Home TRANG CHỦ Thứ 6, ngày 19/04/2024
    Hỏi đáp   Diễn đàn   Sơ đồ site     Liên hệ     English
IMPE-QN
Web Sites & Commerce Giới thiệu
Finance & Retail Tin tức - Sự kiện
Trong nước
Quốc tế
Tin hoạt động của Viện
Tin vắn đáng chú ý
Điểm tin y tế
Ngày Sốt rét thế giới 25 tháng 4 (World Malaria Day)
Web Sites & Commerce Hoạt động hợp tác
Web Sites & Commerce Hoạt động đào tạo
Web Sites & Commerce Chuyên đề
Web Sites & Commerce Tư vấn sức khỏe
Web Sites & Commerce Tạp chí-Ấn phẩm
Web Sites & Commerce Thư viện điện tử
Web Sites & Commerce Hoạt động Đảng & Đoàn thể
Web Sites & Commerce Bạn trẻ
Web Sites & Commerce Văn bản pháp quy
Số liệu thống kê
Web Sites & Commerce An toàn thực phẩm & hóa chất
Web Sites & Commerce Thầy thuốc và Danh nhân
Web Sites & Commerce Ngành Y-Vinh dự và trách nhiệm
Web Sites & Commerce Trung tâm dịch vụ
Web Sites & Commerce Thông báo-Công khai
Web Sites & Commerce Góc thư giản

Tìm kiếm

Đăng nhập
Tên truy cập
Mật khẩu

WEBLINKS
Website liên kết khác
 
 
Số lượt truy cập:
5 2 4 6 5 2 4 3
Số người đang truy cập
2 7 7
 Tin tức - Sự kiện Quốc tế
Tiến tới một thế giới không sốt rét: RTS,S-vaccine chống sốt rét tiềm năng?

Ngày 30/12/2015. Tiến tới một thế giới không còn sốt rét (Paving the road to a malaria-free world) là lộ trình hướng tới của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) khi 15 năm qua bệnh sốt rét đã giảm một nửa trên khắp châu Phi-khu vực có mức sốt rét nặng nhất thế giới nhưng vẫn còn hơn 3 tỷ người có nguy cơ mắc bệnh sốt rét trên toàn cầu.

Tình hình sốt rét toàn cầu và những tiến bộ đạt được từ 2013 đến nay

Tình hình sốt rét

Theo “Báo cáo sốt rét thế giới năm 2014” (Factsheet o­n the World Malaria Report 2014) của WHO, bệnh sốt rét vẫn lưu hành với mức độ khác nhau ở 97 quốc gia và vùng lãnh thổ chủ yếu là các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới, ước tính, khoảng 3,2 tỷ người có nguy cơ mắc sốt rét, trong đó 1,2 tỷ người có nguy cơ cao, tại các khu vực nguy cơ cao có hơn 1 trường hợp sốt rét xảy ra trên 1000 dân. Trong năm 2013, có 198 triệu trường hợp mắc bệnh sốt rét trên thế giới (trong khoảng 124 - 283 triệu) và 584.000 tử vong (trong khoảng 367.000 đến 755.000), 90% số ca tử vong sốt rét xảy ra ở châu Phi, ước tính 437.000 trẻ em đã chết trước ngày sinh nhật lần thứ 5 và 453.000 trẻ dưới 5 tuổi trên toàn cầu tử vong do sốt rét trong năm 2013. Từ năm 2000 đến 2013, sự mở rộng các biện pháp can thiệp đã làm giảm tỷ lệ mắc sốt rét 30% trên toàn cầu và 34% ở châu Phi, tỷ lệ tử vong sốt rét giảm khoảng 47% trên thế giới và 54% ở châu Phi. Trong nhóm tuổi dưới 5, tỷ lệ tử vong giảm 53% trên thế giới và 58% ở châu Phi. Phân tích mới nhất cho thấy tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) đã giảm đáng kể ở châu Phi từ năm 2000, số người bị nhiễm giảm từ 173 triệu (2000) xuống còn 128 triệu (2013), giảm được 26% bất chấp một sự gia tăng 43% dân số châu Phi sống ở các vùng có lan truyền sốt rét.


Theo "Báo cáo sốt rét thế giới năm 2015" (World Malaria Report 2015) của WHO mới được công bố, 53,77% (57/106) số nước có bệnh sốt rét năm 2000 đã đạt mục tiêu giảm các ca sốt rét mới (new malaria cases) ít nhất là 75% vào năm 2015, trong đó 18 nước giảm số ca mắc sốt rét tới 50-75%. Tuy nhiên, WHO cho rằng cuộc chiến chống sốt rét còn nhiều thách thức khi gần một nửa dân số thế giới, khoảng 3,2 tỉ người vẫn có nguy cơ mắc sốt rét. WHO ước tính trong năm 2015 có 214 triệu ca mắc sốt rét và 438.000 trường hợp tử vong, trong đó 15 quốc gia chủ yếu là châu Phi chiếm 80% số ca sốt rét trên toàn cầu và 78% số trường hợp tử vong, mặc dù các quốc gia này đã đạt mục tiêu làm giảm chậm hơn trung bình tỷ lệ mắc sốt rét (32%) so với các nước khác trên thế giới (53%) nhưng hệ thống y tế yếu kém tiếp tục cản trở sự tiến bộ trong kiểm soát sốt rét. So sánh tình hình sốt rét toàn cầu với 15 năm trước đây (năm 2015 so với 2000), WHO ước tính số ca mắc sốt rét giảm từ 262 triệu năm 2000 (khoảng 205-316 triệu ca) xuống còn 214 triệu năm 2015 (khoảng 149-303 triệu ca); số tử vong sốt rét giảm từ 839.000 năm 2000 (khoảng 653.000-1,1.000.000 ca) xuống còn 438.000 năm 2015 (khoảng 236.000-635.000). Trong số trẻ em dưới 5 tuổi, số tử vong sốt rét toàn cầu giảm từ 723.000 năm 2000 (khoảng 563.000-948.000 ca) xuống còn 306.000 năm 2015 (khoảng 219.000-421.000) chủ yếu ở khu vực châu Phi của WHO.


Phân bố sốt rét

Theo cách tính điểm của WHO từ năm 2000 tỷ lệ tử vong do sốt rét đã giảm 85% ở khu vực Đông Nam Á, 72% ở khu vực châu Mỹ, 65% ở khu vực Tây Thái Bình Dương và 64% ở khu vực Đông Địa Trung Hải trong khi châu Phi tiếp tục là gánh nặng sốt rét toàn cầu dù 15 năm qua tỷ lệ tử vong sốt rét ở khu vực này đã giảm 66%, trong đó 71% ở trẻ em dưới 5 tuổi. Trong năm 2014, 16 quốc gia báo cáo không cố ca mắc sốt rét tại chỗ (Argentina, Armenia, Azerbaijan, Costa Rica, Iraq, Georgia, Kyrgyzstan, Morocco, Oman, Paraguay, Sri Lanka, Tajikistan, Turkey, Turkmenistan, United Arab Emirates, Uzbekistan) và 17 quốc gia < 1000 ca mắc sốt rét.Đến năm 2015, 90% số mắc và tử vong sốt rét vẫn tập trung ở khu vực châu Phi, 10% số mắc sốt rét và 7% tử vong sốt rét ở khu vực Đông Nam Á,2% số mắc và tử vong sốt rét ở khu vực Đông Địa Trung Hải.


Tiến bộ đạt được

WHO cho rằng những tiến bộ đạt được trong cuộc chiến chống sốt rét từ năm 2000 đến nay là nhờ hàng loạt các biện pháp can thiệp phòng chống sốt rét hiệu quả được triển khai và chi phí thấp, từ năm 2000 gần 1 tỷ màn tẩm hóa chất diệt được cung cấp ở cận Saharan (châu Phi) đến 2015 khoảng 55% dân số sống ở khu vực nàyđược ngủ trong màn chống muỗi, tăng chưa đầy 2% so với năm 2000. Sự hỗ trợ của các test chẩn đoán nhanh (RDTs) đã giúp phát hiện và điều trị kịp thời các ca bệnh sốt rét, trong đó khu vực châu Phi phát hiện bằng RDTs 36% các ca nghi ngờ sốt rét (2005) lên 65% (2014). Trị liệu kết hợpArtemisinin (ACTs) được sử dụng rộng rãi trong thập kỷ qua đã ngăn chặn có hiệu quả chủng KSTSR gây tử vong P. falciparum. WHO ước tính 663 triệu ca mắc sốt rétđược ngăn chặn ở Tiểu vùng Saharan (châu Phi) từ năm 2001 dựa vào 2 biện pháp can thiệp chủ yếu là phòng chống vector (Anopheles) và tác nhân gây bệnh (KSTSR) như màn tẩm, phun tồn lưu hóa chất trong nhà và trị liệu ACTs.


Chiến lược chống sốt rét đến năm 2030

Năm 2015 Đại hội đồng Y tế thế giới (WHA) thông qua"Chiến lược kỹ thuật toàn cầu đối với sốt rét 2016-2030" (Global Technical Strategy for Malaria 2016-2030) phòng chống sốt rét ở tất cả các nước lưu hành trong 15 năm mới, từ chiến lược này WHO đặt mục tiêu đầy tham vọng nhưng có thể đạt được vào năm 2030 bao gồm cả giảm tỷ lệ mắc và tử vong sốt rét toàn cầu tối thiểu 90%, loại trừ bệnh sốt rét ít nhất ở 35 quốc gia và ngăn chặn sự hồi sinh của bệnh sốt rét ở tất cả các nước không còn có sốt rét.


Tiến tới một thế giới không sốt rét: RTS,S-vaccine sốt rét tiềm năng?

Biện pháp chống sốt rét nào được ưu tiên lựa chọn?

WHO cho biết để đạt được mục tiêu giảm mắc và tử vong 90% sốt rét vào năm 2030, mỗi quốc gia trên thế giới cần có các biện pháp chiến lược khác nhau tùy vào mức độ lưu hành sốt rét ở mỗi nước. Theo đó các quốc gia thuộc vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới như châu Phi, châu Á-Thái Bình Dương, Nam Mỹ… còn tồn tại sự lan truyền tự nhiên sốt rét qua trung gian truyền bệnh (muỗi Anopheles), tác nhân gây bệnh (ký sinh trùng sốt rét) cần phải triển khai đồng bộ cả 3 biện pháp bảo vệ như diệt muỗi Anopheles (nằm ngủ dưới màn tẩm hóa chất, phun tồn lưu hóa chất diệt muỗi trong nhà), diệt ký sinh trùng sốt trét (điều trị bệnh nhân sốt rét), bảo vệ người lành (tự bảo vệ tránh muỗi đốt, tiêm vaccine phòng bệnh). Trong chiến lược phòng chống sốt rét ở mỗi quốc gia, cả 3 biện pháp này thường tiến hành đồng bộ, tuy nhiên biện pháp bảo vệ người lành được xem là mang tính bền vững từ khi WHO thông báo vaccin sốt rét RTS,S thành công sau quá trình thử nghiệm. Kết quả thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng pha 3 (phase 3) cho thấy vaccin sốt rét RTS,S/AS01 dùng liều đơn hoặc liều đôi (có thêm liều hỗ trợ) an toàn và hiệu quả cho cả trẻ em nhỏ và trẻ em lớn tại Châu Phi (Efficacy and safety of RTS,S/AS01 malaria vaccine with or without a booster dose in infants and children in Africa: final results of a phase 3, individually randomised, controlled trial), những kết quả thử nghiệm cuối cùng chứng tỏ RTS,S/AS01 đã ngăn chặn một số lượng đáng kể những ca sốt rét lâm sàng trong giai đoạn 3-4 năm ở các nhóm tuổi trẻ em khi chúng được tiêm chủng có hay không có liều hỗ trợ.


Kết quả thử nghiệm lâm sàng RTS,S (RTS,S Clinical Trials Partnership)

Hiệu quả và độ an toàn của vaccin sốt rét RTS,S/AS01 sau 18 tháng theo dõi đã được thông báo trước đây, đến nay những kết quả cuối cùng của cùng thử nghiệm đã được báo cáo bao gồm cả hiệu quả của một liều thêm vào.


Phương pháp nghiên cứu (Methodology)

Thử nghiệm này được đăng ký thực hiện tại ClinicalTrials.gov, số NCT00866619 từ tháng 3/2009 đến 31/1/2014, đối tượng nghiên cứu là các trẻ em lớn (từ 17 tháng đến 5 tuổi) và trẻ em nhỏ (từ 6-12 tuần tuổi) được đưa vào 11 trung tâm nghiên cứu của 7 quốc gia thuộc vùng cận sa mạc Sahara-châu Phi và được sắp xếp ngẫu nhiên (1:1:1) với mũi tiêm đầu tiên theo phương pháp chọn khối ngẫu nhiên (block randomisation): nhóm R3R với 3 liều RTS,S/AS01 ở tháng 0, 1, và 2 và một liều thêm vào tháng thứ 20; nhóm R3C tiêm 3 liều RTS,S/AS01 ở tháng 0, 1, và 2 và một liều đối chứng (comparator vaccine) vào tháng thứ 20; hoặc nhóm chứng C3C tiêm đối chứng 3 liều ở tháng 0, 1, và 2. Phát hiện những ca bệnh sốt rét lâm sàng (malaria uncomplicated cases) và sốt rét nặng (malaria complicated cases) theo hướng dẫn của WHO, đồng thời ghi nhận những sự cố nghiêm trọng được ngoài mong đợi. Phân tích được thực hiện bằng phương pháp so sánh ở đối tượng được chọn ngẫu nhiên ngay từ đầu có hiệu chỉnh (modified intention to treat) và so sánh ngẫu nhiên ở những ca hoàn thành việc điều trị (per protocol), kết quả kép chủ yếu là sự xuất hiện sốt rét trong vòng 12 tháng sau khi tiêm mũi 3 ở mỗi nhóm tuổi từ phân tích cuối cùng này các nhà nghiên cứu thể hiện những số liệu về hiệu quả của liều tiêm phụ trợ trên việc có hay không xuất hiện ca bệnh sốt rét, hiệu lực của vaccin (VE) chống lại sốt rét lâm sàng được phân tích bằng phương pháp hồi quy hai biến âm tính và chống lại sốt rét nặng bằng chỉ số giảm nguy cơ tương đối.


Kết quả nghiên cứu (results)

Kết quả nghiên cứu của thử nghiệm cho thấy 8922 trẻ em lớn và 6573 trẻ em nhỏ được đưa vào phân tích chọn ngẫu nhiên ngay từ đầu có hiệu chỉnh, các trẻ em được theo dõi với thời gian trung vị là 48 tháng (IQR 39-50) và trẻ em nhỏ là 38 tháng (34-41) sau liều tiêm thứ 1. Từ tháng thứ 0 sau khi thử nghiệm kết thúc, so sánh với 9585 đợt sốt rét lâm sàng đạt đủ các tiêu chí chủ yếu để định nghĩa ca bệnh ở nhóm trẻ lớn C3C, 6616 đợt sốt ở nhóm R3R (VE 36,3%, 95% CI 31,8 - 40,5) với 7396 đợt sốt xảy ra ở nhóm R3C (28,3%; 23,3 - 32,9); so sánh với 171 trẻ lớn bị mắc ít nhất một đợt sốt rét nặng ở nhóm C3C, 116 trẻ bị ít nhất một đợt sốt rét nặng ở nhóm R3R (32,2%; 17,3 - 46,9) và 169 trẻ ở nhóm R3C (1,1%; 23,0 - 20,5). Ở các trẻ nhỏ, so sánh với 6170 đợt sốt rét lâm sàng đạt đủ các tiêu chí chủ yếu để định nghĩa ca bệnh ở nhóm  C3C, 4993 đợt sốt xảy ra ở nhóm R3R (VE 25,9%; 95% CI 19,9 - 31,5) với 5444 đợt ở nhóm R3C (18,3 %; 11,7 - 24,4); và so sánh với 116 trẻ nhỏ bị mắc ít nhất một đợt sốt rét nặng ở nhóm C3C, 96 ở nhóm R3R (17,3%; 95% CI 9,4 - 37,5) và 104 ở nhóm R3C (10,3%; 17,9 - 31,8). Tần suất các sự cố nặng (SAE) là quân bình giữa các nhóm, tuy nhiên viêm màng não được báo cáo như SAE ở 22 trẻ: 11 trẻ ở nhóm R3R, 10 trẻ ở nhóm R3C và 1 trẻ ở nhóm C3C; tần suất cơn động kinh toàn thể trong vòng 7 ngày sau mũi hỗ trợ RTS,S/AS01 là 2,2 trên 1.000 liều ở trẻ nhỏ và 2,5/1.000 ở trẻ lớn. Kết quả cuối cùng cho thấy RTS,S/AS01 đã ngăn ngừa một số lượng đáng kể những ca sốt rét lâm sàng trong một giai đoạn 3-4 năm ở trẻ em nhỏ và trẻ em lớn khi chúng được tiêm chủng có hay không có liều hỗ trợ, hiệu lực được gia tăng bằng cách cho thêm liều hỗ trợ ở cả hai nhóm tuổi chứng tỏ đây là một loại vaccin rất có tiềm năng góp phần tích cực trong kiểm soát bệnh sốt rét khi dùng phối hợp với những biện pháp chống sốt rét hiệu quả khác, nhất là ở vùng sốt rét lưu hành nặng.

RTS,S-vaccine sốt rét tiềm năng?

WHO cập nhật tháng 10/2015. Năm nay, vắc-xin sốt rét đầu tiên ngăn ngừa sốt rét RTS,S đã kết thúc các thử nghiệm lâm sàng cho thấy mức độ bảo vệ nhưng như vậy có đủ không? Meera Senthilingam điều tra liệu một vắc-xin sẽ đóng vai trò tốt trong cuộc chiến chống sốt rét hiện nay và nghiên cứu những khó khăn cần giải quyết căn bệnh này một lần và mãi về sau. Tiếng vo ve đến một cách thình lình gây ra cảm giác trên khắp bề mặt da, kèm theo trạng thái đề phòng máu bị muỗi hút đi và da bị nổi đỏ lên. Đối với một số người tiếng vo ve này chỉ đơn thuần là dấu hiệu của mùa hè hay khí hậu ấm hơn hoặc một người mẹ đang cố gắng cho con của mình ăn nhưng âm thanh quen thuộc này lại làm người ta lo lắng, rất lo lắng ở 97 quốc gia trên toàn thế giới vì tại đây âm thanh của con muỗi nhỏ bé lởn vởn xung quanh này chạm đến trạng thái thần kinh vượt xa cảm giác của thính giác hoặc xúc giác gây ra một nỗi sợ hãi. 97 quốc gia và vùng lãnh thổ này là những khu vực lưu hành sốt rét, một căn bệnh ký sinh trùng truyền qua máu và chỉ lây lan qua vết đốt của một con muỗi Anopheles cái và cướp đi sinh mạng gần 500.000 người mỗi năm. Tuyến nước bọt, chứ không phải là vết đốt mới chính là điều người ta thực sự sợ. Tuyến nước bọt từ những con muỗi cái này, đầy rẫy hàng nghìn ký sinh trùng cực kỳ nhỏ, sẵn sàng tràn vào quấy phá bất kỳ người nào khi chúng vào trong cơ thể. Ông Brian Greenwood, Giáo sư Y học Nhiệt đới Lâm sàng tại Trường Vệ sinh dịch tễ và Y học Nhiệt đới London cho biết: “Chỉ một trong những ký sinh trùng có thể giết bạn” khi ông nói về nhiều ký sinh trùng chuẩn bị tấn công và chờ xâm nhập vào dòng máu cơ thể người với hàng nghìn ký sinh trùng ẩn nấp trong tuyến nước bọt, xấp xỉ 10 ký sinh trùng được đưa vào qua mỗi vết đốt và chỉ một ký sinh trùng sốt rét là đủ để gây bệnh, nguy cơ nhiễm bệnh là rất cao. WHO ước tính có 3,3 tỷ người đang nằm trong nguy cơ mắc sốt rét, và 90% trong số này là ở châu Phi, Giáo sư Greenwood cho biết: “Sốt rét là một căn bệnh rất khó xử lý”, Plasmodia có vòng đời phức tạp đi qua cả hai vật chủ là người, muỗi và chuyển qua nhiều giai đoạn sinh sản ở trong mỗi vật chủ. Ở con người, chỉ trong vài phút là đủ để nhiễm ký sinh trùng từ một khu vực bị đốt qua máu và vào gan, đây là nơi mà tác hại thật sự bắt đầu. Gs. Greenwood cho biết : “Ở giai đoạn đó ký sinh trùng rất yếu ớt” nhằm đưa ra quan điểm rằng đây là giai đoạn hoàn hảo để ngăn chặn căn bệnh lây nhiễm thêm trước khi hàng nghìn và sau đó là hàng tỷ ký sinh trùng sinh sôi trong máu. Trong hơn 30 năm qua, từng hy vọng le lói một cách chậm chạp với một vắc-xin tiềm năng dướng như có thể nhắm vào chính xác giai đoạn này của căn bệnh-vắc-xin RTS,S.


Một em bé được tiêm vắc-xin RTS,S tại một khu vực thử nghiệm tại Bagamoyo, Tanzania [Tác giả: GSK]

Sự phức tạp của một vắc-xin đơn giản (The complexity of a simple vaccine)

GS. Greenwood người đã từng đóng vai trò trong việc phát triển RTS,S cho biết: “Có được một vắc-xin để kiểm soát một căn bệnh lây nhiễm là điều đơn giản nhất, có lẽ là cách rẻ tiền nhất [để kiểm soát nó] nhưng để có một vắc-xin chống sốt rét đã trở thành một thách thức từ ngay lúc khởi đầu, một phần đó là do sự phức tạp sinh học của ký sinh trùng. Cấu trúc gen của nó, những giai đoạn phát triển phức tạp và khả năng tránh tấn công miễn dịch khiến nó trở thành một kẻ hung ác khó nắm bắt để theo dõi và bắt giữ. Bạn có thể đánh gục một phần của nó với một vắc-xin… nó có những cách để vượt qua vấn đề đó, sự sinh tồn bất bại của ký sinh trùng được biểu thị qua thực tế là người lớn tiếp xúc với nó và nhiễm bệnh, sốt rét trong nhiều lần tiếp tục dễ bị mắc bệnh nhiều lần về sau. Hiện giờ chúng tôi đang cố gắng làm tốt hơn nữa.. với một vắc-xin nhân tạo”. Thử nghiệm vắc-xin RTS,S giai đoạn 3 là đợt thử nghiệm lớn nhất vắc-xin này tính đến nay, làm việc với hơn 15.000 trẻ em trên khắp 11 khu vực thử nghiệm ở 7 nước cận hoang mạc Sahara châu Phi, trải dài trên số dân hiện diện cho gánh nặng thực sực của sốt rét. Một phần chính của kế hoạch là việc thử nghiệm trên hai nhóm trẻ em khác nhau-một nhóm độ tuổi từ 5-17 tháng và nhóm kia tuổi từ 6-12 tuần, việc bảo vệ càng sớm thì số sinh mạng được cứu càng nhiều và càng dễ cấp vắc-xin như là một phần trong các kế hoạch tiêm chủng định kỳ, các kết quả hiện đã có nhưng cũng đi cùng nhiều câu hỏi. Trong nghiên cứu xuất bản trên Tạp chí The Lancet vào tháng 4/2015, vắc-xin RTS,S đã cho thấy mang lại 36,6% bảo vệ trong thời gian gần 4 năm trong nhóm trẻ em lớn tuổi hơn khi được cấp 1 liều vắc-xin mỗi tháng trong 3 tháng và một liều tăng cường một năm sau, sự bảo vệ ở trẻ sơ sinh thì thấp hơn với chỉ 25,9% hiệu lực khi được cấp cùng liều như vậy, sự giới hạn nữa đó là sự bảo vệ yếu dần đi trong 12-18 tháng nếu không có liều tăng cường.



Gs Greenwood giải thích: “Vậy chúng tôi có một vắc-xin có thể mang lại cho bạn một chút nhưng không thực sự quá tốt, sự bảo vệ và nó giảm đi khá nhanh chóng. Câu hỏi đặt ra hiện nay cho tất cả những người ở cộng đồng đối chứng đó là Chúng ta có sử dụng nó không? và nếu có làm sao để sử dụng hiệu quả nhất?” Cơ quan Dược phẩm Châu Âu (European Medicines Agency _EMA) đã đưa ra một quan điểm tích cực về những khám phá này và thế giới hiện đang chờ đợi các hướng dẫn của WHO đưa ra để đánh giá thực tế tiến hành trong thực địa. TS. Pedro Alonso, Giám đốc Chương trình Sốt rét Toàn cầu WHO cho biết: “Trong khi chúng ta vui vẻ với những kết quả này, toàn bộ sự phù hợp y tế công cộng của vấn đề này vẫn còn đang được xác định”. Ủy ban cố vấn về sốt rét của tổ chức này sẽ sớm quyết định sự phù hợp này, tuy nhiên một thực tế mà cả WHO và các nhà khoa học tại Trường đồng ý chung đó là đây không phải là phía cuối con đường của vắc-xin sốt rét-điều cần thiết là một mức độ bảo vệ cao hơn. TS. Alonso cho biết: “Rõ ràng đây không phải là một vắc-xin cuối cùng và sẽ đóng vai trò là một động cơ để nghiên cứu và phát triển sâu hơn nữa, điều cần thiết là một khả năng bảo vệ mạnh mẽ hơn cho một yếu tố xoay chuyển thế cuộc thật sự để mang lại chiến thắng, loại vắc-xin chúng ta cần phải có 80 hoặc 90% bảo vệ thì vẫn chưa làm được”.Tuy nhiên, một loại thấp hơn mong đợi đã xuất hiện mang lại hy vọng rằng loại vắc-xin tốt hơn là điều có thể. Quan trọng hơn nữa, thử nghiệm đã đặt ra một tiền lệ mà các loại vắc-xin sẽ phải được thử nghiệm như thế nào và đã đào tạo các nhà khoa học địa phương kỹ năng cần thiết để lên kế hoạch và tiến hành các thử nghiệm trong tương lai nhưng bản chất của ký sinh trùng này cho thấy một nhân tố xoay chuyển thế cuộc có thể không bao giờ xuất hiện trên ván bài. Gs Greenwood nói thêm: ‘Chúng ta sẽ không có một loại vắc-xin sốt rét có khả năng bảo vệ 100% trong nhiều năm”, nếu trường hợp đó xảy ra thì điều gì sẽ là tiếp theo?

Điều chỉnh cho một loại vắc-xin phù hợp với kế hoạch chung (Fitting a vaccine into the master plan)

GS. Chris Drakeley, Giám đốc Trung tâm sốt rét tại Trường Vệ sinh dịch tễ và Y học Nhiệt đới London cho biết: “Nếu bạn đi tới một nhà quản lý chương trình phòng chống sốt rét và bạn đề nghị họ cơ hội 30-40% ít ca bệnh sốt rét hơn, họ sẽ có thể đồng ý”. GS. Drakeley, giống như phần lớn cộng đồng nghiên cứu sốt rét tin rằng vắc-xin có một vai trò trong các nước với gánh nặng sốt rét cao nhất, ông nói thêm: “Bạn có thể thấy lợi ích từ việc giảm 30% ca bệnh ở những khu vực lây nhiễm cao như vậy và khi được tiến hành, vắc-xin dường như có thể trở thành một biện pháp can thiệp sử dụng bên cạnh các biện pháp đã sử dụng, điều mà tới nay đã tạo ra sự sụt giảm lớn số ca bệnh sốt rét toàn cầu”. Điều này đã được minh chứng trong thử nghiệm giai đoạn 3 (phase 3) với tất cả trẻ em được cấp màn tẩm hóa chất diệt muỗi để ngủ, tác động của các biện pháp can thiệp hiện tại đã đặc biệt đáng chú ý tại châu Phi nơi mà chủ yếu gánh nặng và các ca sốt rét ác tính xảy ra. Theo một báo cáo mới được xuất bản gần đây trên Tạp chí Nature, tổng số ca bệnh sốt rét trên lục địa châu Phi đã giảm một nửa từ năm 2000 và hơn 660 triệu ca bệnh đã được ngăn chặn bởi các biện pháp phòng chống hiện hành. Các biện pháp can thiệp chính hiện nay đã được sử dụng là các test chẩn đoán được cải thiện, điều trị thuốc được cải thiện và phân phát màn ngủ tẩm hóa chất quy mô lớn. TS. Alonso cho biết: “Sự triển khai này trong vòng 15 năm qua đã mang lại những lợi ích chưa từng thấy”. Tác động lớn nhất mà báo cáo trên Nature đã vạch ra đó là màn ngủ được tẩm hóa chất, theo báo cáo đã ngăn ngừa 68% số ca bệnh. TS Alonso nói: “Về cơ bản màn ngủ có tác động lớn nhất vì chúng là một công cụ phòng ngừa”, biện pháp này cũng phù hợp với nguyên tắc y tế công cộng then chốt đó là phòng bệnh hơn trị bệnh. Tuy nhiên, các thử nghiệm và điều trị cũng đóng vai trò của chúng, chứng minh rằng chúng cũng rất quan trọng trong việc giúp giảm số ca bệnh ác tính và tử vong. Gs Drakeley cho biết: “Tất cả những biện pháp này đã đóng góp lại sự giảm lây nhiễm sốt rét toàn cầu mà chúng ta thấy được” nhưng hiện nay chưa phải lúc tự mãn, dù đã giảm số lượng vẫn còn gần 200 triệu ca bệnh sốt rét trong năm 2013 và hơn 400.000 ca tử vong chủ yếu là trẻ em châu Phi là do một phần nào đó sự kháng thuốc nổi lên ở cả ký sinh trùng và quần thể muỗi. GS. Drakeley cho biết: “Chúng ta đang thấy rằng véc-tơ côn trùng đang trở nên kháng với một số hóa chất sử dụng trên màn ngủ”. Hơn nữa, ký sinh trùng còn thêm dầu vào lửa bởi việc phát triển khả năng kháng với những loại thuốc đã từng giết được chúng là một mối lo ngại to lớn hơn ở Đông Nam Á nơi mà kháng thuốc gần đây đã nổi lên chống lại liệu pháp kết hợp artemisinin (ACTs), biện pháp điều trị hàng đầu hiện tại chống lại sốt rét trong khi kháng thuốc ACTs vẫn chưa lan tới lục địa châu Phi.


Những ca sốt rét ở châu Phi hiện đã giảm 50% từ năm 2000 nhờ việc sử dụng màn ngủ tẩm hóa chất [Hình do GSK cung cấp]

Chống lại sự kháng thuốc (Battling resistance)

Các nhóm nghiên cứu tại Trường đang tiên phong trong những biện pháp tiếp cận và can thiệp mới để xử lý các vấn đề đang nổi lên từ các biện pháp can thiệp hiện tại, GS. Drakeley cho biết: “Chúng tôi cần đảm bảo rằng chúng ta luôn đi trước trong cuộc chơi”, Trung tâm của Gs Drakeley đang điều tra một số lựa chọn bao gồm kết hợp thuốc diệt muỗi mới và các biện pháp dùng chúng, các biện pháp điều trị thuốc mới bao gồm sử dụng để phòng bệnh và các test chẩn đoán (RDTs) được cải thiện với độ nhạy gia tăng, hy vọng kết quả sẽ là một kho vũ khí mới để xử lý cả véc-tơ và ký sinh trùng.


Trong năm 2013, 53 quốc gia đã báo cáo tình trạng kháng ở những con muỗi đối với ít nhất một loại hóa chất được sử dụng là một biện pháp phòng chống, nỗi lo ngại tại thực địa khi phát triển màn tẩm hóa chất không phải chính là những hóa chất mà thay vào đó là phát hiện một loại có thể bám dính tốt vào bề mặt màn ngủ. GS. Greenwood cho biết về hóa chất hiện được sử dụng trên màn ngủ: “Chúng ta rất may mắn với pyrethroids”, ông giải thích những hợp chất này được phát hiện là kết hợp tốt với một cấu trúc sợi “với nhiều hóa chất khác thì điều đó là không thể”, những hóa chất khác đã được sử dụng thay thế như là một phần của một biện pháp can thiệp được biết đến như phun tồn lưu trong nhà (Indoor Residual Spraying_ IRS)-biện pháp mà hóa chất được phun lên bề mặt các bức tường của các ngôi nha tại các khu vực lưu hành cao nhằm làm giảm bớt ca mắc mới bằng việc giết muỗi khi chúng nghỉ đậu trên tường nhà, chiến lược này đã có hiệu quả cao như là một biện pháp giảm thiểu mắc sốt rét mới nhưng chi phí gia tăng và khó khăn trong việc cung cấp triển khai tại thực địa đã dẫn đến IRS được sử dụng ít thường xuyên hơn hiện nay, GS. Greenwood nói: “Đưa những hóa chất này vào một thế hệ màn ngủ thứ hai là một điều ưu tiên”. Các nhóm tại Trung tâm sốt rét đang cộng tác với các nhà sản xuất thuốc diệt muỗi và các nhóm nghiên cứu khác làm việc với vấn đề này tại để vừa phát triển các hóa chất mới cũng như là tăng cường thêm sức mạnh cho những loại có sẵn để khiến chúng bền bỉ hơn khi được tẩm vào màn.


GS Drakeley cho biết: “Việc đó vừa là đánh giá các hợp chất mới và sử dụng những loại có sẵn tối ưu nhất”, quy tắc tương tự như vậy áp dụng đối với đối phó kháng thuốc, điều mà Gs Drakeley cũng lo ngại về nó tương tự. Ông nói: “Chúng ta không thể không có một loại thuốc thay thế dự phòng”, nếu tình trạng kháng thuốc lan tới châu Phi như đã xảy ra với chloroquine điều trị sốt rét trước đây, hậu quả sẽ cực kỳ nghiêm trọng. GS. Drakeley cho biết thêm: “Kháng chloroquine trong đầu thập niên 90 đã gây ra số ca tử vong do sốt rét tăng ồ ạt”, các nhóm do đó hiện đang cố gắng lấp đầy chỗ trống này với những loại thuốc thay thế để tránh một viễn cảnh thảm họa xảy ra lần nữa.


Hóa trị liệu theo mùa (Tis the season)

Những loại thuốc chống sốt rét cũ cũng đang được khai thác triệt để nhằm giúp mở đường cho một biện pháp can thiệp chính yếu được dẫn đầu bởi Trường-được biết như là phòng bệnh bằng tác nhân hóa học theo mùa, chiến lược mới được thông qua này bảo vệ trẻ em ở những vùng sốt rét lưu hành cao nhưng theo mùa các vùng ở châu Phi nơi lây nhiễm sốt rét xảy ra chỉ trong vài tháng trong mỗi năm. Mục tiêu nhằm cung cấp thuốc chống sốt rét hiệu lực lâu dài trước khi xảy ra những ca nhiễm mới để đóng vai trò như là một tấm khiên trước khi ký sinh trùng xâm nhập nhưng điều quan trọng là sử dụng thuốc phải đúng lúc, trước một đợt nhiễm đỉnh điểm. TS. Paul Milligan, Phó giáo sư Dịch tễ học và Thống kê Y học tại trường Vệ sinh dịch tễ và Y học Nhiệt đới London, người đã và đang thử nghiệm chiến lược mới này cho biết: “Đây là một hình thức phòng chống sốt rét mới”. Biện pháp tiếp cận này có sự tham gia của các nước được nhắm đến trong vành đai dưới Sahel của châu Phi trong suốt mùa mưa của các nước này khi số lượng muỗi và do đó là sốt rét- ở đỉnh điểm. TS. Milligan cho biết thêm: “Đây là một ví dụ của một cách nghĩ phòng chống sốt rét mới”. Những thuốc nhả chậm (slow-release drugs) như sulfadoxine-pyrimethamine và amodiaquine được uống một lần mỗi tháng bởi trẻ em trong suốt mùa mưa của nước đó, sử dụng những thuốc chống sốt rét trước đây này đảm bảo liệu pháp ACTs hiện tại vẫn còn sẵn sàng để điều trị nhanh bất kỳ ai nhiễm bệnh. TS Milligan cho biết: “Những loại thuốc này được loại bỏ khỏi cơ thể chậm và do đó mang lại mức độ bảo vệ cao trong khoảng 4 tuần”, hàng tháng các liều cần thiết cho cả mùa mưa tiếp tục mang lại sự bảo vệ, một chuỗi các thử nghiễm đã cung cấp một số lượng lớn bằng chứng ủng hộ cho biện pháp phòng ngừa bằng tác nhân hóa học theo mùa này, đánh giá rằng không chỉ tác động của việc uống thuốc theo mùa mà còn là tính thực tế của nó được tiến hành và được chấp nhận bởi cộng đồng đang được tiến hành. Sự thông qua biện pháp này đã được khởi đầu với một dự án Tiến sĩ, hỗ trợ bởi GS. Greenwood và các đồng nghiệp tại Trường, thử nghiệm chiến lược này tại Senegal. Thử nghiệm quy mô nhỏ này đã phát hiện rằng cấp cho trẻ em dưới năm tuổi một liều thuốc chống sốt rét trong 3 tháng làm giảm tỷ lệ mắc sốt rét 86%, các nghiên cứu sâu hơn tại Mali phát hiện rằng việc sử dụng biện pháp phòng ngừa bằng tác nhân hóa học để hỗ trợ phòng ngừa tốt hơn tại những khu vực nơi mà màn ngủ đã được sử dụng làm giảm số ca nhiễm sốt rét ác tính ở trẻ em 77%. Biện pháp này đã tạo ra một chính sách WHO vào năm 2012 sau 10 năm phát triển bởi các nhà khoa học châu Phi tại các khu vực bệnh lưu hành và được Trường hỗ trợ, TS. Alonso cho biết: “Biện pháp này đã được chứng minh giảm đáng kể nguy cơ mắc bệnh và có thể là tử vong”, ông cũng là người ủng hộ biện pháp can thiệp này, biện pháp phòng ngừa bệnh bằng tác nhân hóa học theo mùa hiện đang được tiến hành ở 8 quốc gia châu Phi nới dân số hiện có thể đi trước mùa mưa và ký sinh trùng một bước.


RTS,S theo mùa? (Seasonal RTS,S?)

Những lợi ích thấy được từ việc tăng cường bảo vệ trong những cộng đồng trước khi xảy ra một đợt nhiễm sốt rét được dự báo đang được cân nhắc thành một khả năng cho RTS,S, biện pháp tiếp cận này sẽ vượt qua giới hạn về hiệu lực của vắc-xin giảm dần theo thời gian trong khi những liều tăng cường có thể cung cấp hằng năm. TS. Milligan cho biết: “Sẽ là hợp lý nếu cố gắng căn thời gian cho những liều tăng cường này ngay trước mỗi mùa lan truyền bệnh”, vắc-xin có thể cung cấp mức độ bảo vệ thấp hơn thuốc hiện được sử dụng cho biện pháp phòng bệnh bằng tác nhân hóa học theo mùa nhưng sẽ giúp mọi người không phải tới các phòng khám y tế mỗi tháng để nhận thuốc. TS Milligan cho biết thêm: “Nếu mùa kéo dài hơn thì có thể sẽ rất hấp dẫn khi có thể cung cấp chỉ một liều vắc-xin tăng cường”. Đối với hiện nay, đây đơn giản mới là một ý tưởng và cần phải có các thử nghiệm. GS. Drakeley, người nhìn thấy khả năng việc kiểm soát lây nhiễm xa hơn cho biết: “Không phải vấn đề bạn sẽ sử dụng vắc-xin như thế nào, mà là chúng ta sẽ đạt được gì khi sử dụng nó”, nghiên cứu của GS. Drakeley tập trung vào lây nhiễm sốt rét, xác định những khu vực điểm nóng chính và những người chịu trách nhiệm cho việc lây lan căn bệnh trong một quần thể, để sau đó có thể nhắm vào họ với các biện pháp can thiệp phù hợp, trong khi thế giới chờ đợi các quyết định được đưa ra và các hành động được tiến hành đối với RTS,S thì những vũ khí khác trong cuộc chiến chống sốt rét cần một số sự chăm sóc, chúng không chỉ cần được nâng cấp mà cần được tận dụng sâu hơn nhằm đạt được những mục tiêu WHO giảm 90% ca bệnh và tử vong tính đến 2030. TS. Alonso phát biểu: “Đó không phải là những mục tiêu đầy tham vọng… mà dựa trên những điều có thể thực hiện được với các công cụ có sẵn hiện tại”, theo một ước tính 50% dân số nằm trong nguy cơ tại châu Phi vẫn chưa được tiếp cận bởi màn ngủ tẩm hóa chất và có tới 60 triệu người vẫn còn chưa được chẩn đoán và điều trị nhưng họ có thể và sẽ được tiếp cận, một số điều lạc quan là bầu không khí xung quanh những con muỗi này. Trong khi gánh nặng lớn nhất của căn bệnh có thể nằm ở vùng cận hoang mạng Sahara châu Phi, những nước khác đang nằm trên một con đường mày lục địa này nên làm theo. TS Alonso nói rằng: “Ở những khu vực khác trên thế giới, sốt rét đã từng và tiếp tục sẽ bị loại trừ”. Argentina là một ví dụ mà hy vọng sẽ được chứng nhận không còn sốt rét trong năm 2016 và khu vực châu Âu của WHO bao gồm Trung Á đã đạt được không có ca bệnh năm nay, tuy nhiên xa hơn nữa các nước trên khắp Đông Nam Á hiện đang tiến về hướng loại trừ sốt rét. Trong mắt của TS. Alonso, bản đồ đang thu hẹp dần đối với những con muỗi che chở ký sinh trùng chết chóc này, ông phát biểu đầy khích lệ: “Các nước đang loại trừ sốt rét và chúng tôi hiện đang cân nhắc các nỗ lực loại trừ tại vùng cận hoang mạc Sahara châu Phi” vì vậy một ngày nào đó tiếng vo ve khó chịu kia ở gần tai của bạn có thể chỉ mang lại nỗi sợ nhỏ như là bị ngứa da và sự khó chịu về thẩm mỹ nhưng không phải là nỗi sợ cái chết và bệnh tật dù bạn ở đâu trên thế giới.

Ngày 05/01/2016
PGS.TS. Triệu Nguyên Trung, CN. Nguyễn Thái Hoàng
(Theo WHO, BBC News và ABC News)
 

THÔNG BÁO

   Dịch vụ khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn khám bệnh tất cả các ngày trong tuần (kể cả thứ 7 và chủ nhật)

   THÔNG BÁO: Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn xin trân trọng thông báo thời gian mở cửa hoạt động trở lại vào ngày 20/10/2021.


 LOẠI HÌNH DỊCH VỤ
 CHUYÊN ĐỀ
 PHẦN MỀM LIÊN KẾT
 CÁC VẤN ĐỀ QUAN TÂM
 QUẢNG CÁO

Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005
Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.
Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464
Email: impequynhon.org.vn@gmail.com
Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng
Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích