Quy hoạch phát triển nhân lực y tế là một yêu cầu hết sức cấp bách và quan trọng nhằm đảm bảo thực hiện có hiệu quả công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới.
Để thực hiện tốt yêu cầu quy hoạch phát triển nguồn nhân lực y tế, Bộ trưởng Bộ Y tế đã chỉ đạo và giao nhiệm vụ cho các Vụ, Cục chức năng thuộc Bộ và các đơn vị có liên quan xây dựng các Đề án phát triển nguồn nhân lực y tế chung cũng như Đề án phát triển nguồn nhân lực y tế dự phòng. Đặc biệt là đầu năm 2011, Lãnh đạo Bộ Y tế đã tổ chức Hội nghị trực tuyếnvới sự có mặt của đại diện của UBND, Lãnh đạo Sở Y tế và một số sở, ban ngành; đại diện Lãnh đạo các trường đại học, cao đẳng y dược; bệnh viện, viện trực thuộc Bộ Y tế cùng đại diện một số Bộ, ban ngành trung ương.
Về phía Bộ Y tế, Bộ trưởng giao cho Vụ Khoa học & đào tạo và Ban soạn thảo tiếp thu và nghiên cứu các kiến nghị đề xuất, góp ý nội dung quy hoạch của các điểm cầu, đặc biệt là các kinh nghiệm thực tiễn phong phú trong và ngoài nước, các căn cứ khoa học làm cơ sở xây dựng quy hoạch phát triển nhân lực y tế. Tiếp tục hoàn thiện “Quy hoạch phát triển nhân lực y tế Việt Nam giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2030”, khoa học hơn, thực tế hơn, đảm bảo sự cân đối giữa cung và cầu về nhân lực y tế cho từng vùng miền bao gồm cả công lập và ngoài công lập, phù hợp với chuyển dịch cơ cấu bệnh tật, điều kiện kinh tế, xã hội, khí hậu, giao thông… ; góp phần đảm bảo sự phát triển và nâng cao chất lượng dân số, đáp ứng nhu cầu chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân trong từng thời kỳ phát triển và hội nhập của Việt Nam. Trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào tháng 7/2011 theo đúng các quy trình và quy định hiện hành có liên quan. Phối hợp với Vụ Kế hoạch tài chính tiếp tục nghiên cứu đánh giá nhu cầu, thực trạng, những thuận lợi và khó khăn, bất cập trong quá trình triển khai Quyết định 1544/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 14/11/2007 phê duyệt “Đề án đào tạo nhân lực y tế cho vùng khó khăn, vùng núi của các tỉnh thuộc miền Bắc và miền Trung, vùng đồng bằng sông Cửu Long và vùng Tây Nguyên theo chế độ cử tuyển giai đoạn 2007-2008”, làm căn cứ để điều chỉnh Quyết định trên thành Dự án đầu tư đặc thù cho đào tạo nhân lực y tế theo chế độ cử tuyển, góp phần đến năm 2020 giải quyết cơ bản về số lượng và đặc biệt nâng cao chất lượng nguồn nhân lực y tế về làm nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho đồng bào tại các vùng dân tộc thiểu số, vùng núi, vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa; trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Dự án vào tháng 11/2011. Phối hợp với các Vụ liên quan của Bộ Giáo dục và đào tạo xây dựng văn bản hướng dẫn thực hiện phương thức đào tạo nguồn nhân lực y tế hợp đồng theo địa chỉ sử dụng; trình Lãnh đạo Bộ Giáo dục & đào tạo và Bộ Y tế phê duyệt vào tháng 9/2011. Bộ trưởng giao cho Vụ Khoa học & đào tạo làm đầu mối phối hợp với Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ Kế hoạch tài chính, Cục Quản lý khám chữa bệnh, Cục Y tế dự phòng, Cục Vệ sinh an toàn thực phẩm, Cục Quản lý môi trường y tế và các cơ sở đào tạo, các viện, bệnh viện có liên quan nghiên cứu đánh giá nhu cầu, thực trạng, những khó khăn, bất cập trong đào tạo, sử dụng và phát triển nguồn nhân lực y tế thuộc các chuyên khoa Pháp y, Giám định y khoa, Lao, Phong, Tâm thần, Y học cơ sở, Y học dự phòng, Vệ sinh an toàn thực phẩm, Nhi khoa; dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế, chính sách thu hút học sinh theo học tại các chuyên khoa nói trên, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào tháng 9/2011. Phối hợp với Vụ Tổ chức cán bộ, Cục Quản lý khám chữa bệnh, các cơ sở y tế, các cơ sở đào tạo có liên quan xây dựng kế hoạch chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ y tế về nghiệp vụ quản lý y tế, ngoại ngữ, công nghệ thông tin và cập nhật các kiến thức, kỹ năng chuyên môn kỹ thuật, đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ, nâng cao chất lượng quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ y tế đang công tác tại các tuyến, đặc biệt là tuyến y tế cơ sở. Phối hợp với Cục Quản lý khám chữa bệnh, Vụ Tổ chức cán bộ, các cơ sở đào tạo, các viện, bệnh viện tiếp tục hoàn thiện và triển khai hiệu quả, chất lượng mô hình kết hợp Viện-Trường trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực y tế trong chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân. Nghiên cứu đề án và các văn bản liên quan đến quy chuẩn và phát triển đội ngũ giảng viên của Bộ Giáo dục & đào tạo, phối hợp với các Học viện, các Trường đại học, cao đẳng y dược lập kế hoạch đào tạo và phát triển, nâng cao năng lực và chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy đạt chuẩn theo quy định.
 |
Tăng cường nhân lực y tế cả về lượng và chất đáp ứng được nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân trong tình hình mới. |
Lãnh đạo Bộ Y tế tiếp tục tìm nguồn lực đầu tư phát triển cho các cơ sở đào tạo nhân lực y tế, trước hết tập trung đầu tư ưu tiên cho đào tạo nguồn nhân lực y tế các vùng khó khăn, vùng núi và nhân lực y tế có trình độ cao, chuyên khoa sâu ngang tầm khu vực và thế giới.
Về phía Ủy ban nhân dân các tỉnh/thành phố có trách nhiệm lập quy hoạch và kế hoạch đầu tư ưu tiên đào tạo và phát triển nguồn nhân lực y tế cho các vùng khó khăn của tỉnh từ 2011 đến 2020, bao gồm cả kế hoạch tuyển chọn và bồi dưỡng văn hóa, hướng nghiệp cho người học từ các trường nội trú của tỉnh. Hàng năm gửi Bộ Y tế đề xuất nhu cầu đào tạo cho từng ngành học, bậc học; ưu tiên đầu tư nâng cấp các trường cao đẳng, trung cấp thuộc tỉnh có đủ năng lực để đào tạo nhân lực y tế trình độ cao đẳng, trung cấp cho tỉnh. Nghiên cứu và xây dựng cơ chế, chính sách đào tạo, tuyển dụng, sử dụng và quản lý nguồn nhân lực y tế phù hợp với đặc thù của từng khu vực của tỉnh nhằm đạt được các quy chuẩn quốc gia về cơ cấu, số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ y tế ở các tuyến của tỉnh, góp phần cải thiện và nâng cao chất lượng chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.
 |
Cần nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực y tế sát nhu cầu xã hội |
Về phía các cơ sở đào tạo y dược, Bộ trưởng chỉ đạo lập chỉ tiêu đào tạo kế hoạch nhân lực y tế hàng năm sát với nhu cầu sử dụng và phù hợp với năng lực đào tạo của trường ; đề xuất và tổ chức thực hiện các giải pháp để cải thiện và nâng cao hiệu quả, chất lượng đào tạo nguồn nhân lực y tế cho các vùng khó khăn, vùng núi của các tỉnh/thành phố, đặc biệt đối với người học là dân tộc thiểu số.