TRANG CHỦ | Thứ 7, ngày 20/04/2024 |
|
|||||||||||||||
|
Khu vực cận Saharan, châu Phi: Khu vực bị ảnh hưởng nặng nhất, trong khi chỉ chiếm 13% dân số thế giới nhưng tới gần 70% số người sống chung với HIV toàn cầu [1] [10];các tiểu vùng Đông và Nam Phi có hơn một nửa (52%) tổng số người sống chung với HIV cũng như hơn một nửa (56%) số trẻ em sống với HIV. Hầu như tất cả các quốc gia tiểu vùng của khu vực đã tổng quát hóa tỷ lệ nhiễm HIV tại quốc gia của họ lớn hơn 1%;trong 8 quốc gia, ≥ 10% người trưởng thành chỉ được ước tính là HIV dương tính.Nam Phi có số lượng cao nhất của người sống với HIV trên thế giới (7,0 triệu),Swaziland có tỷ lệ nhiễm cao nhất thế giới (28,8%),nhiễm mới HIV người trưởng thành ở Đông và Nam Phi đã giảm 4% từ năm 2010. Khu vực châu Mỹ Latinh và Caribê: Ước tính khoảng 2 triệu người đang sống với HIV ở khu vực châu Mỹ Latinh và Caribê, trong đó 100.000 người mới nhiễm trong năm 2015. Nhiễm mới HIV hàng năm ở người lớn tăng 2% ở Mỹ Latinh và 9% ở Caribbean giữa 2010 và 2015; có 9 nước ở khu vực này bùng nổ đại dịch.Theo số liệu các nước, Bahamas có tỷ lệ cao nhất khu vực (3,2%) và Brazil số người sống chung với HIV lớn nhất (830.000). Khu vực Đông Âu và Trung Á: Ước tính khoảng 1,5 triệu người đang sống chung với HIV, trong đó 190.000 người nhiễm mới trong năm 2015, nhiễm mới HIV trong khu vực tăng hơn 50% từ 2010 đến 2015. Dịch bệnh chủ yếu là do tiêm chích ma túy chiếm hơn nửa số ca nhiễm HIV mới trong năm 2015, mặc dù lây truyền dị tính (heterosexual transmission) cũng đóng vai trò quan trọng. Khu vực châu Á-Thái Bình Dương: Ước tính khoảng 5,1 triệu người đang sống với HIV ở châu Á và Thái Bình Dương,số ca nhiễm mới HIV hàng năm đã giảm 3% kể từ năm 2010. Khu vực này cũng là nơi có 2 quốc gia đông dân nhất trên thế giới là Trung Quốc và Ấn Độ, thậm chí tỷ lệ lan truyền thấp có thể chuyển thành số lượng lớn người dân. Đầu tư ·19 tỷ đô la (USD) được đầu tư ứng phó với AIDS ở các nước thu nhập thấp và trung bình (không kể các nước gần đây đã chuyển thành các loại thu nhập cao) vào 2015. ·Nguồn lực trong nước chiếm 57% tổng nguồn lực cho HIV ở các nước thu nhập thấp và trung bình trong năm 2015. ·UNAIDS ước tính cần 26,2 tỷ USD ứng phó với AIDS vào năm 2020 và 23,9 tỷ USD vào năm 2030. Gánh nặng và thách thứcTừ "những con số biết nói" trên, WHO nhận định dịch bệnh HIV/AIDS vẫn là một trong những thách thức y tế nghiêm trọng nhất toàn cầu khi có khoảng 36,7 triệu người đang sống chung với HIV và hàng chục triệu người tử vong liên quan đến AIDS từ khi bắt đầu đại dịch; trong khi các ca mắc mới đã được báo cáo ở tất cả các khu vực của thế giới, khoảng 2/3 ở châu Phi cận Sahara với 46% số ca mắc mới ở Đông và Nam Phi [1] [2]. Nhiều người sống chung với HIV hoặc có nguy cơ nhiễm HIV không có quyền tiếp cận đến dự phòng, chăm sóc, điều trị và vẫn chưa có thuốc chữa. HIV chủ yếu ảnh hưởng đến những người trong những năm họ có năng suất lao động cao nhất, khoảng 1/3 số ca nhiễm mới là những người trẻ tuổi (15-24) [1] [2]. HIV không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe của cá nhân, hộ gia đình mà còn tác động cộng đồng, sự phát triển và tăng trưởng kinh tế quốc dân;các nước bị HIV ảnh hưởng nặng nhất cũng bị các bệnh lây nhiễm khác, mất an toàn thực phẩm và các vấn đề nghiêm trọng khác. Mặc dù có những thách thức, nỗ lực toàn cầu mới được gắn kết để giải quyết dịch bệnh và thu được tiến bộ đáng kể; số người nhiễm mới HIV nhất là trẻ em và số ca tử vong liên quan đến AIDS đã giảm trong những năm qua, số người nhiễm HIV được điều trị tăng lên đến hơn 18 triệu USD trong năm 2016 [3].Tuy nhiên, số liệu gần đây cho thấy tỷ lệ giảm số ca mắc mới ở người trưởng thành quan sát trước đó trong đại dịch đã bị chững lại thay vì tỷ lệ đang gia tăng hiện nay ở một số khu vực trên thế giới [4] [5]. Mặc dù có nhiều yếu tố nguy cơ khác nhau nhưng hầu hết số ca nhiễm lây truyền qua đường tình dục khác giới được xác định, ở một số nước những người đàn ông quan hệ tình dục đồng tính (men who have sex with men), người tiêm chích ma túy (injecting drug users), người bán dâm (sex workers), người chuyển giới (transgender people) và các tù nhân bị ảnh hưởng bởi HIV không tương xứng (prisoners are disproportionally affected by HIV). Mặc dù khả năng xét nghiệm HIV đã tăng lên theo thời gian cho phép nhiều người biết được tình trạng HIV của họ nhưng khoảng 4/10 người có HIV vẫn không biết mình bị phơi nhiễm bệnh. HIV đã dẫn đến sự phục hồi bệnh lao (TB), đặc biệt là ở châu Phi và lao là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu cho những người có HIV trên toàn thế giới [6] [7],năm 2015 có khoảng 11% số trường hợp lao mới xảy ra ở những người sống chung với HIV [8].Tuy nhiên, giữa năm 2004 và 2014 tử vong do lao ở những người sống chung với HIV giảm 32%, chủ yếu là nhờ tăng cường các dịch vụ phát hiện lao/HIV. Phụ nữ đại diện cho một nửa (51%) của tất cả các bệnh nhân sống chung với HIV toàn cầu,HIV là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản [9]; tình trạngbất bình đẳng giới, phân biệt dịch vụ, bạo lực tình dục gia tăng, phụ nữ nhiễm HIV dễ bị tổn thương nhất là phụ nữ trẻ về mặt sinh học dễ bị nhiễm HIV. Những người trẻ lứa tuổi 15-24, chiếm khoảng 1/3 số ca nhiễm mới HIV [2].Ở tiểu vùng Sahara châu Phi, phụ nữ trẻ tuổi từ 15-24 chiếm 25% tổng số ca nhiễm HIV mới ở người trưởng thành, mặc dù họ chỉ chiếm 17% dân số trưởng thành.
|
Nhóm giải pháp về nguồn nhân lực: Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực cho hệ thống HIV/AIDS bảo đảm tính bền vững; Xây dựng khung chương trình, chuẩn hóa tài liệu đào tạo về phòng, chống HIV/AIDS trong hệ thống trường y. Nâng cao năng lực giảng dạy, đào tạo về phòng, chống HIV/AIDS cho đội ngũ giáo viên cho các trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân; Nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác phòng, chống HIV/AIDS, trong đó chú trọng việc đào tạo, tập huấn cho cán bộ hệ thống y tế tuyến huyện, xã và y tế thôn bản; Nâng cao năng lực cho các Bộ, ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ, tổ chức tôn giáo, mạng lưới người nhiễm HIV, nhóm tự lực, câu lạc bộ trong cung cấp dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS, tăng cường đào tạo cho người nhiễm HIV về kỹ năng chăm sóc, tư vấn để tham gia hỗ trợ công tác điều trị cho bệnh nhân.
Nhóm giải pháp về cung ứng thuốc, thiết bị: Xây dựng và tổ chức chuỗi cung ứng thuốc, thiết bị thống nhất, dựa trên hệ thống tiêu chuẩn chất lượng; Xây dựng kế hoạch nhu cầu thuốc, thiết bị cho cả giai đoạn; Tăng cường năng lực của các nhà sản xuất trong nước và có chính sách hỗ trợ, ưu đãi cho việc sản xuất thuốc, thiết bị nhằm bảo đảm tính chủ động trong việc đáp ứng đủ nhu cầu trong nước và tiến tới xuất khẩu; Củng cố và hoàn thiện cơ sở hạ tầng, trang thiết bị cho các đơn vị.
UNAIDS luôn hỗ trợ Việt Nam hoàn thành các mục tiêu chiến lược
Nhóm giải pháp về hợp tác quốc tế: Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ và cam kết quốc tế trong phòng chống HIV/AIDS; Củng cố, tăng cường hợp tác quốc tế theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ với các tổ chức Liên hợp quốc, song phương, đa phương để tranh thủ sự hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật và kỹ năng quản lý cho công tác phòng, chống HIV/AIDS; Phối hợp chặt chẽ với các nước có chung biên giới đường bộ trong việc chia sẻ thông tin và triển khai các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS qua biên giới.
ARV không chỉ cứu mạng sống và đảm bảo sức khỏe cho người nhiễm HIV mà còn hạn chế lây nhiễm HIV ra cộng đồng nhưng thời gian tới khi nguồn thuốc viện trợ bị cắt giảm thì cơ hội mới cho người nhiễm HIV điều trị ARV từ nguồn bảo hiểm y tế đã được mở ra theo
Quyết định số 2188/QĐ-TTg ngày 15/11/2016 của Thủ tướng Chính phủ về thanh toán thuốc ARV và hỗ trợ người sử dụng thuốc ARV từ nguồn bảo hiểm y tế là Quyết định quan trọng và kịp thời nhằm ứng phó kịp thời để duy trì và tăng số người nhiễm HIV được điều trị, chăm sóc sau khi hết các nguồn tài trợ quốc tế.Quyết định này quy định thực hiện mua sắm tập trung cấp quốc gia đối với thuốc kháng virus HIV theo quy định của Luật đấu cũng như các văn bản hướng dẫn. Căn cứ vào văn bản thỏa thuận khung giữa Bộ Y tế và nhà cung ứng thuốc được lựa chọn, tổ chức bảo hiểm y tế ký hợp đồng trực tiếp với nhà thầu cung ứng thuốc việc thanh toán chi phí ARV thực hiện theo quy định về thanh toán, quyết toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế giữa cơ sở khám chữa bệnh với tổ chức bảo hiểm y tế hiện hành. Quyết định 2188 cũng hỗ trợ người sử dụng ARV căn cứ vào khả năng ngân sách các địa phương đảm bảo hỗ trợ chi phí cùng chi trả đối với thuốc ARV cho người nhiễm HIV/AIDS có thẻ bảo hiểm y tế thông qua Quỹ khám chữa bệnh người nghèo, Quỹ hỗ trợ người nhiễm HIV. Các cơ sở khám chữa bệnh bảo hiểm y tế sử dụng các nguồn quỹ khác của đơn vị theo quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập để hỗ trợ phần cùng chi trả thuốc ARV cho người nhiễm HIV, nhất là quy định trách nhiệm của UBND tỉnh/thành phố bố trí kinh phí mua thẻ bảo hiểm y tế cho 100% người nhiễm HIV.
Hành động mạnh mẽ trong cung cấp dịch vụ HIV
Nhân ngày thế giới phòng chống AIDS, WHO khuyến khích Việt Nam lấp những khoảng trống (gaps) còn lại trong phòng ngừa, xét nghiệm và điều trị HIV hướng tới mục tiêu chấm dứt đại dịch AIDS toàn cầu vào năm 2030. Việt Nam đã thể hiện cam kết cấp cao và cách tiếp cận sáng tạo trong cuộc chiến chống HIV/AIDS, tháng 11/2016 Thủ tướng Chính phủ cho phép sử dụng quỹ bảo hiểm y tế mua thuốc antiretrovirus (ARV) cung cấp nguồn tài chính bền vững phương pháp điều trị antiretrovirus (ART), đồng thời chỉ đạo chính quyền địa phương hỗ trợ đồng thanh toán chi phí điều trị ARV và mua thẻ bảo hiểm y tế cho người sống chung với HIV/AIDS. TS Lokky Wai, đại diện WHO tại Việt Nam phát biểu: "Quyết định của Chính phủ là bước tiến quan trọng tăng nguồn tài chính trong nước điều trị và chăm sóc HIV, tạo đà ứng phó bền vững của ngành y tế với đại dịch này. Tôi xin chúc mừng Việt Nam đã hành động kịp thời và thu được những nỗ lực rất lớn gia tăng tiếp cận của người sống chung với HIV có cách điều trị thích hợp, đồng thời sẽ đảm bảo không bỏ sót ai lại đằng sau bằng cách quan tâm đến nhu cầu của những người dễ bị tổn thương nhất”. Mặc dù quyết định quan trọng này được ban hành nhưng đến nay vẫn còn hơn một nửa số người sống với HIV tại Việt Nam chưa có bảo hiểm y tế, ngành y tế khuyến khích tất cả người dân Việt Nam bao gồm cả những người sống với HIV tham gia bảo hiểm y tế quốc gia.
Phát hiện người nhiễm HIV tại cộng đồng là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng ngăn chặn dịch bệnh lây lan
WHO cho rằng tự xét nghiệm HIV được chứng minh là hiệu quả, kín đáo và được nhiều người chấp nhận kể cả nam giới, thanh niên, nhân viên y tế, phụ nữ mang thai và các nhóm đối tượng khác. Cũng như các phương pháp xét nghiệm HIV khác, phương pháp tự xét nghiệm luôn là tự nguyện và không cưỡng chế, bất cứ ai có kết quả tự xét nghiệm dương tính nên làm các xét nghiệm khẳng định tại cơ sở y tế, được cung cấp các thông tin về HIV và hỗ trợ, tư vấn kịp thời về dự phòng, điều trị và chăm sóc HIV. Hơn nữa, cần khuyến khích và hỗ trợ những người sống với HIV thông báo với các bạn tình của họ về khả năng phơi nhiễm HIV hoặc tự bản thân họ sẽ thông báo hay có sự giúp đỡ của nhân viên y tế nhằm khuyến khích những người sống với HIV giúp đối tác bạn tình và bạn cùng tiêm chích của họ làm xét nghiệm HIV, như vậy sẽ giúp những người này được hưởng lợi điều trị nếu họ nhiễm HIV. Ở Việt Nam, nhiều người sống chung với HIV vẫn không biết tình trạng bệnh của mình nên việc chẩn đoán muộn và điều trị muộn vẫn phổ biến làm cộng đồng hạn chế tiếp cận điều trị ARV, những khuyến cáo mới của WHO có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam và nên được áp dụng trong chương trình phòng chống HIV quốc gia. Cũng như các nước trong khu vực dịch bệnh của Việt Nam đang tập trung vào các nhóm đối tượng chính, để ứng phó với HIV cần phải giải quyết các rào cản ngăn các nhóm đối tượng tiếp cận các dịch vụ, Cục phòng, chống HIV/AIDS (VAAC) thuộc Bộ Y tế (MOH) đã hợp tác với WHO từ 2011 để xây dựng mô hình về lợi ích của việc bắt đầu điều trị ARV sớm cho những người tiêm chích ma túy và các nhóm quần thể đích khác, ngoài ra hoạt động này tập trung cung cấp dịch vụ xét nghiệm HIV dựa vào cộng đồng tại những nơi khó khăn. WHO dẫn chứng tại Thanh Hóa, nhân viên y tế thôn bản (village health workers) được đào tạo để cung cấp dịch vụ xét nghiệm cho các quần thể đích và bạn tình của họ trong cộng đồng nhằm tháo gỡ khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ tại trạm y tế xã ở khu vực miền núi; tại Thái Nguyên, đồng đẳng viên (peer educators) được đào tạo để cung cấp dịch vụ xét nghiệm và dự phòng nhằm vượt qua sự kỳ thị và phân biệt đối xử tại các cơ sở y tế. Ở cả hai tỉnh, những cá nhân có kết quả phản ứng với xét nghiệm ban đầu được kết nối với cơ sở y tế để xét nghiệm khẳng định và điều trị, cũng như được chăm sóc. Việc thực hiện thí điểm tại Thanh Hóa và Thái Nguyên đã chứng minh tính khả thi của dịch vụ tư vấn và xét nghiệm HIV dựa vào cộng đồng (community-based) trong tiếp cận nhóm “khó tiếp cận” (hard to reach) thuộc các quần thể nguy cơ cao. Năm 2015, phương pháp tiếp cận dựa vào cộng đồng mang lại kết quả tỷ lệ nhiễm HIV cao gấp 6 lần trong số những người được xét nghiệm tại cộng đồng so với xét nghiệm tại cơ sở y tế. Hướng dẫn quốc gia của Việt Nam về xét nghiệm HIV đang được cập nhật và xét nghiệm tại cồng đồng cũng sẽ được đưa vào trong hướng dẫn này. Xét nghiệm HIV dựa vào cộng đồng cũng có thể kết hợp tự xét nghiệm HIV và đây là một bước tiến quan trọng đối với Việt Nam để đạt mục tiêu 90-90-90 của UN-90% tất cả những người sống với HIV biết tình trạng HIV của họ vào năm 2020. Kinh nghiệm của dịch vụ xét nghiệm HIV dựa vào cộng đồng tại Việt Nam cũng được nêu bật trong Báo cáo tiến độ của WHO năm 2016 (WHO’s Progress report 2016): ngăn chặn HIV, xét nghiệm và điều trị cho tất cả-WHO hỗ trợ cho tác động quốc gia.
Hình 16
Kế hoạch tháng hành động quốc gia phòng chống HIV/AIDS năm 2016
Mục tiêu và chủ đề
Theo VAAC (MOH) từ ngày 10/11 đến 10/12/2016 "Tháng hành động quốc gia phòng chống HIV/AIDS năm 2016" sẽ được triển khai thực hiện nhằm đạt được các mục tiêu thúc đẩy sự tham gia của cả hệ thống chính trị và của toàn dân nhằm thực hiện “Chiến lược Quốc gia phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2020 và tầm nhìn 2030”, hướng tới các mục tiêu 90-90-90 để kết thúc dịch AIDS ở Việt Nam vào năm 2030 (90% người nhiễm HIV biết được tình trạng nhiễm HIV của mình, 90% người nhiễm HIV chẩn đoán nhiễm HIV được điều trị bằng thuốc kháng vi rút và 90% người nhiễm HIV đã được điều trị bằng thuốc kháng vi rút kiểm soát được số lượng vi rút ở mức thấp);Nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là những người dễ tổn thương, người có hành vi nguy cơ cao, người dân sống ở vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc ít người về dự phòng, chăm sóc và điều trị HIV/AIDS;Giảm kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV và ảnh hưởng bởi HIV/AIDS, tăng cường sự hỗ trợ của gia đình, xã hội với người nhiễm HIV/AIDS và trách nhiệm của người nhiễm HIVAIDS với gia đình, xã hội, đặc biệt là trong dự phòng lây nhiễm HIV và tham gia các hoạt độngphòng, chống HIV/AIDS.Mở rộng độ bao phủ, nâng cao chất lượng, tính dễ tiếp cận của các dịch vụ dự phòng, chăm sóc và điều trị HIV/AIDS đến mọi người dân. Chủ đề của Chiến dịch phòng chống AIDS năm 2016: “Hướng tới mục tiêu 90-90-90 để kết thúc dịch AIDS tại Việt Nam” do UNAIDS phát động mục tiêu 90-90-90 (90% người nhiễm HIV biết được tình trạng nhiễm HIV của mình, 90% người chẩn đoán nhiễm HIV được điều trị bằng thuốc kháng vi rút và 90% người nhiễm HIV đã được điều trị bằng thuốc kháng vi rút kiểm soát được số lượng vi rút ở mức thấp để sống khỏe mạnh và làm giảm nguy cơ lây truyền HIV cho người khác) ở cấp độ toàn cầu để tiến tới kết thúc dịch AIDS vào năm 2030.
Ban hành văn bản hướng dẫn chỉ đạo: Ban Chỉ đạo phòng chống AIDS và tệ nạn ma túy, mại dâm các cấp ban hành văn bản chỉ đạo, hướng dẫn các đơn vị trực thuộc tăng cường triển khai các hoạt động trong "Tháng Hành động quốc gia phòng chống HIV/AIDS năm 2016" phù hợp với điều kiện và chức năng, nhiệm vụ cụ thể của từng đơn vị, địa phương.
Tổ chức các hội nghị, hội thảo:Các hội nghị, hội thảo về các chủ đề: Đánh giá việc thực hiện các mục tiêu 90-90-90 để hướng tới kết thúc AIDS; Huy động và đảm bảo tài chính cho công tác phòng, chống HIV/AIDS; Kiện toàn các cơ sở điều trị HIV/AIDS đủ điều kiện để có thể chi trả thuốc ARV, xét nghiệm cho người nhiễm HIV thông qua bảo hiểm y tế; Mở rộng độ bao phủ bảo hiểm y tế, hướng tới mục tiêu 100% người nhiễm HIV có thẻ bảo hiểm y tế; Chương trình phối hợp Đẩy mạnh phong trào “Toàn dân tham gia phòng chống HIV/AIDS tại cộng đồng dân cư” giai đoạn 2012-2020; Điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế. Chống kỳ thị phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS tại gia đình và cộng đồng, tại trường học, cơ sở y tế và nơi làm việc. Tổ chức gặp mặt, sinh hoạt câu lạc bộ với những người nhiễm HIV, người dễ bị tổn thương với HIV; truyền thông dự phòng lây nhiễm HIV tiếp tục thực hiện hành vi an toàn, tiếp cận sớm các dịch vụ dự phòng; lợi ích của tư vấn xét nghiệm HIV sớm; lợi ích điều trị sớm HIV/AIDS; lợi ích của bảo hiểm y tế với người nhiễm HIV, nguy cơ không tiếp tục được tiếp cận điều trị bằng thuốc kháng vi rút nếu không có thẻ bảo hiểm y tế trong thời gian tới, vận động người nhiễm HIV tham gia và sử dụng thẻ bảo hiểm y tế trong khám chữa bệnh. Các hội thảo chuyên đề chia sẻ kinh nghiệm, các mô hình có hiệu quả trong công tác dự phòng, chăm sóc, điều trị HIV/AIDS và chống kỳ thị phân biệt đối xử, đặc biệt là các mô hình mà người nhiễm HIV chủ động vươn lên làm chủ trong phòng, chống HIV/AIDS và giúp nhau trong cuộc sống. Chú trọng các mô hình điều trị, can thiệp và giảm tác hại cho đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa, các mô hình xã hội hóa trong phòng, chống HIV/AIDS và Phong trào “Toàn dân tham gia phòng, chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân cư”.
Tổ chức các hoạt động truyền thông, vận động:
-Lễ phát động Tháng Hành động quốc gia phòng chống HIV/AIDS Ủy ban Quốc gia phòng chống HIV/AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm khuyến khích các bộ, ngành, đoàn thể và các tỉnh, thành phố tổ chức Lễ phát động Tháng Hành động quốc gia phòng chống HIV/AIDS năm 2016. Thời điểm tổ chức Lễ phát động Tháng Hành động quốc gia phòng, chống HIV/AIDS cần được thực hiện trước hoặc trong ngày mở đầu Tháng Hành động (ngày 10/11/2016).
Truyền thông giáo dục cộng đồng cũng là một kênh quan trọng của mục tiêu 90-90-90
- Lễ mít tinh và diễu hành quần chúng hưởng ứng Tháng Hành động quốc gia phòng, chống HIV/AIDS và Ngày Thế giới phòng, chống AIDS tổ chức tập trung tại cấp bộ, ngành và tỉnh/thành phố. Các cuộc mít tinh và diễu hành quần chúng nên được tổ chức vào thời điểm thuận lợi cho việc huy động cộng đồng tham gia như ngày cuối tuần (26-27/11) hoặc Ngày Thế giới phòng chống HIV/AIDS (01/12/2016). Ngoài Lễ mít tinh, có thể tổ chức các sự kiện phối hợp như diễu hành hoặc quần chúng đi bộ, đạp xe, chạy, trưng bày, triển lãm, ca nhạc, biểu diễn kịch, truyền thông lưu động hoặc các sự kiện gây quỹ hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS. Ngoài ra Ủy ban Quốc gia phòng chống AIDS và phòng chống tệ nạn ma túy, mại dâm khuyến khích các tỉnh/thành phố, bộ ngành chỉ đạo các địa phương, đơn vị tổ chức mít tinh hoặc các sự kiện thích hợp khác tùy theo điều kiện cụ thể của từng địa phương, đơn vị.
- Tổ chức các hoạt động truyền thông, vận động hưởng ứng Tháng hành động quốc gia phòng chống HIV/AIDS và Ngày Thế giới phòng, chống AIDS chú trọng vào các nội dung biện pháp dự phòng lây nhiễm HIV và lợi ích của việc tiếp cận sớm các dịch vụ dự phòng, chăm sóc, điều trị HIV; Lợi ích của tư vấn xét nghiệm sớm HIV và xét nghiệm định kỳ với nhóm có hành vi nguy cơ cao; Điều trị bằng thuốc ARV: Lợi ích của điều trị bằng thuốc ARV, Lợi ích tiếp cận sớm với các dịch vụ chăm sóc và điều trị HIV/AIDS; quảng bá các dịch vụ điều trị ARV tại địa phương; Bảo hiểm y tế cho người nhiễm HIV/AIDS: Sự cần thiết, quyền lợi, mức đóng, mức hưởng và thủ tục tham gia cũng như cách sử dụng bảo hiểm y tế khi khám chữa bệnh bảo hiểm y tế. Huy động và đảm bảo tài chính cho chương trình phòng, chống HIV/AIDS. Luật Phòng, chống HIV/AIDS cần nhấn mạnh về quyền và nghĩa vụ của người nhiễm HIV, những điều khoản liên quan đến quyền tiếp cận điều trị và chăm sóc sức khỏe cho người nhiễm HIV/AIDS; Chống kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS. Về hình thức: Cần linh hoạt và triển khai đa dạng phong phú các hình thức truyền thông phù hợp với nguồn lực sẵn có của từng địa phương. Truyền thông trực tiếp như truyền thông với cá nhân, truyền thông nhóm, thăm gia đình người nhiễm HIV hoặc người có hành vi nguy cơ cao; tư vấn tại các cơ sở y tế; tổ chức sinh hoạt của các câu lạc bộ phòng, chống HIV/AIDS, các nhóm tự lực, các nhóm giáo dục đồng đẳng (lưu ý cần huy động sự tham gia của người nhiễm HIV). Truyền thông đại chúng: Ưu tiên về thời điểm, thời lượng phát sóng trên đài phát thanh, đài truyền hình; dung lượng và vị trí đăng trên báo in, báo điện tử trong Tháng hành động quốc gia phòng, chống HIV/AIDS; tăng cường truyền thông qua các chương trình giải trí trên truyền hình, các phóng sự, các chương trình quảng cáo, các chương trình toạ đàm, giao lưu với những người nổi tiếng về HIV/AIDS... Xây dựng chuyên trang, chuyên mục, đăng tải tin, bài viết trên các phương tiện thông tin đại chúng ở trung ương và địa phương như Đài Phát thanh và Truyền hình, báo in, báo điện tử. Truyền thông lưu động, đội chiếu bóng lưu động, các cuộc thi tìm hiểu phòng, chống HIV/AIDS; Tổ chức các đêm giao lưu văn nghệ truyền thông phòng, chống HIV/AIDS, nhất là ở xã, phường, thôn, ấp, bản. Tổ chức các sự kiện truyền thông có sự tham gia của người nhiễm HIV và gia đình; của các nhà lãnh đạo, người nổi tiếng và lãnh đạo cộng đồng; Phát triển và phổ biến các phương tiện và tài liệu truyền thông: Xây dựng các cụm panô, khẩu hiệu, treo băng roll tại các địa điểm công cộng có đông người qua lại như các trục đường giao thông chính, các bến xe, công viên; cửa ngõ thành phố, xã phường, thôn, ấp, bản và cổng các cơ quan, đơn vị, trường học, bệnh viện; Phổ biến các ấn phẩm truyền thông phòng chống HIV/AIDS khác như áp phích, tranh gấp, tờ rơi, sách mỏng về phòng, chống HIV/AIDS.
Hình ảnh thay lời
Thực hiện các hoạt động phòng chống HIV/AIDS khác
Giới thiệu, quảng bá rộng rãi về lợi ích của việc tiếp cận sớm các dịch vụ dự phòng, chăm sóc, điều trị HIV/AIDS và giới thiệu chi tiết các cơ sở cung cấp các dịch vụ dự phòng, chăm sóc, điều trị HIV/AIDS sẵn có tại địa phương, đơn vị, bao gồm cả các dịch vụ chuyển tiếp, chuyển tuyến để mọi người dân, đặc biệt là những người dễ tổn thương, người nhiễm HIV và bệnh nhân AIDS dễ dàng tiếp cận và sử dụng; Tổ chức mở rộng việc cung cấp các dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS như tư vấn xét nghiệm HIV lưu động; xét nghiệm HIV dựa vào cộng đồng; điểm cấp phát thuốc Methadone; điểm cấp phát thuốc ARV tại các trạm y tế xã. Tổ chức các hoạt động truyền thông vận động đưa trẻ nhiễm HIV đến trường học chung với trẻ không nhiễm HIV và chống kỳ thị phân biệt đối xử với trẻ nhiễm HIV; Tổ chức vận động các doanh nghiệp tham gia các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS cho người lao động, nhận người lao động là người nhiễm HIV, người sau cai, người đang được điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế; Tổ chức các chương trình vận động các tổ chức, cá nhân và gia đình tích cực tham gia các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS, ủng hộ gây quỹ hỗ trợ người nhiễm HIV, mua thẻ bảo hiểm y tế cho người nhiễm HIV và tổ chức thăm hỏi người nhiễm hoặc nhóm người nhiễm HIV và bệnh nhân AIDS tại địa phương;Tổ chức các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS khu vực biên giới, vùng sâu, vùngxa và vùng đồng bào dân tộc thiểu số; Kiện toàn, củng cố hệ thống chuyển tiếp, chuyển tuyến, đặc biệt là dịch vụ cung cấp các phương tiện dự phòng lây nhiễm HIV như bao cao su, bơm kim tiêm sạch cho mọi người dân có nhu cầu tại cộng đồng;Rà soát, chấn chỉnh, giám sát hỗ trợ nhằm nâng cao chất lượng các dịch vụ, đảm bảo tính sẵn có, tính dễ tiếp cận của các dịch vụ dự phòng, chăm sóc và điều trị HIV/AIDS, đặc biệt là các dịch vụ can thiệp giảm thiểu tác hại dự phòng lây nhiễm HIV; Vận động những người tiêu biểu, người có uy tín trong cộng đồng dân tộc thiểu số, tôn giáo, dòng họ (già làng, trưởng bản, chức sắc tôn giáo, trưởng họ, trưởng tộc...) tích cực tham gia các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS trong đồng bào vùng dân tộc và miền núi; Vận động các tổ chức tôn giáo, tổ chức phi chính phủ, các tổ chức xã hội dân sự khác và mạng lưới người nhiễm HIV tại địa phương tích cực tham gia và tổ chức các hoạt động nhân Tháng Hành động; Tổ chức cho các nhà lãnh đạo các cấp tham gia thuyết trình bao gồm cả đánh giá và làm rõ trách nhiệm của các tổ chức, các cá nhân trong công tác phòng, chống HIV/AIDS tại các cuộc họp, hội nghị, các sự kiện truyền thông phòng, chống HIV/AIDS, đi thăm hỏi, động viên các tổ chức, cơ sở chăm sóc, hỗ trợ và điều trị bệnh nhân AIDS, các câu lạc bộ phòng, chống HIV/AIDS, các nhóm tự lực và cá nhân, gia đình bệnh nhân AIDS giúp đỡ người nhiễm HIV/AIDS hoà nhập cộng đồng; Tổ chức các chuyến giám sát, đánh giá việc thực hiện công tác phòng chống HIV/AIDS của các cấp, các ngành, các địa phương, đơn vị.
Theo VAAC (MOH), năm 2016 Việt Nam tiếp tục lựa chọn chủ đề “Hướng tới mục tiêu 90-90-90 để kết thúc dịch AIDS tại Việt Nam” do 2014 nước ta đã cam kết và hưởng ứng các mục tiêu 90-90-90 do UN đề ra và mỗi mục tiêu là một dấu mốc quan trọng khẳng định kết quả phòng chống HIV/AIDS đạt được. Nếu 90% số người nhiễm HIV biết được tình trạng nhiễm HIV của mình thì chứng tỏ giám sát và xét nghiệm đã được làm tốt; có thể tiếp cận, quản lý, tư vấn cung cấp các dịch vụ dự phòng, chăm sóc và điều trị cho phần lớn người nhiễm HIV. Nếu 90% người chẩn đoán nhiễm HIV được điều trị ARV liên tục thì không chỉ làm tốt điều trị sớm chăm sóc sức khỏe cho người nhiễm HIV mà còn giảm nguy cơ lây nhiễm cho cộng đồng và giảm lây truyền từ mẹ sang con. Nếu 90% số người được điều trị ARV kiểm soát được tải lượng vi rút ở mức thấp và ổn định dưới ngưỡng phát hiện là chỉ báo quan trọng đánh giá chất lượng điều trị cũng như sự tuân thủ điều trị tốt của bệnh nhân. Như vậy, nếu đạt được 3 mục tiêu 90 - 90 - 90 thì có thể phát hiện được hầu hết những người nhiễm HIV trong cộng đồng; điều trị tốt được hầu hết những người nhiễm HIV, giảm tối đa khả năng lây nhiễm HIV cho người khác, người đã nhiễm HIV có cuộc sống khỏe mạnh, từ đó có thể đạt được mục tiêu lớn hơn là chấm dứt đại dịch AIDS vào năm 2030 như UN đề ra. 2016 là năm thứ 3 liên tiếp Việt Nam tiếp tục theo đuổi thực hiện mục tiêu này, mặc dù trong những năm qua đã đạt nhiều thành tựu phòng chống HIV/AIDS như 8 năm liền dịch HIV được kiểm soát ở cả 3 tiêu chí giảm số người nhiễm mới HIV hàng năm; giảm số người chuyển sang AIDS và giảm số người tử vong do HIV/AIDS. Việt Nam đã tiếp tục kiểm soát được tỷ lệ nhiễm HIV trong cộng đồng ở mức < 0,3% nhưng theo báo cáo từ các địa phương các chỉ tiêu hiện tại của Việt Nam còn khá xa so với các mục tiêu 90-90-90 do UN đề ra; với mục tiêu 90% số người nhiễm HIV biết được tình trạng nhiễm HIV của mình thì Việt Nam mới đạt gần 80%, với mục tiêu 90% người nhiễm HIV được điều trị ARV mới chỉđạt gần 50%, với mục tiêu 90% số người được điều trị ARV kiểm soát được tải lượng vi rút ở mức thấp và ổn định hiện đang mở rộng theo khuyến cáo của WHO tiến tới như xét nghiệm thường quy đòi hỏi cần sự cam kết và nỗ lực lớn hơn trong việc nâng cao nhận thức phòng chống HIV/AIDS của các cấp lãnh đạo cũng như cộng đồng; đồng thời yêu cầu chương trình phòng chống HIV/AIDS phải có những điều chỉnh thích hợp với tình hình mới.
Tổng Thư ký UN Ban Ki Moon: “Dồn tổng lực kết thúc nhanh đại dịch AIDS”
Thay cho lời kết
"Chiến lượctổng lực nhanhkết thúc đại dịch AIDS"(Fast-Track strategy to end the AIDS epidemic)vào năm 2030 của UNAIDSđưa ra những mục tiêu hết sức tham vọng và thách thức trong khi nguồn lực viện trợ quốc tế đang giảm nhanh, nếu thực hiện được những mục tiêu này thì không chỉ bảo vệ sức khỏe tính mạng của người dân mà còn ổn định và phát triển quốc gia. Trong bối cảnh dịch bệnh HIV mang tính toàn cầu, nếu phòng chống HIV/AIDS hiệu quả cùng thực hiện thắng lợi các mục tiêu 90-90-90 thì đó chính là cơ sở kết thúc đại dịch AIDS vào năm 2030.
1.Chiến lược quốc gia Phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2020 và tầm nhìn 2030 (Ban hành kèm theo Quyết định số 608/QĐ-TTg ngày 25/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ).
2.Kế hoạch tháng hành động quốc gia phòng chống HIV/AIDS năm 2016 (ban hành kèm CV số 7610 /BYT-UBQGngày 20/10/2016 của UBQG PCAIDS và PCTNMTMD)
3.UNAIDS.Global AIDS Update 2016;2016
4.UNAIDS.2016 Core Epidemiology Slides; 2016. UNAIDS. AIDSinfo website; accessed June 2016, available at:http://aidsinfo.unaids.org/.
5.UNAIDS.Get on the Fast Track; 2016.
6.UNAIDS.Prevention Gap Report; 2016.
7.UNAIDS.Fact Sheet 2016; 2016.
8.WHO. Tuberculosis:http://www.who.int/mediacentre/factsheets/fs104/en/index.html.
9.WHO. Tuberculosis and HIV:http://www.who.int/hiv/topics/tb/en/index.html.
10.WHO.Global tuberculosis report; 2016.
11.UNAIDS.UNAIDS 2016-2021 Strategy; August 2015.
12.Population Reference Bureau.2015 World Population Data Sheet; 2015.
13.Global HIV Prevention Working Group.Behavior Change for HIV Prevention: (Re) Considerations for the 21st Century; August 2008.
14.WHO.Guideline on When to Start antiretroviral Therapy and on Pre-Exposure Prophylaxis for HIV; September 2015.
15.WHO.WHO expands recommendation on oral pre-exposure prophylaxis of HIV infection (PrEP);November 2015.
16.United Nations.Political Declaration on HIV and AIDS: on the Fast-Track to Accelerate the Fight Against HIV and to End the AIDS Epidemic by 2030;June 8, 2016.
17.WHO. Press Release: NIAID START Trial confirms that immediate treatment of HIV with antiretroviral drugs (ARVs) protects the health of people living with HIV; May 28, 2015.
18.NIAID. Starting Antiretroviral Treatment Early Improves Outcomes for HIV-Infected Individuals; May 27, 2015.
19.U.S. Congress. P.L. 108-25; May 27, 2003.
20.U.S. Congress. Public Law No: 113-56; December 2, 2013.
21.Kaiser Family Foundation analysis of data from the Office of Management and Budget, Agency Congressional Budget Justifications, and Congressional Appropriations Bills. Totals include funding for HIV and the Global Fund.
22.KFF/UNAIDS. Financing the Response to HIV in Low- and Middle-Income Countries: International Assistance from Donor Governments in 2015; July 2016.
23.United Nations.Transforming our world: the 2030 Agenda for Sustainable Development; 2015.
24.UNAIDS. 2011 Political Declaration on HIV/AIDS; 2011, available at:http://www.unaids.org/en/aboutunaids/unitednationsdeclarationsandgoals/2011highlevelmeetingonaids/.
25.UNAIDS. Press Release: Bold Commitments to Action Made at the United Nations General Assembly High-Level Meeting on Ending AIDS; June 10, 2016.
26.UNAIDS. Fast-Track: ending the AIDS epidemic by 2030; 2014.
27.Global Fund. Grants Portfolio; accessed June 2016, available at:http://www.theglobalfund.org/en/portfolio/.
28.Bill & Melinda Gates Foundation,HIV Strategy Overview; accessed June 2016, available at:http://www.gatesfoundation.org/What-We-Do/Global-Health/HIV#OurStrategy
Ngày 07/12/2016 |
PGS.TS. Triệu Nguyên Trung (Theo UNAIDS, WHO và MOH) |
|
||||
|
|
|
|
|
|
| |
Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464 Email: impequynhon.org.vn@gmail.com Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng |
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích |