Để phát hiện ký sinh trùng sốt rét một cách chính xác trên tiêu bản lam máu xét nghiệm bằng kính hiển vi quang học. Ngoài kỹ thuật lấy lam máu cần đạt tiêu chuẩn, kỹ thuật nhuộm lam máu bằng dung dịch giemsa nhuộm phải đạt yêu cầu là một công việc cũng cần thiết. Trong kỹ thuật nhuộm lam máu, độ pH của nước dùng để pha dung dịch nhuộm giemsa có ảnh hưởng đến chất lượng của lam máu nhuộm đạt yêu cầu. Hiện nay các điểm kính hiển vi đang hoạt động ở cơ sở để phát hiện mầm bệnh chưa quan tâm đến kỹ thuật này nên vẫn còn để tỷ lệ sai sót xảy ra. Vậy độ pH của nước ảnh hưởng như thế nào ?
Thực trạng tình hình ghi nhận
Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn (Hồ Văn Hoàng) nghiên cứu ở 98 điểm kính hiển vi tại 5 tỉnh Quảng Bình, Bình Định, Phú Yên, Bình Thuận và Gia Lai ghi nhận hầu hết các xét nghiệm viên không sử dụng dung dịch đệm bảo đảm độ pH 7,2 theo quy định của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) để pha dung dịch giemsa nhuộm lam máu. Tại các cơ sở thường dùng nguồn nước sẵn có để pha dung dịch nhuộm như nước giếng đào 45,92%, nước suối 25,51%, nước mưa 19,39%, nước cất 5,10% và nước máy 4,08%. Kết quả cho thấy chỉ có 27,55% (27/98 mẫu nước) có độ pH từ 7-7,3 thích hợp cho việc pha dung dịch giemsa nhuộm lam máu xét nghiệm ký sinh trùng sốt rét. Độ pH của nước duới 7 và trên 7,3 hạn chế sự bắt màu của ký sinh trùng sốt rét và có thể dẫn đến sự sai sót trong khi xét nghiệm lam máu. Các xét nghiệm viên sử dụng các nguồn nước có độ pH không thích hợp để nhuộm lam máu thì tỷ lệ sai sót cao gấp 1,49 lần so với xét nghiệm viên sử dụng nguồn nước có độ pH từ 7 đến 7,3.
Trung tâm Phòng chống Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn Trùng tỉnh Thừa Thiên Huế (Nguyễn Võ Hinh) nghiên cứu ở 36 điểm kính hiển vi tại 10 đơn vị cơ sở thuộc tuyến bệnh viện, trạm y tế, trạm xá quân y biên phòng (chiếm 48% số điểm kính hiển vi đang quản lý hoạt động) cũng ghi nhận tất cả các điểm kính hiển vi cũng không sử dụng dung dịch đệm có độ pH 7,2 để pha dung dịch giemsa nhuộm lam máu. Hầu hết sử dụng nguồn nước tự nhiên sẵn có để pha thuốc nhuộm như nước máy 38,89%, nước giếng đào 38,89%, nước tự chảy 16,67% và nước suối 5,56%. Số mẫu nước có độ pH thích hợp từ 7 đến 7,2 để bảo đảm kỹ thuật pha thuốc nhuộm giemsa chỉ có 27,78% (bằng giấy thử đơn giản) và 36,11% (thử bằng máy đo EcoScan) trong số các nguồn nước mà cơ sở thường sử dụng. Vấn đề này đã làm ảnh hưởng đến chất lượng nhuộm lam máu và kết quả xét nghiệm phát hiện ký sinh trùng sốt rét bằng kính hiển vi.
Nguyên tắc quy định và biện pháp khắc phục
Để thực hiện kỹ thuật nhuộm lam máu bằng dung dịch giemsa bảo đảm chất lượng lam máu nhuộm đạt yêu cầu, giúp cho việc xét nghiệm phát hiện ký sinh trùng sốt rét một cách dễ dàng và chính xác. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã quy định phải sử dụng một loại dung dịch đệm phosphate có độ pH 7,2 để pha giemsa nhuộm lam máu phát hiện ký sinh trùng sốt rét nhằm bảo đảm kỹ thuật yêu cầu bắt màu tốt của các thành phần ký sinh trùng. Xét nghiệm viên sẽ dễ dàng phát hiện và tránh được những sai sót xảy ra. Tuỳ theo tuyến hoạt động, dung dịch đệm có độ pH chuẩn 7,2 cần chuẩn bị như sau:
Pha dung dịch đệm để dùng hàng ngày:
Cần hòa tan 1,0g disodium hydrogen phosphate (Na2HPO4) anhydrous và 0,7g potassium dihydrogen phosphate (KH2PO4) trong 1 lít nước cất hoặc nước đã khử ion, có thể dùng nước mưa đã lọc sạch hoặc thậm chí cả nước máy nếu nước cất không có. Kiểm tra độ pH bằng máy đo pH hay bằng chỉ thị màu như máy so màu Levibond. Điều chỉnh độ pH lên tới mức 7,2 bằng cách thêm những lượng nhỏ dung dịch Na2HPO4 2% hoặc xuống đến mức 7,2 bằng cách thêm những lượng nhỏ dung dịch KH2PO4 2%. Khi đã đạt được độ pH 7,2; dung dịch pha cần bảo quản trong lọ có nút đậy chặt, nên dùng loại lọ thủy tinh có màu tối và đặt ở nơi mát mẻ không có ánh sáng mặt trời. Sau khi pha đúng kỹ thuật, dung dịch này có thể sử dụng tốt trong vài tuần nhưng cần được kiểm tra thường xuyên để phát hiện dung dịch có bị mốc hay vẩn đục không. Kiểm tra bằng cách lắc nhẹ và đều lọ dung dịch, nếu thấy vẩn đục thì loại bỏ đi, không nên sử dụng mà phải pha lô dung dịch khác.
Pha dung dịch đệm mẹ có độ đậm đặc
Dung dịch đệm này dùng để sử dụng khi công tác tại thực và gửi đến các bệnh xá, trạm xá, trạm y tế ở xa. Cần hòa tan 3,0g Na2HPO4 anhydrous và 2,1g KH2PO4 trong 25ml nước cất hoặc nước đã khử ion. Điều chỉnh độ pH đến mức 7,2 theo phương pháp pha dung dịch đệm để dùng hàng ngày như ở trên. Bảo quản dung dịch được pha trong lọ màu tối, tránh ánh sáng mặt trời rọi trực tiếp và dung dịch có thể sử dụng tốt trong vài tuần. Để pha thành dung dịch đệm bảo đảm tiêu chuẩn và chuẩn bị nhuộm lam máu, cần pha loãng 1ml dung dịch đệm mẹ có độ đậm đặc này với 20ml nước cất hoặc nước đã khử ion và sử dụng để pha dung dịch giemsa nhuộm.
Các gói hóa chất đã chuẩn bị trước để pha dung dịch đệm
Trong điều kiện không thể mang theo dung dịch đệm mẹ có độ đậm đặc như ở trên khi đi công tác tại thực địa hay chuyển đến cho các cơ sở y tế có điểm kính hiển vi hoạt động ở xa. Có thể khắc phục bằng cách dùng cân chính xác cân trước 2 loại muối phosphate Na2HPO4 (1,0g) và KH2PO4 (0,7g) theo trọng lượng dùng để pha dung dịch đệm sử dụng hàng ngày như ở trên và cho chúng vào cùng 1 lọ có nút chặt hoặc một túi nylon có hàn kín, dán nhãn hướng dẫn rõ ràng và bảo quản trong 1 bình có nút xoáy. Khi cần sử dụng, cho thêm 1 lít nước vào để pha loãng hoá chất thì dung dịch đệm được điều chỉnh sẽ có độ pH 7,2 và dùng để pha dung dịch giemsa nhuộm theo cách thông thường.
Thực trạng hiện nay, hầu hết các điểm kính hiển vi ở cơ sở làm nhiệm vụ phát hiện ký sinh trùng sốt rét đều không có hoặc không sử dụng dung dịch đệm bảo đảm tiêu chuẩn có độ pH 7,2 theo quy định của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) để thực hành kỹ thuật pha dung dịch giemsa nhuộm ký sinh trùng sốt rét trên lam máu xét nghiệm. Vấn đề này đã làm ảnh hưởng đến chất lượng phát hiện ký sinh trùng sốt rét bằng kính hiển vi quang học và tỷ lệ sai sót có thể xảy ra. Vì vậy, tuyến trên cần quan tâm cấp thêm hóa chất dùng để pha dung dịch đệm hay dung dịch đệm đã pha kèm theo các loại hóa chất xét nghiệm khác như dầu soi, xylen, nước cất, lam kính, kim chích máu, dụng cụ đồng bộ ... để các điểm kính hiển vi có đủ điều kiện thực hành kỹ thuật nhuộm lam máu bảo đảm yêu cầu; góp phần khắc phục mặt tồn tại sai sót và nâng cao chất lượng hoạt động của các điểm kính hiển vi.