ra sự chênh lệch giá quá lớn, không đáng có, giữa các biệt dược. Ví dụ: nước ta nhập các hoạt chất gốc đạt tiêu chuẩn, sản xuất biệt dược tại cơ sở đạt GMP, với biệt dược đi từ các hoạt chất gốc này chỉ cần thử đạt độ tan rã, độ phóng thích dược chất là đã có giá trị chữa bệnh căn bản như biệt dược nhập ngoại. Thế nhưng, các biệt dược nội giá thấp hơn nhiều.
Dẫn chứng: Giá các sản phẩm nội mang tên hoạt chất gốc cefotaxim chỉ bằng 40% đến 60% giá các biệt dược ngoại như shintaxim (Hàn Quốc), claforan (Pháp). Đây là điều không hợp lý. Nhằm tránh điều này, Bản hướng dẫn sử dụng DMTCYKCB và có ghi: "ưu tiên thuốc sản xuất trong nước đạt GMP" và Bản hướng dẫn thanh toán BHYT còn chi tiết thêm "Nếu bệnh viện chỉ định hoặc bệnh nhân yêu cầu dùng thuốc ngoại thay thế các loại thuốc trên (thuốc nội đạt GMP) thì BHYT chỉ thanh toán phần chi phí tương đương với chi phí thuốc cùng loại sản xuất trong nước".
Các hãng kết hợp 2 hay nhiều (có khi 5-6) hoạt chất gốc thành biệt dược chứa nhiều hoạt chất gốc. Theo họ, chúng có tính đa năng, tiện lợi. Thế nhưng, đa số chúng không được thử lâm sàng, chưa chắc có đầy đủ các tính năng dự kiến, trái lại dùng nhiều hoạt chất gốc ( 2 biệt dược loại này tương ứng với 4-12 hoạt chất) tạo ra tương tác. Tuy nhiên, các hãng vẫn sáng tác ra ngày càng nhiều loại biệt dược xem như một thủ thuật để bán được nhiều hoạt chất gốc với giá cao. Đây là điều không hợp lý. Nhằm tránh điều này, Bản hướng dẫn sử dụng DMTCYKCB có ghi: "ưu tiên lựa chọn... thuốc đơn chất, thuốc phối hợp chỉ sử dụng trong trường hợp không có thuốc thay thế". Bản hướng dẫn thanh toán BHYT nhấn mạnh thêm: "và phải chứng minh được tác dụng phối hợp hơn hẳn so với thuốc đơn chất".
Lời kết
Cần phân biệt rõ thuốc mới phát minh và thuốc gốc, biệt dược thuốc gốc nội đạt GMP và biệt dược thuốc gốc ngoại, biệt dược chứa một và biệt dược chứa nhiều hoạt chất gốc, giá trị chữa bệnh căn bản và giá đáng có (giá trị thực) và giá không hợp lý (cao, không phản ánh giá trị thực) của chúng. Cần nắm vững các khuyến cáo chọn thuốc chữa bệnh nêu lên trong Bản hướng dẫn DMTCYKCB, Bản hướng dẫn thanh toán BHYT. Từ đó quán triệt chủ trương dùng thuốc gốc chữa bệnh, chủ động giảm chi phí thuốc.
Một loại thuốc có nhiều giá, vì sao?
Nhiều khi người bệnh dùng thuốc chỉ với một niềm tin là thuốc đó sẽ giúp thuyên giảm hoặc chữa khỏi bệnh cho mình mà không hiểu rõ những phức tạp để thuốc đó đến được tay mình. Cũng vì không hiểu hết nên có thể có những suy nghĩ, bình luận, so sánh giữa thuốc nọ với thuốc kia. Bài báo này chỉ đề cập đến một vấn đề: Tại sao cùng một thứ thuốc nội mà giá cả lại chênh lệch nhau?
Công nghệ - Sự đòi hỏi tất yếu
Từ thuở khai sinh vào những năm 50-60 của thế kỷ trước, các xí nghiệp dược phẩm của ta đều được thành lập trên cơ sở tự thiết kế, tự xây dựng. Chỉ riêng XNDPTU II là do Liên Xô viện trợ, có hệ thống thiết bị đồng bộ, hoàn chỉnh thời bấy giờ. Do "tự biên, tự diễn" nên các xí nghiệp chỉ tập trung mua sắm các thiết bị sản xuất chủ yếu, cốt là làm ra sản phẩm mà chưa chú ý đầy đủ đến các yêu cầu khác đối với sản phẩm làm ra. Trên thế giới vào thời kỳ này cũng chưa có những qui định nghiêm khắc đối với công nghiệp bào chế thuốc! Từ 3 xí nghiệp dược phẩm Trung ương trong thời chiến, một số xí nghiệp địa phương đã được thành lập để đáp ứng nhu cầu tại chỗ và để đề phòng các xí nghiệp trung ương bị địch đánh phá. Sau ngày giải phóng và thống nhất đất nước, số xí nghiệp dược phẩm ngày một tăng. Đến nay đã có trên 170 doanh nghiệp sản xuất thuốc tân dược và đông dược. Điều đáng nói ở đây là trình độ sản xuất thuốc của nhiều xí nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu hiện đại và ý thức của người sản xuất cũng chưa được nâng cao.
Từ năm 1995, khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN và sau đó gia nhập WTO, yêu cầu về hoà nhập với các nước trong khu vực và thế giới tăng lên. Trong lĩnh vực dược phải xem xét lại các thủ tục về xuất nhập khẩu, đăng ký thuốc, các qui định về sản xuất, lưu thông, kiểm nghiệm, bảo quản thuốc. Các doanh nghiệp sản xuất dược trong nước cần phải đầu tư công nghệ sản xuất hiện đại để có thể hòa nhập với khu vực và thế giới, đáp ứng nhu cầu dùng thuốc ngày càng cao của con người.
 |
Thuốc đạt tiêu chuẩn GMP có giá thành cao hơn. |
Đối với các cơ sở sản xuất tân dược, thoạt đầu Bộ Y tế quyết định áp dụng GMP-ASEAN (1996). Sau này do yêu cầu mở rộng kinh doanh không chỉ trong khu vực mà ra cả thế giới, nên năm 2004 Bộ lại ban hành quyết định áp dụng tiêu chuẩn GMP theo khuyến cáo của WHO. GMP (Good Manufacturing Practice) nghĩa là "Thực hành tốt sản xuất". Trong Quyết định số 108/2002/QĐ-TTg ngày 15/8/2002 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt "Chiến lược phát triển ngành Dược giai đoạn đến năm 2010" đã ghi:" Đầu tư công nghệ hiện đại, đổi mới trang thiết bị và đổi mới quản lý ngành công nghiệp dược, từng bước đáp ứng nguồn nguyên liệu làm thuốc. Đến hết năm 2010, tất cả các cơ sở sản xuất, kinh doanh, nghiên cứu và kiểm nghiệm dược phẩm đều đạt tiêu chuẩn Thực hành tốt (Good Practice-GP)". Như vậy, để thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá ngành dược, đi đôi với việc phát triển công nghiệp nguyên liệu và tăng số lượng mặt hàng mới còn có nhiệm vụ triển khai các tiêu chuẩn thực hành tốt để đảm bảo và nâng cao chất lượng thuốc.
Tại sao lại có sự chênh lệch?
Như trên đã trình bay, do lịch sử để lại, từ nhà xưởng, trang thiết bị đến suy nghĩ và thói quen, nề nếp làm việc của con người, nhiều cơ sở sản xuất thuốc chưa đáp ứng yêu cầu hiện đại, nên trong giai đoạn quá độ chuyển đổi, thuốc do các doanh nghiệp chưa đạt GMP, nếu đạt các yêu cầu tối thiểu về chất lượng vẫn được phép lưu hành trên thị trường. Vì vậy, hiện đang tồn tại sự bất bình đẳng giữa doanh nghiệp đạt GMP và doanh nghiệp chưa đạt GMP.
Đối với những doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn GMP, các qui trình, qui phạm sản xuất phải chứng minh được khả năng sản xuất ra sản phẩm đạt yêu cầu chất lượng và được thẩm định. Cơ sở sản xuất phải đảm bảo đủ nguồn lực cần thiết về:
-Nhân viên: Có đủ số lượng, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm và đã qua đào tạo về GMP.
-Nhà xưởng và không gian: có vị trí phù hợp, được thiết kế, xây dựng, sửa chữa, bảo dưỡng sao cho thích hợp với các thao tác sản xuất sẽ diễn ra.
-Có các máy móc, thiết bị và dịch vụ phù hợp.
-Nguyên, vật liệu, bao bì đáp ứng tiêu chuẩn.
-Ghi chép lại các số liệu của từng công đoạn sản xuất. Lập hồ sơ sản phẩm và lưu giữ.
-Bảo quản và phân phối sản phẩm sao cho không ảnh hưởng tới chất lượng của thành phẩm làm ra.
-Có hệ thống thu hồi thuốc.
-Xác định rõ các khâu thẩm định, trách nhiệm thực hiện thẩm định, lưu giữ báo cáo.
Chỉ tính riêng trang thiết bị: nếu một doanh nghiệp muốn đạt GMP phải cải tạo lại, nâng cấp trang thiết bị hoặc xây mới, tuỳ theo qui mô, số tiền đầu tư có thể từ vài triệu USD đến vài chục triệu USD! Và tất nhiên khi có sự đầu tư về cơ sở vật chất, công nghệ cao cũng như con người có trình độ hơn thì chất lượng sản phẩm của họ sẽ cao hơn. Sản phẩm của của những doanh nghiệp đạt GMP tất yếu sẽ cao hơn sản phẩm của những doanh nghiệp chưa đạt GMP. Trong khi đó thì ít người tiêu dùng nhận thấy điều này, họ vẫn chỉ thấy những vỉ thuốc viên, thuốc tiêm của các đơn vị này là giống nhau và so bì, thắc mắc tại sao cùng một sản phẩm mà lại có sự chênh lệch về giá như vậy?
Đối với Nhà thuốc đạt tiêu chuẩn GPP (Thực hành tốt nhà thuốc) cũng tương tự như vậy. Ở đây nhà thuốc không quyết định về sự hình thành của thuốc, mà chủ yếu là con người: người dược sĩ trước kia chủ yếu tập trung vào việc kinh doanh thuốc thì nay phải tập trung vào việc quản lý sử dụng thuốc; vào việc chăm sóc, hướng tới bệnh nhân. Họ phải có đủ năng lực cung cấp thông tin, tư vấn cho người bệnh; giám sát việc sử dụng thuốc của bệnh nhân. Thuốc được bảo quản trong điều kiện nhiệt độ, độ ẩm qui định, có nguồn gốc tin cậy, sắp xếp theo loại, nhóm để tránh nhầm lẫn. Cơ sở hạ tầng của Nhà thuốc cũng phải đạt những tiêu chuẩn, yêu cầu qui định. Do vậy, việc bố trí, phân công trách nhiệm, theo dõi sản phẩm, quan hệ với người bệnh và bác sĩ, cơ sở khám chữa bệnh... đều được thực hiện đúng theo qui trình, qui phạm. Vì thế giá thuốc tại các nhà thuốc đạt tiêu chuẩn GPP có thể sẽ nhỉnh hơn giá thuốc của các nhà thuốc chưa đạt tiêu chuẩn GPP cũng là điều tất yếu.
Bỏ tiền để được hưởng một công nghệ cao hơn, một sản phẩm có chất lượng hơn, một dịch vụ tốt và hoàn hảo hơn. Đó cũng là một qui luật tất yếu. Người tiêu dùng có thể ủng hộ doanh nghiệp đạt GMP, Nhà thuốc đạt GPP bằng cách lựa chọn thuốc của doanh nghiệp có tín nhiệm và Nhà thuốc GPP đã tận tình chăm sóc mình bằng những hướng dẫn sử dụng thuốc hữu ích; không ham rẻ mà mua thuốc có nguồn gốc không tin cậy.
Giá và nguyên nhân tất yếu tác động đến giá thuốc
Yếu tố hình thành giá trong sản xuất phân phối
Giá thành sản phẩm hình thành bởi nhiều yếu tố. Ở nước ta, có một số nét riêng, giá sẽ bao gồm các chi phí sau như: Nguyên phụ liệu (hơn 90% nguyên phụ liệu làm thuốc ở nước ta phải nhập ngoại, vì thế giá của các nguyên phụ liệu này sẽ phụ thuộc vào chất lượng và nguồn nhập); bao bì; năng lượng (tuy nhà nước có bình ổn, nhưng giá xăng dầu vẫn thay đổi theo giá thế giới. Điện tính theo giá dùng cho sản xuất cao hơn giá tính cho sinh hoạt); khấu hao nhà xưởng, máy móc, thiết bị (nhà xưởng tùy mức kiên cố khoảng 20-30 năm phải xây dựng lại hay sửa chữa lớn. Máy móc thiết bị trung bình 10 năm phải thay đổi do hư hỏng, do lạc hậu.
Vì vậy, chi phí khấu hao, phân bổ theo tỷ lệ thích hợp vào giá sản phẩm); tiền lương (lương thực tế trả cho người trực tiếp làm ra sản phẩm thường cao hơn lương cơ bản, trong khi đó lương cơ bản lại tăng theo các kỳ tăng lương của Nhà nước dù có thể năng suất chưa tăng theo và khác nhau tùy loại hình xí nghiệp như nhà nước, tư nhân, trong nước, liên doanh, 100% vốn nước ngoài. Ngoài ra, các đơn vị sản xuất còn phải chi nộp thêm các loại bảo hiểm cho người lao động); các chi phí nghiên cứu; chi phí trực tiếp phục vụ cho sản xuất, chi phí bảo vệ môi trường giao dịch tiếp thị... Ngoài các chi phí trên thì doanh nghiệp còn phải có lãi hợp lý trong sản xuất. Lãi tính theo tỷ lệ phần trăm trên các chi phí tổng hợp.
Giá bán buôn, bán lẻ thuốc được hình thành trên cơ sở giá mua vào cộng với các chi phí và lãi hợp lý trong khâu bán buôn, bán lẻ. Chi phí bán buôn, bán lẻ gồm các khoản giống nhau, chỉ khác nhau ở qui mô gồm:
-Chi phí giao dịch, mua hàng, vận chuyển về đơn vị mình. Nơi bán có đưa hàng đến nơi mua thì vẫn có chi phí này vì nơi bán đã tính phí vào giá; Chi phí khấu hao kho tàng, thiết bị bảo quản, chi phí giữ kho. Tính chi phí chung toàn đơn vị và phân bổ theo tỷ lệ hợp lý vào từng nhóm sản phẩm; Chi phí vận chuyển hàng thay đổi theo cự ly, tình trạng đường sá, loại phương tiện dùng, mức khó trong vận chuyển (cồng kềnh, dễ vỡ hay không? hay có yêu cầu kỹ thuật bảo quản đặc biệt không?). Từ đó tính ra tỷ lệ phí vận chuyển trên doanh số cho từng nhóm hàng. Ngoài ra, chi phí khấu hao nhà cửa và thiết bị phục vụ cho việc bảo quản và bán hàng, lương người bán hàng (khoán theo doanh số) cao hơn lương cơ bản, các chi phí giới thiệu, quảng cáo, khuyến mại và phải có lãi hợp lý trong các khâu bán buôn, bán lẻ.
-Giá thành còn chi phối bởi lãi suất tín dụng. Trước đây Nhà nước rót đủ vốn cho các cơ sở sản xuất kinh doanh quốc doanh, ngày nay bất cứ loại hình sản xuất kinh doanh nào cũng vay vốn ngân hàng và phải trả lãi suất, trong khi lãi suất này cũng biến động.
Nếu toàn bộ các yếu tố hình thành giá được tính đúng, đủ thì sẽ có giá thành sản xuất, giá bán buôn, bán lẻ hợp lý phản ánh đúng giá trị thực.
 |
Chi phí sản xuất thuốc ảnh hưởng tới giá thuốc. |
Những nguyên nhân tất yếu và bất khả kháng tác động đến giá
Không hình dung hết chi phí nên thường có ấn tượng giá thuốc cao hơn hàng tiêu dùng khác. Sự thật không đúng vậy: Ví dụ, phải nhập nguyên liệu aspirin và 3-4 loại phụ liệu, qua nhiều công đoạn sản xuất với nhiều thiết bị, qua bảo quản vận chuyển nhiều chặng bán buôn bán lẻ, mới đưa aspirin pH-8 đến người bệnh, nhưng giá mỗi vỉ 10 viên cũng chỉ có 1.200đ thấp hơn giá 10 chiếc kẹo (5000đ) hay 1 bát phở (15.000đ). Tiền thuốc mỗi ngày tại bệnh viện tỉnh 10.000-20.000đ, thấp hơn chi phí chữa bệnh, sinh hoạt khác.
Không hình dung được sự tiến bộ kỹ thuật nên cho rằng giá thuốc những năm sau này tăng nhiều so với trước. Sự thật không như vậy. Hơn 10 năm qua, khu vực sản xuất thực hiện GMP, phải chi phí nhiều vào việc xây dựng nhà xưởng, mua máy móc thiết bị. Sản xuất theo GMP phải dùng xăng dầu, điện nước nhiều hơn (tăng khoảng 40%-50%). Để thuốc có giá trị chữa bệnh (sinh khả dụng) tương đương với nước ngoài, không những phải chọn nguyên liệu tốt mà còn phải có phụ liệu tốt. Chẳng hạn, để làm thuốc viên, trước đây chỉ dùng một số tá dược thông thường (tinh bột sắn, hoàng tinh, bột talc, magie stearat, canxitriphosphat...) có sẵn trong nước, nay phải thay bằng hàng loạt tá dược tốt hơn (sodium starch glycolat, pregclatinized starch, avicel, aerosil, các dẫn chất celulose như HPMC. HPC EC ACP, nhựa methacrylat...) phần lớn phải nhập khẩu. Mấy năm qua, khu vực phân phối thực hiện GDP, GPP phải xây dựng các cơ sở bảo quản, bán hàng, tuyển thêm nhân sự. Các chi phí ấy tăng, thì tất yếu giá thuốc cũng phải tăng tương thích.
Nếu không hình dung được sự khác biệt loại hình xí nghiệp ( khác nhau nhiều về cách quản lý), về kỹ thuật sản xuất (đạt GMP, ISSO hay chưa đạt), về nguyên phụ liệu đưa dùng (nguồn, giá) nên có khi người tiêu dùng không đồng tình với sự khác biệt về giá (cùng hoạt chất và hàm lương) giữa các đơn vị sản xuất. Tương tự, có nhiều người cứ đòi hỏi nhà thuốc đạt GPP phải bán giá bằng nhà thuốc chưa đạt GPP (có cán bộ quản lý còn trấn an là xây dựng GPP không ảnh hưởng đến giá) song thực tế nhà thuốc đạt GPP lúc đầu bán doanh số thấp hơn nhà thuốc chưa đạt GPP (do tuân thủ việc bán theo đơn trong khi nhân dân chưa có thói quen này) nhưng lại bỏ tiền ra xây dựng cơ sở, mua sắm thiết bị bảo quản bán hàng và tăng cường nhân sự... thì không thể giữ nguyên giá bán như cũ.
Hơn nữa, sự sản xuất phân phối thuốc ở nước ta lệ thuộc vào thị trường thế giới nên khi có sự thay đổi ở thị trường thế giới thì tất yếu sẽ tác động vào giá thuốc trong nước ở nước ta. Hơn 90% nguyên liệu sản xuất thuốc phải nhập. Khi giá nguyên phụ liệu thế giới tăng, thì giá thuốc sản xuất trong nước cũng phải tăng theo. Đến nay trong nước mới sản xuất được các dược phẩm ứng với 533 hoạt chất trong đó chủ yếu là hoạt chất chữa các bệnh thông thường, còn số dược phẩm ứng với quá nửa số hoạt chất còn lại, bao gồm nhiệu hoạt chất chữa bệnh chuyên khoa, bệnh khó, ta còn phải nhập thành phẩm.
Khi thị trường thế giới có biến động về giá hợp lý hay biến động về giá do đầu cơ của các công ty xuyên quốc gia thì giá bán ở nước ta cũng bị kéo theo. Đây là điều bất khả kháng. Ngoài ra, chi phí đưa thuốc về miền núi lớn gấp 3- 4 thậm chí gấp nhiều lần so với thành thị và nông thôn, đồng bằng. Vì thế, nếu không hình dung đầy đủ các nguyên nhân tất yếu và các nguyên nhân bất khả kháng tác động lên giá thì trước mỗi sự biến động lớn nhỏ đều gây cho người tiêu dùng những cú sốc, từ đó nhận định về giá thuốc không toàn diện và chính xác.
Những yếu tố tiêu cực tác động đến giá thuốc và cách khắc phục Những yếu tố tiêu cực tác động xấu đến giá -Có quá nhiều xí nghiệp nhưng hầu hết là nhỏ, sản xuất hàng trùng lặp, tất cả đều phấn đấu đạt GMP. Điều này làm tăng chi phí đầu tư nhưng không sử dụng hết công suất nhà xưởng thiết bị, tăng chi phí tiếp thị (mới bán được hàng trùng lặp) và do đó sẽ tăng các chi phí quản lý. -Từ 2008 đến nay màng lưới phân phối vẫn lớn và chồng chéo hầu như không đổi. Người kinh doanh mua đi bán lại vòng vèo, qua mỗi công đoạn lại cộng thêm thặng số. Chưa kể có nơi còn dùng "thủ thuật làm giá" (viết hóa đơn bán song hàng vẫn ở trong kho), mỗi lần như thế lại cộng thêm thặng số. Kết cục doanh số mỗi điểm bán buôn, bán lẻ tăng lên giả tạo, tiền lãi mỗi chặng có vẻ hợp lý nhưng doanh số chung thực tế vẫn thấp, tiền lãi cộng dồn toàn chặng tính trên doanh số thực vẫn có tỷ lệ khá cao. -Chưa đề xuất được chính sách trợ giá vận chuyển cho miền núi và các miền xa xôi hẻo lánh khác làm cho giá các vùng miền này quá lệch so với mức giá chung. Đề xuất một số cách khắc phục -Tổ chức lại sản xuất (qui mô sự phân công). Muốn tổ chức lại phải tùy vào yêu cầu tập trung hóa sản xuất, nhận thức của từng địa phương không thể làm trong ngày một ngày hai. -Quy định thặng số bán lẻ toàn chặng (TSBLTC): Nắm vững giá sản xuất thuốc nội và giá nhập khẩu thuốc ngoại, từ đó qui định TSBLTC sẽ có lợi như điều tiết chiết khấu bù trừ giữa nơi thuận lợi và không thuận lợi tạo ra giá lẻ thống nhất trong toàn quốc hoặc từng vùng lớn. -Đề xuất Nhà nước trợ giá vận chuyển cho miền núi, cho các miền xa xôi hẻo lánh. Cần có qui định TSBLTC cho các khu vực này. Trên cơ sở đó các công ty bán buôn có thể tự điều tiết để có giá thống nhất trong các thành phố, thị xã, huyện lị miền núi. Chỉ xin phần trợ giá của Nhà nước đưa thuốc từ huyện lị đến thôn bản miền núi hoặc các vùng xa xôi héo lánh khác. Như vậy kinh phí trợ giá không lớn và có thể do ngân sánh trung ương hay địa phương cấp. Trong thực tế những năm qua khi đưa thuốc về các xã diện nghèo, địa phương cũng có ngân sách thực hiện việc trợ giá này. |