Home TRANG CHỦ Thứ 7, ngày 20/04/2024
    Hỏi đáp   Diễn đàn   Sơ đồ site     Liên hệ     English
IMPE-QN
Web Sites & Commerce Giới thiệu
Finance & Retail Tin tức - Sự kiện
Trong nước
Quốc tế
Tin hoạt động của Viện
Tin vắn đáng chú ý
Điểm tin y tế
Ngày Sốt rét thế giới 25 tháng 4 (World Malaria Day)
Web Sites & Commerce Hoạt động hợp tác
Web Sites & Commerce Hoạt động đào tạo
Web Sites & Commerce Chuyên đề
Web Sites & Commerce Tư vấn sức khỏe
Web Sites & Commerce Tạp chí-Ấn phẩm
Web Sites & Commerce Thư viện điện tử
Web Sites & Commerce Hoạt động Đảng & Đoàn thể
Web Sites & Commerce Bạn trẻ
Web Sites & Commerce Văn bản pháp quy
Số liệu thống kê
Web Sites & Commerce An toàn thực phẩm & hóa chất
Web Sites & Commerce Thầy thuốc và Danh nhân
Web Sites & Commerce Ngành Y-Vinh dự và trách nhiệm
Web Sites & Commerce Trung tâm dịch vụ
Web Sites & Commerce Thông báo-Công khai
Web Sites & Commerce Góc thư giản

Tìm kiếm

Đăng nhập
Tên truy cập
Mật khẩu

WEBLINKS
Website liên kết khác
 
 
Số lượt truy cập:
5 2 4 7 4 2 5 1
Số người đang truy cập
1 5 9
 Tin tức - Sự kiện Quốc tế
Chấm dứt đại dịch toàn cầu AIDS vào năm 2030: Tham vọng và thách thức?

Mặc dù cuộc chiến HIV/AIDS đã đạt nhiều kết quả tích cực trên phạm vi toàn cầu nhưng "Chiến lượctổng lực nhanhkết thúc đại dịch AIDS"(Fast-Track strategy to end the AIDS epidemic)vào năm 2030 của UNAIDS được coi là đầy tham vọng khi gánh nặng dịch bệnh cùng nhiều thách thức trong kiểm soát HIV/AIDS trong thời gian chưa đầy 15 nữa để biến mục tiêu này trở thành hiện thực?.

Những "con số biết nói"

TheoChương trình phối hợp của Liên Hợp Quốc về HIV/AIDS(UNAIDS), từ khi bắt đầu dịch bệnh hơn 78 triệu người đã bị nhiễm virus HIV và 35 triệu người chết vì HIV.Trên toàn cầu, 36,7 triệu người đang sống với HIV vào cuối năm 2015. WHO ước tính 0,8% [0,7-0,9%] người trưởng thành từ 15-49 tuổi đang sống chung với HIV, mặc dù gánh nặng bệnh dịch tiếp tục thay đổi đáng kể giữa các quốc gia và khu vực.


Bản đồ phân bố người trưởng thành (15-49 tuổi) đang sống chung với HIV ở các khu vực của WHO đến năm 2015

Vùng cận Saharan Châu Phi vẫn bị ảnh hưởng nặng nề nhất với gần 1/25 (4,4%) người trưởng thành sống chung với HIV chiếm gần 70% số người sống chung với HIV toàn thế giới.


Hình 3

Những người sống chung với HIV/AIDS (People living with HIV/AIDS)

·36,7 triệu [34,0 - 39.800.000] người trên toàn thế giới đang sống chung với HIV/AIDS vào cuối năm 2015, tăng 33,3 triệu từ năm 2010 là hậu quả của việc tiếp tục lây nhiễm mới, những người sống lâu hơn với HIV và tăng trưởng dân số nói chung.

·78 triệu [69.500.000 - 87.600.000] người bị nhiễm HIV từ khi bắt đầu của dịch bệnh vào cuối năm 2015;

·35 triệu [29.600.000 - 40.800.000] người đã chết vì các bệnh liên quan đến AIDS từ khi bắt đầu của dịch bệnh vào cuối năm 2015.

Số tử vong liên quan đến AIDS (Mortality)

·1,1 triệu [940.000 - 1.300.000] người chết vì các bệnh liên quan đến AIDS trên toàn thế giới trong năm 2015 so với 2 triệu [1.700.000 - 2.300.000] giảm 45% kể từ mức đỉnh của nó vào năm 2005.

·Tử vong giảm một phần là nhờ tăng cường điều trị kháng virus (ART), tuy nhiênHIV/AIDS vẫn là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên thế giới và là nguyên nhân số một gây tử vong ở châu Phi. 


Hình 4

Trẻ em sống chung với HIV/AIDS

·1,8 triệutrẻ em (<15 tuổi)trong số 36 triệu người sống chung với HIV trên vào cuối năm 2015;

·110.000 trường hợp tử vong liên quan đến AIDS và 150.000 ca nhiễm mới ở trẻ em vào năm 2015, số nhiễm mới HIV ở trẻ em đã giảm hơn 70% từ năm 2001;

·150.000 trẻ em (<15 tuổi) trong số 2,1 triệu người nhiễm mới HIV trong năm 2015,hầu hết trẻ em sống ở tiểu vùng Sahara châu Phi và bị nhiễm bởi những người mẹ của chúng bị nhiễm HIV trong khi mang thai, sinh con hoặc cho con bú.

Nhiễm mới HIV

·2,1 triệu [1.800.000 - 2.400.000] ca nhiễm mới HIV vào cuối năm 2015 tương ứng với khoảng 5.700 ca nhiễm mới mỗi ngày, trong khi đã có sự giảm đáng kể số ca nhiễm mới từ giữa những năm 1990s, việc làm giảm số ca nhiễm mới ở người trưởng thành đã thất bại trong 5 năm qua và ngược lại tỷ lệ này đang gia tăng ở một số vùng.

·Nhiễm HIV mới ở trẻ em đã giảm 50% kể từ năm 2010:

·- 150.000 [110.000 - 190 000] trẻ em trở nên mới nhiễm HIV trong năm 2015, giảm từ 290.000 [250 000-350 000] trong năm 2010;

·- Từ năm 2010 không giảm trong nhiễm HIV mới ở người trưởng thành, mỗi năm khoảng 1,9 triệu [1.900.000 - 2.200.000] người lớn bị nhiễm mới HIV.

Đồng nhiễm HIV/lao

Số trường hợp tử vong liên quan đến bệnh lao ở những người sống chung với HIV đã giảm 32% kể từ năm 2004.

·Lao vẫn là nguyên nhân tử vong hàng đầu trong số những người sống chung với HIV, chiếm khoảng 1/3 số ca tử vong liên quan đến AIDS.

·Tỷ lệ bệnh nhân lao nhiễm HIV dương tính xác định người bắt đầu hoặc tiếp tục điều trị ARV đạt 77% trong năm 2014.

Phòng ngừa (Prevention)

129 quốc gia thu nhập thấp và thu nhập trung bình báo cáo tổng cộng 150 triệu người được thử nghiệm vào năm 2014


Source: Global data from UNAIDS, AIDS by the Numbers, Nov. 2016

Những người sống chung với HIV tiếp cận điều trị kháng virus

·18,2 triệu [16,1 - 19,0 ​​triệu] người đang sống chung với HIV được tiếp cận điều trị kháng virus (ARV) vào tháng 6/2016; tăng từ 15,8 triệu trong tháng 6 năm 2015; 7,5 triệu vào năm 2010 và ít hơn một triệu năm 2000.

·46% [43 - 50%] của tất cả những người sống chung với HIV được tiếp cận với điều trị ARV trong năm 2015,.

·77% [69 - 86%] phụ nữ mang thai nhiễm HIV được tiếp cận với thuốc ARV để dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con trong năm 2015.

·Chỉ 60% những người bị nhiễm HIV biết tình trạng của họ, 40% còn lại (hơn 14 triệu người) vẫn cần phải tiếp cận với các dịch vụ xét nghiệm HIV.


Hình 6

Bảng tỷ lệ nhiễm HIV theo vùng năm 2015[2]

Khu vực

Tổng số (%) sống chung với HIV

Nhiễm mới HIV

Tỷ lệ người lớn (%)

Tổng số toàn cầu

36,7 triệu (100%)

2,1 triệu

0.8

Đông và Nam Phi

19,0 triệu (52%)

960.000

7.1

Tây và Trung Phi

6,5 triệu (18%)

410.000

2.2

Châu Á và Thái Bình Dương

5,1 triệu (14%)

300.000

0.2

Tây & Trung Âu và Bắc Mỹ

2,4 triệu (7%)

91.000

0.3

Mỹ Latinh và Caribê

2,0 triệu (5%)

100.000

0.5

Đông Âu và Trung Á

1.500.000 (4%)

190.000

0.9

Trung Đông và Bắc Phi

230.000 (<1%)

21.000

0.1

Khu vực cận Saharan, châu Phi: Khu vực bị ảnh hưởng nặng nhất, trong khi chỉ chiếm 13% dân số thế giới nhưng tới gần 70% số người sống chung với HIV toàn cầu [1] [10];các tiểu vùng Đông và Nam Phi có hơn một nửa (52%) tổng số người sống chung với HIV cũng như hơn một nửa (56%) số trẻ em sống với HIV. Hầu như tất cả các quốc gia tiểu vùng của khu vực đã tổng quát hóa tỷ lệ nhiễm HIV tại quốc gia của họ lớn hơn 1%;trong 8 quốc gia, ≥ 10% người trưởng thành chỉ được ước tính là HIV dương tính.Nam Phi có số lượng cao nhất của người sống với HIV trên thế giới (7,0 triệu),Swaziland có tỷ lệ nhiễm cao nhất thế giới (28,8%),nhiễm mới HIV người trưởng thành ở Đông và Nam Phi đã giảm 4% từ năm 2010.

Khu vực châu Mỹ Latinh và Caribê: Ước tính khoảng 2 triệu người đang sống với HIV ở khu vực châu Mỹ Latinh và Caribê, trong đó 100.000 người mới nhiễm trong năm 2015. Nhiễm mới HIV hàng năm ở người lớn tăng 2% ở Mỹ Latinh và 9% ở Caribbean giữa 2010 và 2015; có 9 nước ở khu vực này bùng nổ đại dịch.Theo số liệu các nước, Bahamas có tỷ lệ cao nhất khu vực (3,2%) và Brazil số người sống chung với HIV lớn nhất (830.000).

Khu vực Đông Âu và Trung Á: Ước tính khoảng 1,5 triệu người đang sống chung với HIV, trong đó 190.000 người nhiễm mới trong năm 2015, nhiễm mới HIV trong khu vực tăng hơn 50% từ 2010 đến 2015. Dịch bệnh chủ yếu là do tiêm chích ma túy chiếm hơn nửa số ca nhiễm HIV mới trong năm 2015, mặc dù lây truyền dị tính (heterosexual transmission) cũng đóng vai trò quan trọng.

Khu vực châu Á-Thái Bình Dương: Ước tính khoảng 5,1 triệu người đang sống với HIV ở châu Á và Thái Bình Dương,số ca nhiễm mới HIV hàng năm đã giảm 3% kể từ năm 2010. Khu vực này cũng là nơi có 2 quốc gia đông dân nhất trên thế giới là Trung Quốc và Ấn Độ, thậm chí tỷ lệ lan truyền thấp có thể chuyển thành số lượng lớn người dân.

Đầu tư

·19 tỷ đô la (USD) được đầu tư ứng phó với AIDS ở các nước thu nhập thấp và trung bình (không kể các nước gần đây đã chuyển thành các loại thu nhập cao) vào 2015.

·Nguồn lực trong nước chiếm 57% tổng nguồn lực cho HIV ở các nước thu nhập thấp và trung bình trong năm 2015.

·UNAIDS ước tính cần 26,2 tỷ USD ứng phó với AIDS vào năm 2020 và 23,9 tỷ USD vào năm 2030.

Gánh nặng và thách thức

Từ "những con số biết nói" trên, WHO nhận định dịch bệnh HIV/AIDS vẫn là một trong những thách thức y tế nghiêm trọng nhất toàn cầu khi có khoảng 36,7 triệu người đang sống chung với HIV và hàng chục triệu người tử vong liên quan đến AIDS từ khi bắt đầu đại dịch; trong khi các ca mắc mới đã được báo cáo ở tất cả các khu vực của thế giới, khoảng 2/3 ở châu Phi cận Sahara với 46% số ca mắc mới ở Đông và Nam Phi [1] [2]. Nhiều người sống chung với HIV hoặc có nguy cơ nhiễm HIV không có quyền tiếp cận đến dự phòng, chăm sóc, điều trị và vẫn chưa có thuốc chữa. HIV chủ yếu ảnh hưởng đến những người trong những năm họ có năng suất lao động cao nhất, khoảng 1/3 số ca nhiễm mới là những người trẻ tuổi (15-24) [1] [2]. HIV không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe của cá nhân, hộ gia đình mà còn tác động cộng đồng, sự phát triển và tăng trưởng kinh tế quốc dân;các nước bị HIV ảnh hưởng nặng nhất cũng bị các bệnh lây nhiễm khác, mất an toàn thực phẩm và các vấn đề nghiêm trọng khác. Mặc dù có những thách thức, nỗ lực toàn cầu mới được gắn kết để giải quyết dịch bệnh và thu được tiến bộ đáng kể; số người nhiễm mới HIV nhất là trẻ em và số ca tử vong liên quan đến AIDS đã giảm trong những năm qua, số người nhiễm HIV được điều trị tăng lên đến hơn 18 triệu USD trong năm 2016 [3].Tuy nhiên, số liệu gần đây cho thấy tỷ lệ giảm số ca mắc mới ở người trưởng thành quan sát trước đó trong đại dịch đã bị chững lại thay vì tỷ lệ đang gia tăng hiện nay ở một số khu vực trên thế giới [4] [5].


Bản đồ phân bố người trưởng thành nhiễm HIV năm 2015

Mặc dù có nhiều yếu tố nguy cơ khác nhau nhưng hầu hết số ca nhiễm lây truyền qua đường tình dục khác giới được xác định, ở một số nước những người đàn ông quan hệ tình dục đồng tính (men who have sex with men), người tiêm chích ma túy (injecting drug users), người bán dâm (sex workers), người chuyển giới (transgender people) và các tù nhân bị ảnh hưởng bởi HIV không tương xứng (prisoners are disproportionally affected by HIV). Mặc dù khả năng xét nghiệm HIV đã tăng lên theo thời gian cho phép nhiều người biết được tình trạng HIV của họ nhưng khoảng 4/10 người có HIV vẫn không biết mình bị phơi nhiễm bệnh. HIV đã dẫn đến sự phục hồi bệnh lao (TB), đặc biệt là ở châu Phi và lao là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu cho những người có HIV trên toàn thế giới [6] [7],năm 2015 có khoảng 11% số trường hợp lao mới xảy ra ở những người sống chung với HIV [8].Tuy nhiên, giữa năm 2004 và 2014 tử vong do lao ở những người sống chung với HIV giảm 32%, chủ yếu là nhờ tăng cường các dịch vụ phát hiện lao/HIV. Phụ nữ đại diện cho một nửa (51%) của tất cả các bệnh nhân sống chung với HIV toàn cầu,HIV là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản [9]; tình trạngbất bình đẳng giới, phân biệt dịch vụ, bạo lực tình dục gia tăng, phụ nữ nhiễm HIV dễ bị tổn thương nhất là phụ nữ trẻ về mặt sinh học dễ bị nhiễm HIV. Những người trẻ lứa tuổi 15-24, chiếm khoảng 1/3 số ca nhiễm mới HIV [2].Ở tiểu vùng Sahara châu Phi, phụ nữ trẻ tuổi từ 15-24 chiếm 25% tổng số ca nhiễm HIV mới ở người trưởng thành, mặc dù họ chỉ chiếm 17% dân số trưởng thành.


Mục tiêu 90-90-90 ban đầu của UNAIDS đến năm 2020

Rào cản lớn nhất chấm dứt đại dịch AIDS trên thế giới cũng như Việt Nam là sự kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV cả trongdự phòng, chăm sóc và tiếp cận các dịch vụ thiết yếu của người nhiễm HIV/AIDS.Theo UNAIDS,kỳ thị và phân biệt đối xử là rào cản lớn nhất cho việc tiếp cận tới các dịch vụ về HIV và chăm sóc sức khỏe, kỳ thị và phân biệt đối xử không chỉ ảnh hưởng đến các cá nhân mà còn làm cho HIV lây lan nhiều hơn trong cộng đồng. Khi người nhiễm HIV lo sợ những gì người khác nghĩ về họ, lo sợ người khác có thể đối xử tệ với họ thì họ sẽ không muốn đi xét nghiệm hay sử dụng các biện pháp dự phòng lây nhiễm HIV từ đó có thể vô tình truyền HIV sang những người thân của mình, thậm chí có người nhiễm HIV còn từ chối tiếp cận dịch vụ chăm sóc và điều trị chỉ vì sợ bị đối xử không tốt tại các cơ sở y tế. Kỳ thị và phân biệt đối xử còn là thái độ làm mất thể diện, thiếu tôn trọng một cách vô cớ dẫn đến những định kiến hoặc hành vi làm tổn thương những người nhiễm HIV/AIDS như coi thường, xa lánh, cô lập và trừng phạt họ. Ở Việt Nam,kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV không phải là mới nhưng là vấn đề cầnđượcquan tâmvì tình trạng nàyvẫn tồn tại với nhiều mức độ khác nhau ở cơ sở y tế,trường học, gia đình,công sởvà cộng đồnglàmảnh hưởng đến quyềnđượcsống, lao độngvàhọc tập của người nhiễm HIV.Dưới đây là một số hình thức kỳ thị và phân biệt đối xử thường gặp ở một số môi trường xã hội. UNAIDS cho rằng để có thể thực hiện được mục tiêu 90-90-90 về phòng chống HIV và hướng tới kết thúc đại dịch AIDS vào năm 2030 trước hết cần hành động mạnh mẽ hơn để chống kỳ thị và phân biệt đối xử với những người bị nhiễm bệnh.


Mục tiêu 90-90-90 của UNAIDS đến năm 2030

Tham vọng nhưng cần thiết

Mục tiêu 90-90-90

Tại hội nghị AIDS toàn cầu ở Australia tháng 7/2014, Liên Hợp quốc (UN) đã đưa ra 3 mục tiêu 90 - 90 - 90 bao gồm 90% số người nhiễm HIV biết được tình trạng nhiễm HIV của mình; 90% số người đã chẩn đoán nhiễm HIV được điều trị ARV và 90% số người được điều trị ARV kiểm soát được tải lượng vi rút ở mức thấp để sống khỏe mạnh và làm giảm nguy cơ lây truyền HIV cho người khác. Theo đó, các mục tiêu 90-90-90 được coi là tham vọng nhưng cần làm trên đường chấm dứt dịch HIV/AIDS vào năm 2030.

- 90% số người nhiễm HIV biết được tình trạng nhiễm HIV của mình: nếu một người nhiễm HIV mà không biết mình nhiễm thì có thể vô tình làm lây nhiễm HIV cho người thân và cho người khác trong cộng đồng. Hơn nữa nếu chúng ta không biết được thì không thể tiếp cận và cung cấp được các dịch vụ phòng chống HIV/AIDS cho họ. Không biết được số người nhiễm HIV thực tế trong cộng đồng cũng sẽ gây khó khăn trong việc lập kế hoạch phòng, chống HIV/AIDS.

- 90% số người đã chẩn đoán nhiễm HIV được điều trị ARV: điều trị sớm bằng thuốc ARV sẽ giúp cho người nhiễm HIV tiếp tục kéo dài cuộc sống khỏe mạnh, giảm các nhiễm trùng cơ hội. Hơn nữa, việc điều trị sớm bằng thuốc ARV và đúng sẽ làm giảm khả năng lây nhiễm HIV qua quan hệ tình dục và giảm lây truyền HIV từ mẹ sang con.

- 90% số người được điều trị ARV kiểm soát được tải lượng vi rút ở mức thấp để sống khỏe mạnh và giảm nguy cơ lây truyền HIV sang người khác: kiểm soát tải lượng vi rút HIV ở mức thấp dưới ngưỡng phát hiện là chỉ báo quan trọng liên quan đến chất lượng và tuân thủ điều trị bằng thuốc kháng HIV.

Như vậy, các mục tiêu này có liên quan mật thiết với nhau từ tiếp cận với những người có hành vi nguy cơ cao để tư vấn, dự phòng lây nhiễm HIV và tạo cơ hội cho họ tiếp cận các dịch vụ xét nghiệm HIV. Khi một người được chẩn đoán nhiễm HIV cần được kết nối với dịch vụ điều trị ARV và duy trì tốt việc tuân thủ điều trị. Nếu đạt được 3 mục tiêu quan trọng này thì chúng ta có thể phát hiện được hầu hết những người nhiễm HIV trong cộng đồng; điều trị được hầu hết những người nhiễm HIV với kết quả điều trị tốt, giảm tối đa khả năng lây nhiễm HIV cho người khác, người đã nhiễm HIV có cuộc sống khỏe mạnh, từ đó có thể đạt được mục tiêu to lớn hơn là kết thúc đại dịch HIV/AIDS vào năm 2030.

Thuật ngữ

- Điều trị bằng thuốc kháng virus (ART) bao gồm sự kết hợp thuốc kháng vi rút (ARV) để ức chế tối đa virus HIV và ngăn chặn sự tiến triển của bệnh HIV, đồng thời cũng ngăn chặn sự lây truyền HIV.

- 90/90/90 là một mục tiêu điều trị giúp chấm dứt dịch bệnh AIDS, đến năm 2020, 90% tất cả những người sống chung với HIV sẽ biết được tình trạng HIV của mình; 90% tất cả những người được chẩn đoán nhiễm HIV sẽ nhận được điều trị ARV; và 90% tất cả những người được điều trị bằng thuốc ARV sẽ ức chế virus. 


News release

Hướng dẫn mới về tự xét nghiệm HIV

Trước ngày thế giới phòng chống AIDS (World AIDS Day), WHO công bố hướng dẫn mới về tự xét nghiệm HIV (new guidelines o­n HIV self-testing) nhằm cải thiện tiếp cận chẩn đoán và sử dụng công cụ chẩn đoán hiệu quả.Theo báo cáo tiến bộ mới của WHO,thiếu tiếp cận chẩn đoán HIV là rào cản lớn trong thực hiện khuyến nghị của WHO cung cấp thuốc điều trị kháng virus (ARV) cho tất cả những người nhiễm HIV. Báo cáo của WHO cho biết hơn 18 triệu người nhiễm HIV hiện đang dùng ART nhưng hiện nay khoảng 40% số người tương tự nhiễm HIV (trên 14 triệu người) vẫn không thể tiếp cận thuốc điều trị, trong khi hầu như họ không hề hay biết gì về tình trạng nhiễm HIV của mình, nhiều người có nguy cơ lây nhiễm cao và thường cảm thấy khó tiếp cận các dịch vụ xét nghiệm hiện có. TS. Margaret Chan, Tổng Giám đốc WHO phát biểu: "Hàng triệu người nhiễm HIV không chỉ bõ lỡ cơ hội tiếp cận thuốc điều trị cứu mạng sống của mình mà còn ngăn ngừa lây truyền HIV cho người khác, tự xét nghiệm HIV sẽ rộng đường cho nhiều người hơn được biết về tình trạng nhiễm HIV của mình, tìm hiểu cách thức làm thế nào để nhận được thuốc điều trị và tiếp cận các dịch vụ dự phòng". Tự xét nghiệm HIV là mọi người có thể sử dụng nước bọt hoặc chích máu đầu ngón tay để phát hiện tình trạng bệnh kín đáo và thuận tiện trong vòng ≤ 20 phút, nếu dương tính sẽ được tư vấn xác định kết quả xét nghiệm tại các cơ sở y tế đủ điều kiện. WHO khuyến cáo những người có kết quả xét nghiệm dương tính với HIV cần được cung cấp thông tin và đầu mối liên lạc với các dịch vụ tư vấn, phòng ngừa, điều trị và chăm sóc. Tự xét nghiệm HIV là công cụ hiệu quả với những người nhiễm HIV nhưng chưa được phát hiện, là tiến bộ giúp chẩn đoán sớm trước khi người nhiễm HIV rơi vào tình trạng phát bệnh AIDS, rất quan trọng với đối tượng khó tiếp cận dịch vụ hiện có. Từ năm 2005 đến 2015, tỷ lệ người biết về tình trạng nhiễm HIV của mình tăng từ 12% lên 60% trên thế giới giúp 80% số người nhiễm virus này được chẩn đoán và nhận được thuốc điều trị ART. Tuy nhiên, việc phát hiện nhiễm HIV trong cộng đồng còn thấp, nhất là nam giới ít biết về tình trạng nhiễm virus của mình, ít được tiếp cận các dịch vụ chữa trị hơn so với nữ giới và chỉ chiếm 30% tổng số người được thực hiện các xét nghiệm HIV do đó ít khả năng tiếp cận ART hơn và nhiều nguy cơ tử vong do các bệnh liên quan đến HIV hơn so với phụ nữ. WHO ước tính các trẻ gái vị thành niên và phụ nữ trẻ ở Đông Và Nam châu Phi có tỷ lệ nhiễm cao gấp 8 lần so với các đối tác đàn ông cùng trang lứa, chưa đầy 1/5 bé gái (15-19 tuổi) nhận thức được tình trạng nhiễm HIV của mình. Xét nghiệm thấp trong các "quần thể đích" (key populations) và các đối tác bạn tình của họđặc biệt là đàn ông có quan hệ tình dục đồng giới, gái mại dâm, người chuyển giới, những người tiêm chích ma túy và người ở trong tù chiếm khoảng 44% trong số 1,9 triệu người lớn nhiễm HIV mới xảy ra mỗi năm. 70% đối tác bạn tình những người HIV cũng bị nhiễm HIV, nhiều người trong số họ chưa được làm xét nghiệm do đó hướng dẫn mới của WHO khuyến cáo các cách thức nhằm giúp đỡ người nhiễm HIV thông báo cho các đối tác của họ về tình trạng của mình và khuyến khích họ đi xét nghiệm. TS. Gottfried Hirnschall, Giám đốc cơ quan phòng chống HIV của WHO cho biết: "Cung cấp tự xét nghiệm HIV giúp mọi người biết tình trạng nhiễm HIV của họ cũng như thông báo cho đối tác bạn tình của họ và khuyến khích họ thực hiện giống như vậy, sẽ nhiều người hơn biết và hành động đúng với tình trạng bệnh của mình, tự xét nghiệm cũng rất phù hợp với những đối tượng khó tiếp cận xét nghiệm tại các cơ sở y tế và thích tự xét nghiệm theo cách lựa chọn của họ". Tự xét nghiệm tăng gần gấp đôi tần suất xét nghiệm HIV trong nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới và các nghiên cứu gần đây ở Kenya phát hiện đối tác bạn tình nam giới của phụ nữ mang thai xét nghiệm HIV cao gấp hai lần khi được cung cấp tự xét nghiệm so với xét nghiệm chuẩn. Hiện có 23 nước đang khởi động chính sách quốc gia hỗ trợ tự xét nghiệm HIV, một số nước khác đang phát triển các chính sách nhưng việc mở rộng triển khai còn hạn chế. WHO đang hỗ trợ phân phối miễn phí hoặc bán rẻ các bộ dụng cụ tự xét nghiệm HIV nhằm gia tăng tiếp cận tự xét nghiệm tại cộng đồng; đặc biệt là hỗ trợ 3 nước miền nam châu Phi thực hiện tự xét nghiệm quy mô lớn qua các dự án STAR do UNITAID tài trợ cùng nhiều nước khác đang cân nhắc phương tiện tiếp cận sáng tạo này để không bỏ ai lại phía sau.


Đồng nhiễm lao và HIV cũng là một trong những rào cản lớn kết thúc đại dịch AIDS

Việt Nam trên đường chấm dứt đại dịch

Chiến lược quốc gia phòng chống HIV/AIDS đến 2020 và tầm nhìn 2030

           Trước sự nguy hiểm của đại dịch HIV/AIDS, "Chiến lược quốc gia phòng chống HIV/AIDS ở Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020" được ban hành kèm theo Quyết định 36/2004/QĐ-TTg ngày 17/3/2004 của Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã bộc lộ nhiều khó khăn như một số địa phương chưa triển khai triệt để các chương trình hành động của chiến lược; chưa huy động được cộng đồng, xã hội tham gia phòng chống HIV/AIDS; mức đầu tư cho chương trình còn hạn chế, chủ yếu dựa vào nguồn tài trợ của nước ngoài do đó không chủ động được nguồn lực tài chính cho các hoạt động phòng chống HIV/AIDS. Cùng với đó đó, nguồn kinh phí hỗ trợ phòng chống HIV/AIDS từ các tổ chức quốc tế và các nước ngày càng giảm dần trong khi tình hình HIV/AIDS vẫn còn diễn biến phức tạp, sự chuyển dịch dần hình thái nguy cơ lây nhiễm HIV từ đường máu sang đường tình dục, hành vi nguy cơ kép trong các nhóm dễ bị lây nhiễm HIV đang có xu hướng gia tăng, địa bàn dịch HIV/AIDS ngày càng rộng hơn nếu không có những giải pháp đồng bộ, lâu dài sẽ không kiểm soát và đẩy lùi đại dịch HIV/AIDS mà còn để lạitác động xấu đến sự phát triển kinh tế-xã hội. Từ đó "Chiến lược quốc gia phòng chống HIV/AIDS đến năm 2020 và tầm nhìn 2030" tiếp theo chiến lược trước đây được ban hành nhằm bảo đảm cho chiến lược này đạt hiệu quả cao, bền vững, góp phần xây dựng và phát triển đất nước.


Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam nhấn mạnh các mục tiêu chiến lược chấm dứt đại dịch AIDS tại Việt Nam đến năm 2030

Quan điểm chiến lược

Đại dịch HIV/AIDS là đại dịch nguy hiểm, là mối hiểm họa đối với sức khỏe, tính mạng của con người và tương lai nòi giống của dân tộc do đó phòng chống HIV/AIDS phải được coi là một nhiệm vụ quan trọng, lâu dài, cần có sự phối hợp liên ngành của tất cả các cấp ủy Đảng, các Bộ, ngành, chính quyền các cấp và là bổn phận, trách nhiệm của mỗi người dân, mỗi gia đình và mỗi cộng đồng; phòng chống HIV/AIDS phải dựa trên nguyên tắc bảo đảm quyền con người, chống kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV; chú trọng đến phụ nữ, trẻ em, các nhóm đối tượng dễ bị lây nhiễm HIV, đồng bào dân tộc ít người và người dân sống ở vùng sâu, vùng xa, khu vực biên giới, hải đảo; bảo đảm thực hiện cam kết của Việt Nam với cộng đồng quốc tế về phòng, chống HIV/AIDS; kết hợp các biện pháp xã hội và biện pháp chuyên môn kỹ thuật y tế trong phòng, chống HIV/AIDS trên nguyên tắc phối hợp dự phòng với chăm sóc, điều trị toàn diện HIV/AIDS, trong đó dự phòng là chủ đạo; Nhà nước bảo đảm đầu tư các nguồn lực cho phòng, chống HIV/AIDS phù hợp với diễn biến tình hình dịch HIV/AIDS, khả năng và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa đối với công tác phòng, chống HIV/AIDS.

Mục tiêu

          1. Mục tiêu chung: Khống chế tỷ lệ nhiễm HIV trong cộng đồng dân cư dưới 0,3% vào năm 2020, giảm tác động của HIV/AIDS đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.

          2. Mục tiêu cụ thể: Tăng tỷ lệ người dân trong độ tuổi từ 15 đến 49 tuổi có hiểu biết đầy đủ về HIV/AIDS đạt 80% vào năm 2020; Tăng tỷ lệ người dân không kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV đạt 80% vào năm 2020; Giảm 50% số trường hợp nhiễm mới HIV trong nhóm nghiện chích ma túy vào năm 2015 và 80% vào năm 2020 so với năm 2010; Giảm 50% số trường hợp nhiễm mới HIV do lây truyền HIV qua đường tình dục vào năm 2015 và 80% vào năm 2020 so với năm 2010; Giảm tỷ lệ lây truyền HIV từ mẹ sang con xuống dưới 5% vào năm 2015 và dưới 2% vào năm 2020; Tăng tỷ lệ người nhiễm HIV được điều trị thuốc kháng vi rút HIV đạt 80% trên tổng số người nhiễm HIV đủ tiêu chuẩn điều trị vào năm 2020.

          3. Tầm nhìn đến 2030: Hướng tới ứng dụng các kỹ thuật mới có tính đặc hiệu cao về dự phòng, điều trị HIV/AIDS; Hướng tới can thiệp chủ động, toàn diện, tiếp cận phổ cập, nâng cao chất lượng và bảo đảm tính bền vững của công tác phòng, chống HIV/AIDS; Hướng tới tầm nhìn "ba không" của Liên Hợp quốc: Không còn người nhiễm mới HIV, không còn người tử vong do AIDS và không còn kỳ thị, phân biệt đối xử với HIV/AIDS.


Năm 2015, Việt Nam điều trị 70% người nhiễm HIV/AIDS có nhu cầu

Nhiệm vụ

          Tổ chức thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống HIV/AIDS tới mọi đối tượng, trong đó phải kết hợp giữa tuyên truyền các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phòng, chống HIV/AIDS với tuyên truyền về tác hại, hậu quả và các biện pháp phòng, chống HIV/AIDS. Huy động mọi nguồn lực và sự tham gia của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, mỗi người dân và cộng đồng vào các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS. Tổ chức triển khai các biện pháp chuyên môn kỹ thuật y tế nhằm hạn chế đến mức tối đa sự lây truyền của HIV và giải quyết các vấn đề liên quan đến sức khỏe người bệnh AIDS. Kết hợp chặt chẽ hoạt động phòng, chống HIV/AIDS với các hoạt động phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm. Thực hiện các cam kết và tổ chức thực hiện có hiệu quả các hoạt động hợp tác quốc tế phòng chống HIV/AIDS. 4 đề án chiến lược bao gồm dự phòng lây nhiễm HIV; chăm sóc, hỗ trợ, điều trị toàn diện HIV/AIDS; tăng cường năng lực hệ thống phòng chống HIV/AIDS; giám sát dịch tễ học HIV/AIDS, theo dõi và đánh giá chương trình phòng chống HIV/AIDS.

Giải pháp

 Nhóm giải pháp về chính trị và xã hội: Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền phòng chống HIV/AIDS, quán triệt và nghiêm túc thực hiện các chủ trương về tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống HIV/AIDS trong tình hình mới; các Bộ, ngành, UBND các cấp nghiêm túc với công tác phòng chống HIV/AIDS; đổi mới phương pháp chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện công tác phòng, chống HIV/AIDS phù hợp với mô hình tổ chức, đặc thù công việc và tình hình kinh tế-xã hội; đẩy mạnh các hoạt động thanh tra, kiểm tra phòng chống HIV/AIDS thuộc thẩm quyền quản lý. Tăng cường hơn nữa vai trò của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp đối với phòng chống HIV/AIDS. Tăng cường việc thực hiện chức năng giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp đối với công tác phòng, chống HIV/AIDS thông qua hoạt động giám sát trực tiếp và báo cáo định kỳ của các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp; Đẩy mạnh sự tham gia của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp trong các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS, trong đó chú trọng việc phát huy vai trò cá nhân của các đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân.


Chấm dứt dịch bệnh HIV/AIDS đến năm 2030 cần nhiều giải pháp đồng bộ

Nhóm giải pháp về phối hợp liên ngành và huy động cộng đồng: Chú trọng việc lồng ghép, phối hợp với các chương trình phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội, xóa đói giảm nghèo, giới thiệu việc làm; tăng cường việc ký kết và nâng cao hiệu quả thực hiện kế hoạch liên tịch giữa cơ quan nhà nước các cấp với các tổ chức chính trị-xã hội cùng cấp, đơn vị, doanh nghiệp trên địa bàn về phòng, chống HIV/AIDS; Tiếp tục triển khai các phong trào "Toàn dân tham gia phòng chống HIV/AIDS tại cộng đồng dân cư"; thi đua người tốt, việc tốt, xây dựng lối sống lành mạnh tại cộng đồng dân cư; xây dựng và nhân rộng các mô hình xã, phường, thị trấn, cơ quan, đơn vị điển hình trong công tác phòng chống HIV/AIDS; Vận động các tổ chức tôn giáo, các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức phi chính phủ, các doanh nghiệp, các hiệp hội nghề nghiệp và mạng lưới người nhiễm HIV tham gia phòng chống HIV/AIDS, trong đó chú trọng việc vận động tham gia các hoạt động: xây dựng chính sách, kế hoạch, giám sát, đánh giá việc tổ chức thực hiện; đào tạo nghề, tìm việc làm, tạo việc làm và phát triển các mô hình lao động, sản xuất kinh doanh mang tính bền vững cho cho người nhiễm HIV, người dễ bị lây nhiễm HIV và người bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS; Bảo đảm cung cấp có hiệu quả các dịch vụ an sinh xã hội cho người nhiễm HIV, người dễ bị lây nhiễm HIV và người bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS, đồng thời tăng cường hoạt động vận động người nhiễm HIV, người dễ bị lây nhiễm HIV tham gia đóng bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội.


Hình ảnh thay cho lời diễn giải

Nhóm các giải pháp về pháp luật, chế độ chính sách: Tiếp tục rà soát, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS nhằm bảo đảm tính phù hợp với thực tế và đồng bộ với hệ thống pháp luật khác có liên quan, trong đó chú trọng vào các nội dung sau: Chống kỳ thị, phân biệt đối xử và bảo đảm quyền bình đẳng giới đối với người nhiễm HIV khi tiếp cận các dịch vụ xã hội; Rà soát, sửa đổi hoặc xây dựng mới các văn bản nhằm tăng cường sự phối hợp liên ngành, đặc biệt là việc phối hợp hoạt động phòng, chống HIV/AIDS với hoạt động phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm; Xây dựng chế độ, chính sách về nguồn nhân lực, đổi mới cơ chế tài chính cho hoạt động phòng, chống HIV/AIDS, trong đó tập trung xây dựng cơ chế xã hội hóa một số hoạt động phòng, chống HIV/AIDS mà người dân có khả năng đóng góp; Rà soát, sửa đổi, bổ sung chế độ, chính sách hỗ trợ người nhiễm HIV thuộc đối tượng chính sách xã hội, chú trọng hỗ trợ, chăm sóc trẻ em nhiễm HIV và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS; Xây dựng chế độ, chính sách khuyến khích, huy động sự tham gia phòng chống HIV/AIDS của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong nước, ngoài nước, trong đó chú trọng vào các nội dung tiếp nhận, sử dụng lao động là người nhiễm HIV và người dễ bị lây nhiễm HIV, thành lập các cơ sở tư nhân và từ thiện về chăm sóc người bệnh AIDS, phát triển các trung tâm, các cơ sở hỗ trợ xã hội, pháp lý cho người nhiễm HIV. Thường xuyên tổ chức việc phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS, trong đó chú trọng phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người nhiễm HIV. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm minh đối với các hành vi vi phạm pháp luật về phòng chống HIV/AIDS.


Hình 13: Chiến lược tổng lực nhanh kết thúc đại dịch AIDS vào năm 2030

Nhóm giải pháp về dự phòng lây nhiễm HIV: Đổi mới, mở rộng, nâng cao chất lượng công tác thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng chống HIV/AIDS: Đa dạng hóa về nội dung, phương thức thực hiện thông tin, giáo dục, truyền thông bảo đảm tính thân thiện, có chất lượng, phù hợp với đặc điểm của từng nhóm đối tượng, văn hóa, ngôn ngữ ở các vùng miền khác nhau, trong đó chú trọng truyền thông cho người dễ bị lây nhiễm HIV, người trong độ tuổi sinh đẻ, học sinh, sinh viên, đồng bào vùng cao, vùng sâu, vùng xa; lồng ghép các nội dung tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống HIV/AIDS với tuyên truyền về bình đẳng giới, nâng cao nhận thức về giới, giáo dục sức khỏe tình dục, sức khỏe sinh sản và các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao và du lịch; Kết hợp giữa truyền thông đại chúng với truyền thông trực tiếp, trong đó chú trọng phát huy vai trò, trách nhiệm của hệ thống thông tin, truyền thông và tổ chức chính trị - xã hội các cấp, hệ thống quân y; đồng thời vận động các nhà lãnh đạo, các nhân vật nổi tiếng, tổ trưởng dân phố, trưởng cụm dân cư, trưởng thôn, già làng, trưởng bản, trưởng làng, trưởng ấp, trưởng phum, trưởng sóc, trưởng ban công tác mặt trận, trưởng các dòng họ, trưởng tộc, các chức sắc tôn giáo, người cao tuổi, người có uy tín trong cộng đồng, người nhiễm HIV tham gia công tác tuyên truyền về phòng, chống HIV/AIDS. Mở rộng phạm vi và nâng cao chất lượng các dịch vụ can thiệp giảm tác hại dự phòng lây nhiễm HIV cho nhóm người dễ bị lây nhiễm HIV: Tiếp tục mở rộng phạm vi triển khai chương trình cung cấp, sử dụng bơm kim tiêm sạch, chương trình khuyến khích sử dụng bao cao su trong quan hệ tình dục, chương trình điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế, các mô hình can thiệp dựa vào cộng đồng; Nghiên cứu, triển khai thí điểm các hình thức mới về cung cấp bơm kim tiêm sạch, bao cao su và các mô hình kết hợp các biện pháp can thiệp trong hoạt động phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm; triển khai thí điểm các mô hình cung cấp gói can thiệp toàn diện cho các nhóm người dễ bị lây nhiễm HIV và mô hình điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế, các thuốc mới và các bài thuốc y học cổ truyền; nghiên cứu áp dụng các mô hình dự phòng lây nhiễm HIV cho các nhóm đối tượng sử dụng ma túy tổng hợp và các loại ma túy mới; Thực hiện lồng ghép các hoạt động can thiệp với các mô hình cai nghiện dựa vào cộng đồng, các mô hình quản lý sau cai; Tiếp tục triển khai và từng bước mở rộng phạm vi dịch vụ khám và điều trị các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục, chú trọng việc lồng ghép tư vấn, khám và điều trị các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục với khám sức khỏe định kỳ; Nghiên cứu, xây dựng các hướng dẫn về điều trị dự phòng phơi nhiễm HIV, trong đó chú trọng việc xây dựng hướng dẫn về biện pháp điều trị dự phòng phổ cập ngoài cơ sở y tế. Nâng cao chất lượng và mở rộng dịch vụ tư vấn, xét nghiệm HIV và các hoạt động dự phòng lây nhiễm HIV khác: Nâng cao chất lượng dịch vụ tư vấn, xét nghiệm HIV thông qua việc đào tạo nâng cao kỹ năng tư vấn, xét nghiệm của người làm công tác xét nghiệm; nâng cấp cơ sở hạ tầng, lựa chọn sinh phẩm xét nghiệm HIV có chất lượng và thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật liên quan đến xét nghiệm HIV; Đa dạng hóa các mô hình dịch vụ tư vấn và xét nghiệm HIV, trong đó chú trọng việc triển khai thí điểm các mô hình xét nghiệm sàng lọc HIV tại cộng đồng; nghiên cứu đề xuất các biện pháp tăng cường khả năng tiếp cận với dịch vụ tư vấn, xét nghiệm HIV của người dân, chuyển gửi người xét nghiệm HIV dương tính tiếp cận với chương trình chăm sóc, điều trị; Tăng cường đầu tư, giám sát việc dự phòng lây nhiễm HIV qua các dịch vụ xã hội và y tế, trong đó chú trọng cung cấp trang thiết bị bảo đảm công tác vô trùng, tiệt trùng cho các cơ sở y tế; đào tạo tập huấn cho nhân viên y tế về dự phòng phổ cập trong các dịch vụ y tế; cung cấp thông tin về dự phòng phổ cập trong các dịch vụ xã hội.

Nhóm giải pháp về điều trị, chăm sóc người nhiễm HIV: Mở rộng phạm vi cung cấp, bảo đảm tính liên tục và dễ tiếp cận của dịch vụ điều trị bằng thuốc kháng vi rút HIV, điều trị nhiễm trùng cơ hội, điều trị lao cho người nhiễm HIV, điều trị dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con thông qua việc đưa công tác điều trị về tuyến y tế cơ sở, lồng ghép với các chương trình y tế khác; tổ chức điều trị tại các Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội, trại giam, trại tạm giam, trường giáo dưỡng; củng cố, phát triển hệ thống chăm sóc tại cộng đồng của người nhiễm HIV, các tổ chức tôn giáo, tổ chức xã hội và các tổ chức khác. Nâng cao chất lượng các dịch vụ điều trị: Bảo đảm tính sẵn có, tính dễ tiếp cận với thuốc kháng vi rút HIV; đồng thời khuyến khích việc sử dụng các bài thuốc y học cổ truyền nhằm nâng cao thể trạng và tăng cường hệ miễn dịch cho người nhiễm HIV; Nâng cao chất lượng và mở rộng hệ thống xét nghiệm phục vụ cho công tác chẩn đoán và điều trị HIV/AIDS; Ứng dụng các mô hình điều trị mới cho người nhiễm HIV và các biện pháp nhằm giảm chi phí điều trị và tăng hiệu quả của điều trị bằng thuốc kháng vi rút HIV; Lồng ghép điều trị HIV/AIDS với các chương trình khác; thực hiện việc kết nối giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ điều trị, chăm sóc ở cộng đồng với hệ thống cơ sở y tế trong và ngoài công lập để tạo thành chuỗi dịch vụ liên tục, có chất lượng bảo đảm thực hiện các gói dịch vụ dự phòng, điều trị, chăm sóc toàn diện; thực hiện việc kết hợp điều trị thực thể với hỗ trợ tâm lý cho người nhiễm HIV. Đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ vật chất, tinh thần cho người nhiễm HIV và gia đình họ để người nhiễm HIV ổn định cuộc sống, hoà nhập và được chăm sóc tại gia đình và cộng đồng.

Nhóm giải pháp về giám sát dịch HIV/AIDS, theo dõi và đánh giá: Củng cố và kiện toàn hệ thống giám sát, theo dõi và đánh giá chương trình phòng chống HIV/AIDS bảo đảm có hệ thống theo dõi, đánh giá thống nhất và có tính đa ngành; Củng cố và hoàn thiện hệ thống quản lý thông tin chương trình phòng chống HIV/AIDS quốc gia bảo đảm đầy đủ, kịp thời và dễ tiếp cận; Nâng cao chất lượng số liệu giám sát dịch HIV/AIDS, số liệu đánh giá chương trình phòng, chống HIV/AIDS; Thường xuyên phân tích, đánh giá diễn biến dịch HIV/AIDS, đánh giá hiệu quả các hoạt động của chương trình và xác định các khu vực ưu tiên trong phòng, chống HIV/AIDS; Tăng cường hướng dẫn, điều phối, phổ biến, chia sẻ dữ liệu, sử dụng dữ liệu trong các hoạt động của chương trình phòng chống HIV/AIDS.

Nhóm giải pháp về tài chính: Huy động nguồn lực cho chương trình phòng chống HIV/AIDS từ các nguồn của trung ương, địa phương, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trong, ngoài nước và nhân dân để bảo đảm nguồn lực cho việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ Chiến lược, trong đó xác định nguồn đầu tư từ ngân sách là chính đồng thời đẩy mạnh thực hiện các biện pháp tăng dần tỷ trọng bảo hiểm y tế tham gia chi trả dịch vụ về HIV/AIDS và khuyến khích các địa phương, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư nguồn lực phòng chống HIV/AIDS; Tăng cường quản lý, giám sát và sử dụng hiệu quả các nguồn kinh phí đầu tư phòng chống HIV/AIDS; Phát huy tính chủ động quốc gia trong điều phối, quản lý, sử dụng các dự án viện trợ, bảo đảm theo đúng nội dung Chiến lược.
 

Nhóm giải pháp về nguồn nhân lực: Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực cho hệ thống HIV/AIDS bảo đảm tính bền vững; Xây dựng khung chương trình, chuẩn hóa tài liệu đào tạo về phòng, chống HIV/AIDS trong hệ thống trường y. Nâng cao năng lực giảng dạy, đào tạo về phòng, chống HIV/AIDS cho đội ngũ giáo viên cho các trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân; Nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác phòng, chống HIV/AIDS, trong đó chú trọng việc đào tạo, tập huấn cho cán bộ hệ thống y tế tuyến huyện, xã và y tế thôn bản; Nâng cao năng lực cho các Bộ, ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ, tổ chức tôn giáo, mạng lưới người nhiễm HIV, nhóm tự lực, câu lạc bộ trong cung cấp dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS, tăng cường đào tạo cho người nhiễm HIV về kỹ năng chăm sóc, tư vấn để tham gia hỗ trợ công tác điều trị cho bệnh nhân.

Nhóm giải pháp về cung ứng thuốc, thiết bị: Xây dựng và tổ chức chuỗi cung ứng thuốc, thiết bị thống nhất, dựa trên hệ thống tiêu chuẩn chất lượng; Xây dựng kế hoạch nhu cầu thuốc, thiết bị cho cả giai đoạn; Tăng cường năng lực của các nhà sản xuất trong nước và có chính sách hỗ trợ, ưu đãi cho việc sản xuất thuốc, thiết bị nhằm bảo đảm tính chủ động trong việc đáp ứng đủ nhu cầu trong nước và tiến tới xuất khẩu; Củng cố và hoàn thiện cơ sở hạ tầng, trang thiết bị cho các đơn vị.


UNAIDS luôn hỗ trợ Việt Nam hoàn thành các mục tiêu chiến lược

Nhóm giải pháp về hợp tác quốc tế: Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ và cam kết quốc tế trong phòng chống HIV/AIDS; Củng cố, tăng cường hợp tác quốc tế theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ với các tổ chức Liên hợp quốc, song phương, đa phương để tranh thủ sự hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật và kỹ năng quản lý cho công tác phòng, chống HIV/AIDS; Phối hợp chặt chẽ với các nước có chung biên giới đường bộ trong việc chia sẻ thông tin và triển khai các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS qua biên giới.

Cơ hội điều trị ARV từ nguồn bảo hiểm y tế

ARV không chỉ cứu mạng sống và đảm bảo sức khỏe cho người nhiễm HIV mà còn hạn chế lây nhiễm HIV ra cộng đồng nhưng thời gian tới khi nguồn thuốc viện trợ bị cắt giảm thì cơ hội mới cho người nhiễm HIV điều trị ARV từ nguồn bảo hiểm y tế đã được mở ra theo

Quyết định số 2188/QĐ-TTg ngày 15/11/2016 của Thủ tướng Chính phủ về thanh toán thuốc ARV và hỗ trợ người sử dụng thuốc ARV từ nguồn bảo hiểm y tế là Quyết định quan trọng và kịp thời nhằm ứng phó kịp thời để duy trì và tăng số người nhiễm HIV được điều trị, chăm sóc sau khi hết các nguồn tài trợ quốc tế.Quyết định này quy định thực hiện mua sắm tập trung cấp quốc gia đối với thuốc kháng virus HIV theo quy định của Luật đấu cũng như các văn bản hướng dẫn. Căn cứ vào văn bản thỏa thuận khung giữa Bộ Y tế và nhà cung ứng thuốc được lựa chọn, tổ chức bảo hiểm y tế ký hợp đồng trực tiếp với nhà thầu cung ứng thuốc việc thanh toán chi phí ARV thực hiện theo quy định về thanh toán, quyết toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế giữa cơ sở khám chữa bệnh với tổ chức bảo hiểm y tế hiện hành. Quyết định 2188 cũng hỗ trợ người sử dụng ARV căn cứ vào khả năng ngân sách các địa phương đảm bảo hỗ trợ chi phí cùng chi trả đối với thuốc ARV cho người nhiễm HIV/AIDS có thẻ bảo hiểm y tế thông qua Quỹ khám chữa bệnh người nghèo, Quỹ hỗ trợ người nhiễm HIV. Các cơ sở khám chữa bệnh bảo hiểm y tế sử dụng các nguồn quỹ khác của đơn vị theo quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập để hỗ trợ phần cùng chi trả thuốc ARV cho người nhiễm HIV, nhất là quy định trách nhiệm của UBND tỉnh/thành phố bố trí kinh phí mua thẻ bảo hiểm y tế cho 100% người nhiễm HIV.

Hành động mạnh mẽ trong cung cấp dịch vụ HIV

Nhân ngày thế giới phòng chống AIDS, WHO khuyến khích Việt Nam lấp những khoảng trống (gaps) còn lại trong phòng ngừa, xét nghiệm và điều trị HIV hướng tới mục tiêu chấm dứt đại dịch AIDS toàn cầu vào năm 2030. Việt Nam đã thể hiện cam kết cấp cao và cách tiếp cận sáng tạo trong cuộc chiến chống HIV/AIDS, tháng 11/2016 Thủ tướng Chính phủ cho phép sử dụng quỹ bảo hiểm y tế mua thuốc antiretrovirus (ARV) cung cấp nguồn tài chính bền vững phương pháp điều trị antiretrovirus (ART), đồng thời chỉ đạo chính quyền địa phương hỗ trợ đồng thanh toán chi phí điều trị ARV và mua thẻ bảo hiểm y tế cho người sống chung với HIV/AIDS. TS Lokky Wai, đại diện WHO tại Việt Nam phát biểu: "Quyết định của Chính phủ là bước tiến quan trọng tăng nguồn tài chính trong nước điều trị và chăm sóc HIV, tạo đà ứng phó bền vững của ngành y tế với đại dịch này. Tôi xin chúc mừng Việt Nam đã hành động kịp thời và thu được những nỗ lực rất lớn gia tăng tiếp cận của người sống chung với HIV có cách điều trị thích hợp, đồng thời sẽ đảm bảo không bỏ sót ai lại đằng sau bằng cách quan tâm đến nhu cầu của những người dễ bị tổn thương nhất”. Mặc dù quyết định quan trọng này được ban hành nhưng đến nay vẫn còn hơn một nửa số người sống với HIV tại Việt Nam chưa có bảo hiểm y tế, ngành y tế khuyến khích tất cả người dân Việt Nam bao gồm cả những người sống với HIV tham gia bảo hiểm y tế quốc gia. 


Phát hiện người nhiễm HIV tại cộng đồng là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng ngăn chặn dịch bệnh lây lan

WHO cho rằng tự xét nghiệm HIV được chứng minh là hiệu quả, kín đáo và được nhiều người chấp nhận kể cả nam giới, thanh niên, nhân viên y tế, phụ nữ mang thai và các nhóm đối tượng khác. Cũng như các phương pháp xét nghiệm HIV khác, phương pháp tự xét nghiệm luôn là tự nguyện và không cưỡng chế, bất cứ ai có kết quả tự xét nghiệm dương tính nên làm các xét nghiệm khẳng định tại cơ sở y tế, được cung cấp các thông tin về HIV và hỗ trợ, tư vấn kịp thời về dự phòng, điều trị và chăm sóc HIV. Hơn nữa, cần khuyến khích và hỗ trợ những người sống với HIV thông báo với các bạn tình của họ về khả năng phơi nhiễm HIV hoặc tự bản thân họ sẽ thông báo hay có sự giúp đỡ của nhân viên y tế nhằm khuyến khích những người sống với HIV giúp đối tác bạn tình và bạn cùng tiêm chích của họ làm xét nghiệm HIV, như vậy sẽ giúp những người này được hưởng lợi điều trị nếu họ nhiễm HIV. Ở Việt Nam, nhiều người sống chung với HIV vẫn không biết tình trạng bệnh của mình nên việc chẩn đoán muộn và điều trị muộn vẫn phổ biến làm cộng đồng hạn chế tiếp cận điều trị ARV, những khuyến cáo mới của WHO có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam và nên được áp dụng trong chương trình phòng chống HIV quốc gia. Cũng như các nước trong khu vực dịch bệnh của Việt Nam đang tập trung vào các nhóm đối tượng chính, để ứng phó với HIV cần phải giải quyết các rào cản ngăn các nhóm đối tượng tiếp cận các dịch vụ, Cục phòng, chống HIV/AIDS (VAAC) thuộc Bộ Y tế (MOH) đã hợp tác với WHO từ 2011 để xây dựng mô hình về lợi ích của việc bắt đầu điều trị ARV sớm cho những người tiêm chích ma túy và các nhóm quần thể đích khác, ngoài ra hoạt động này tập trung cung cấp dịch vụ xét nghiệm HIV dựa vào cộng đồng tại những nơi khó khăn. WHO dẫn chứng tại Thanh Hóa, nhân viên y tế thôn bản (village health workers) được đào tạo để cung cấp dịch vụ xét nghiệm cho các quần thể đích và bạn tình của họ trong cộng đồng nhằm tháo gỡ khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ tại trạm y tế xã ở khu vực miền núi; tại Thái Nguyên, đồng đẳng viên (peer educators) được đào tạo để cung cấp dịch vụ xét nghiệm và dự phòng nhằm vượt qua sự kỳ thị và phân biệt đối xử tại các cơ sở y tế. Ở cả hai tỉnh, những cá nhân có kết quả phản ứng với xét nghiệm ban đầu được kết nối với cơ sở y tế để xét nghiệm khẳng định và điều trị, cũng như được chăm sóc. Việc thực hiện thí điểm tại Thanh Hóa và Thái Nguyên đã chứng minh tính khả thi của dịch vụ tư vấn và xét nghiệm HIV dựa vào cộng đồng (community-based) trong tiếp cận nhóm “khó tiếp cận” (hard to reach) thuộc các quần thể nguy cơ cao. Năm 2015, phương pháp tiếp cận dựa vào cộng đồng mang lại kết quả tỷ lệ nhiễm HIV cao gấp 6 lần trong số những người được xét nghiệm tại cộng đồng so với xét nghiệm tại cơ sở y tế. Hướng dẫn quốc gia của Việt Nam về xét nghiệm HIV đang được cập nhật và xét nghiệm tại cồng đồng cũng sẽ được đưa vào trong hướng dẫn này. Xét nghiệm HIV dựa vào cộng đồng cũng có thể kết hợp tự xét nghiệm HIV và đây là một bước tiến quan trọng đối với Việt Nam để đạt mục tiêu 90-90-90 của UN-90% tất cả những người sống với HIV biết tình trạng HIV của họ vào năm 2020. Kinh nghiệm của dịch vụ xét nghiệm HIV dựa vào cộng đồng tại Việt Nam cũng được nêu bật trong Báo cáo tiến độ của WHO năm 2016 (WHO’s Progress report 2016): ngăn chặn HIV, xét nghiệm và điều trị cho tất cả-WHO hỗ trợ cho tác động quốc gia.


Hình 16

Kế hoạch tháng hành động quốc gia phòng chống HIV/AIDS năm 2016

Mục tiêu và chủ đề

Theo VAAC (MOH) từ ngày 10/11 đến 10/12/2016 "Tháng hành động quốc gia phòng chống HIV/AIDS năm 2016" sẽ được triển khai thực hiện nhằm đạt được các mục tiêu thúc đẩy sự tham gia của cả hệ thống chính trị và của toàn dân nhằm thực hiện “Chiến lược Quốc gia phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2020 và tầm nhìn 2030”, hướng tới các mục tiêu 90-90-90 để kết thúc dịch AIDS ở Việt Nam vào năm 2030 (90% người nhiễm HIV biết được tình trạng nhiễm HIV của mình, 90% người nhiễm HIV chẩn đoán nhiễm HIV được điều trị bằng thuốc kháng vi rút và 90% người nhiễm HIV đã được điều trị bằng thuốc kháng vi rút kiểm soát được số lượng vi rút ở mức thấp);Nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là những người dễ tổn thương, người có hành vi nguy cơ cao, người dân sống ở vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc ít người về dự phòng, chăm sóc và điều trị HIV/AIDS;Giảm kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV và ảnh hưởng bởi HIV/AIDS, tăng cường sự hỗ trợ của gia đình, xã hội với người nhiễm HIV/AIDS và trách nhiệm của người nhiễm HIVAIDS với gia đình, xã hội, đặc biệt là trong dự phòng lây nhiễm HIV và tham gia các hoạt độngphòng, chống HIV/AIDS.Mở rộng độ bao phủ, nâng cao chất lượng, tính dễ tiếp cận của các dịch vụ dự phòng, chăm sóc và điều trị HIV/AIDS đến mọi người dân. Chủ đề của Chiến dịch phòng chống AIDS năm 2016: Hướng tới mục tiêu 90-90-90 để kết thúc dịch AIDS tại Việt Nam” do UNAIDS phát động mục tiêu 90-90-90 (90% người nhiễm HIV biết được tình trạng nhiễm HIV của mình, 90% người chẩn đoán nhiễm HIV được điều trị bằng thuốc kháng vi rút và 90% người nhiễm HIV đã được điều trị bằng thuốc kháng vi rút kiểm soát được số lượng vi rút ở mức thấp để sống khỏe mạnh và làm giảm nguy cơ lây truyền HIV cho người khác) ở cấp độ toàn cầu để tiến tới kết thúc dịch AIDS vào năm 2030.


Lãnh đạo Bộ Y tế phát động
"Tháng hành động quốc gia phòng chống HIV/AIDS"và “Ngày Thế giới phòng, chống AIDS” năm 2016

Các nội dung hoạt động chủ yếu

Ban hành văn bản hướng dẫn chỉ đạo: Ban Chỉ đạo phòng chống AIDS và tệ nạn ma túy, mại dâm các cấp ban hành văn bản chỉ đạo, hướng dẫn các đơn vị trực thuộc tăng cường triển khai các hoạt động trong "Tháng Hành động quốc gia phòng chống HIV/AIDS năm 2016" phù hợp với điều kiện và chức năng, nhiệm vụ cụ thể của từng đơn vị, địa phương.

Tổ chức các hội nghị, hội thảo:Các hội nghị, hội thảo về các chủ đề: Đánh giá việc thực hiện các mục tiêu 90-90-90 để hướng tới kết thúc AIDS; Huy động và đảm bảo tài chính cho công tác phòng, chống HIV/AIDS; Kiện toàn các cơ sở điều trị HIV/AIDS đủ điều kiện để có thể chi trả thuốc ARV, xét nghiệm cho người nhiễm HIV thông qua bảo hiểm y tế; Mở rộng độ bao phủ bảo hiểm y tế, hướng tới mục tiêu 100% người nhiễm HIV có thẻ bảo hiểm y tế; Chương trình phối hợp Đẩy mạnh phong trào “Toàn dân tham gia phòng chống HIV/AIDS tại cộng đồng dân cư” giai đoạn 2012-2020; Điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế. Chống kỳ thị phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS tại gia đình và cộng đồng, tại trường học, cơ sở y tế và nơi làm việc. Tổ chức gặp mặt, sinh hoạt câu lạc bộ với những người nhiễm HIV, người dễ bị tổn thương với HIV; truyền thông dự phòng lây nhiễm HIV tiếp tục thực hiện hành vi an toàn, tiếp cận sớm các dịch vụ dự phòng; lợi ích của tư vấn xét nghiệm HIV sớm; lợi ích điều trị sớm HIV/AIDS; lợi ích của bảo hiểm y tế với người nhiễm HIV, nguy cơ không tiếp tục được tiếp cận điều trị bằng thuốc kháng vi rút nếu không có thẻ bảo hiểm y tế trong thời gian tới, vận động người nhiễm HIV tham gia và sử dụng thẻ bảo hiểm y tế trong khám chữa bệnh. Các hội thảo chuyên đề chia sẻ kinh nghiệm, các mô hình có hiệu quả trong công tác dự phòng, chăm sóc, điều trị HIV/AIDS và chống kỳ thị phân biệt đối xử, đặc biệt là các mô hình mà người nhiễm HIV chủ động vươn lên làm chủ trong phòng, chống HIV/AIDS và giúp nhau trong cuộc sống. Chú trọng các mô hình điều trị, can thiệp và giảm tác hại cho đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa, các mô hình xã hội hóa trong phòng, chống HIV/AIDS và Phong trào “Toàn dân tham gia phòng, chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân cư”.

Tổ chức các hoạt động truyền thông, vận động:

-Lễ phát động Tháng Hành động quốc gia phòng chống HIV/AIDS Ủy ban Quốc gia phòng chống HIV/AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm khuyến khích các bộ, ngành, đoàn thể và các tỉnh, thành phố tổ chức Lễ phát động Tháng Hành động quốc gia phòng chống HIV/AIDS năm 2016. Thời điểm tổ chức Lễ phát động Tháng Hành động quốc gia phòng, chống HIV/AIDS cần được thực hiện trước hoặc trong ngày mở đầu Tháng Hành động (ngày 10/11/2016).


Truyền thông giáo dục cộng đồng cũng là một kênh quan trọng của mục tiêu 90-90-90

- Lễ mít tinh và diễu hành quần chúng hưởng ứng Tháng Hành động quốc gia phòng, chống HIV/AIDS và Ngày Thế giới phòng, chống AIDS tổ chức tập trung tại cấp bộ, ngành và tỉnh/thành phố. Các cuộc mít tinh và diễu hành quần chúng nên được tổ chức vào thời điểm thuận lợi cho việc huy động cộng đồng tham gia như ngày cuối tuần (26-27/11) hoặc Ngày Thế giới phòng chống HIV/AIDS (01/12/2016). Ngoài Lễ mít tinh, có thể tổ chức các sự kiện phối hợp như diễu hành hoặc quần chúng đi bộ, đạp xe, chạy, trưng bày, triển lãm, ca nhạc, biểu diễn kịch, truyền thông lưu động hoặc các sự kiện gây quỹ hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS. Ngoài ra Ủy ban Quốc gia phòng chống AIDS và phòng chống tệ nạn ma túy, mại dâm khuyến khích các tỉnh/thành phố, bộ ngành chỉ đạo các địa phương, đơn vị tổ chức mít tinh hoặc các sự kiện thích hợp khác tùy theo điều kiện cụ thể của từng địa phương, đơn vị.

- Tổ chức các hoạt động truyền thông, vận động hưởng ứng Tháng hành động quốc gia phòng chống HIV/AIDS và Ngày Thế giới phòng, chống AIDS chú trọng vào các nội dung biện pháp dự phòng lây nhiễm HIV và lợi ích của việc tiếp cận sớm các dịch vụ dự phòng, chăm sóc, điều trị HIV; Lợi ích của tư vấn xét nghiệm sớm HIV và xét nghiệm định kỳ với nhóm có hành vi nguy cơ cao; Điều trị bằng thuốc ARV: Lợi ích của điều trị bằng thuốc ARV, Lợi ích tiếp cận sớm với các dịch vụ chăm sóc và điều trị HIV/AIDS; quảng bá các dịch vụ điều trị ARV tại địa phương; Bảo hiểm y tế cho người nhiễm HIV/AIDS: Sự cần thiết, quyền lợi, mức đóng, mức hưởng và thủ tục tham gia cũng như cách sử dụng bảo hiểm y tế khi khám chữa bệnh bảo hiểm y tế. Huy động và đảm bảo tài chính cho chương trình phòng, chống HIV/AIDS. Luật Phòng, chống HIV/AIDS cần nhấn mạnh về quyền và nghĩa vụ của người nhiễm HIV, những điều khoản liên quan đến quyền tiếp cận điều trị và chăm sóc sức khỏe cho người nhiễm HIV/AIDS; Chống kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS. Về hình thức: Cần linh hoạt và triển khai đa dạng phong phú các hình thức truyền thông phù hợp với nguồn lực sẵn có của từng địa phương. Truyền thông trực tiếp như truyền thông với cá nhân, truyền thông nhóm, thăm gia đình người nhiễm HIV hoặc người có hành vi nguy cơ cao; tư vấn tại các cơ sở y tế; tổ chức sinh hoạt của các câu lạc bộ phòng, chống HIV/AIDS, các nhóm tự lực, các nhóm giáo dục đồng đẳng (lưu ý cần huy động sự tham gia của người nhiễm HIV). Truyền thông đại chúng: Ưu tiên về thời điểm, thời lượng phát sóng trên đài phát thanh, đài truyền hình; dung lượng và vị trí đăng trên báo in, báo điện tử trong Tháng hành động quốc gia phòng, chống HIV/AIDS; tăng cường truyền thông qua các chương trình giải trí trên truyền hình, các phóng sự, các chương trình quảng cáo, các chương trình toạ đàm, giao lưu với những người nổi tiếng về HIV/AIDS... Xây dựng chuyên trang, chuyên mục, đăng tải tin, bài viết trên các phương tiện thông tin đại chúng ở trung ương và địa phương như Đài Phát thanh và Truyền hình, báo in, báo điện tử. Truyền thông lưu động, đội chiếu bóng lưu động, các cuộc thi tìm hiểu phòng, chống HIV/AIDS; Tổ chức các đêm giao lưu văn nghệ truyền thông phòng, chống HIV/AIDS, nhất là ở xã, phường, thôn, ấp, bản. Tổ chức các sự kiện truyền thông có sự tham gia của người nhiễm HIV và gia đình; của các nhà lãnh đạo, người nổi tiếng và lãnh đạo cộng đồng; Phát triển và phổ biến các phương tiện và tài liệu truyền thông: Xây dựng các cụm panô, khẩu hiệu, treo băng roll tại các địa điểm công cộng có đông người qua lại như các trục đường giao thông chính, các bến xe, công viên; cửa ngõ thành phố, xã phường, thôn, ấp, bản và cổng các cơ quan, đơn vị, trường học, bệnh viện; Phổ biến các ấn phẩm truyền thông phòng chống HIV/AIDS khác như áp phích, tranh gấp, tờ rơi, sách mỏng về phòng, chống HIV/AIDS.


Hình ảnh thay lời

Thực hiện các hoạt động phòng chống HIV/AIDS khác

Giới thiệu, quảng bá rộng rãi về lợi ích của việc tiếp cận sớm các dịch vụ dự phòng, chăm sóc, điều trị HIV/AIDS và giới thiệu chi tiết các cơ sở cung cấp các dịch vụ dự phòng, chăm sóc, điều trị HIV/AIDS sẵn có tại địa phương, đơn vị, bao gồm cả các dịch vụ chuyển tiếp, chuyển tuyến để mọi người dân, đặc biệt là những người dễ tổn thương, người nhiễm HIV và bệnh nhân AIDS dễ dàng tiếp cận và sử dụng; Tổ chức mở rộng việc cung cấp các dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS như tư vấn xét nghiệm HIV lưu động; xét nghiệm HIV dựa vào cộng đồng; điểm cấp phát thuốc Methadone; điểm cấp phát thuốc ARV tại các trạm y tế xã. Tổ chức các hoạt động truyền thông vận động đưa trẻ nhiễm HIV đến trường học chung với trẻ không nhiễm HIV và chống kỳ thị phân biệt đối xử với trẻ nhiễm HIV; Tổ chức vận động các doanh nghiệp tham gia các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS cho người lao động, nhận người lao động là người nhiễm HIV, người sau cai, người đang được điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế; Tổ chức các chương trình vận động các tổ chức, cá nhân và gia đình tích cực tham gia các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS, ủng hộ gây quỹ hỗ trợ người nhiễm HIV, mua thẻ bảo hiểm y tế cho người nhiễm HIV và tổ chức thăm hỏi người nhiễm hoặc nhóm người nhiễm HIV và bệnh nhân AIDS tại địa phương;Tổ chức các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS khu vực biên giới, vùng sâu, vùngxa và vùng đồng bào dân tộc thiểu số; Kiện toàn, củng cố hệ thống chuyển tiếp, chuyển tuyến, đặc biệt là dịch vụ cung cấp các phương tiện dự phòng lây nhiễm HIV như bao cao su, bơm kim tiêm sạch cho mọi người dân có nhu cầu tại cộng đồng;Rà soát, chấn chỉnh, giám sát hỗ trợ nhằm nâng cao chất lượng các dịch vụ, đảm bảo tính sẵn có, tính dễ tiếp cận của các dịch vụ dự phòng, chăm sóc và điều trị HIV/AIDS, đặc biệt là các dịch vụ can thiệp giảm thiểu tác hại dự phòng lây nhiễm HIV; Vận động những người tiêu biểu, người có uy tín trong cộng đồng dân tộc thiểu số, tôn giáo, dòng họ (già làng, trưởng bản, chức sắc tôn giáo, trưởng họ, trưởng tộc...) tích cực tham gia các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS trong đồng bào vùng dân tộc và miền núi; Vận động các tổ chức tôn giáo, tổ chức phi chính phủ, các tổ chức xã hội dân sự khác và mạng lưới người nhiễm HIV tại địa phương tích cực tham gia và tổ chức các hoạt động nhân Tháng Hành động; Tổ chức cho các nhà lãnh đạo các cấp tham gia thuyết trình bao gồm cả đánh giá và làm rõ trách nhiệm của các tổ chức, các cá nhân trong công tác phòng, chống HIV/AIDS tại các cuộc họp, hội nghị, các sự kiện truyền thông phòng, chống HIV/AIDS, đi thăm hỏi, động viên các tổ chức, cơ sở chăm sóc, hỗ trợ và điều trị bệnh nhân AIDS, các câu lạc bộ phòng, chống HIV/AIDS, các nhóm tự lực và cá nhân, gia đình bệnh nhân AIDS giúp đỡ người nhiễm HIV/AIDS hoà nhập cộng đồng; Tổ chức các chuyến giám sát, đánh giá việc thực hiện công tác phòng chống HIV/AIDS của các cấp, các ngành, các địa phương, đơn vị.

Theo VAAC (MOH), năm 2016 Việt Nam tiếp tục lựa chọn chủ đề “Hướng tới mục tiêu 90-90-90 để kết thúc dịch AIDS tại Việt Nam” do 2014 nước ta đã cam kết và hưởng ứng các mục tiêu 90-90-90 do UN đề ra và mỗi mục tiêu là một dấu mốc quan trọng khẳng định kết quả phòng chống HIV/AIDS đạt được. Nếu 90% số người nhiễm HIV biết được tình trạng nhiễm HIV của mình thì chứng tỏ giám sát và xét nghiệm đã được làm tốt; có thể tiếp cận, quản lý, tư vấn cung cấp các dịch vụ dự phòng, chăm sóc và điều trị cho phần lớn người nhiễm HIV. Nếu 90% người chẩn đoán nhiễm HIV được điều trị ARV liên tục thì không chỉ làm tốt điều trị sớm chăm sóc sức khỏe cho người nhiễm HIV mà còn giảm nguy cơ lây nhiễm cho cộng đồng và giảm lây truyền từ mẹ sang con. Nếu 90% số người được điều trị ARV kiểm soát được tải lượng vi rút ở mức thấp và ổn định dưới ngưỡng phát hiện là chỉ báo quan trọng đánh giá chất lượng điều trị cũng như sự tuân thủ điều trị tốt của bệnh nhân. Như vậy, nếu đạt được 3 mục tiêu 90 - 90 - 90 thì có thể phát hiện được hầu hết những người nhiễm HIV trong cộng đồng; điều trị tốt được hầu hết những người nhiễm HIV, giảm tối đa khả năng lây nhiễm HIV cho người khác, người đã nhiễm HIV có cuộc sống khỏe mạnh, từ đó có thể đạt được mục tiêu lớn hơn là chấm dứt đại dịch AIDS vào năm 2030 như UN đề ra. 2016 là năm thứ 3 liên tiếp Việt Nam tiếp tục theo đuổi thực hiện mục tiêu này, mặc dù trong những năm qua đã đạt nhiều thành tựu phòng chống HIV/AIDS như 8 năm liền dịch HIV được kiểm soát ở cả 3 tiêu chí giảm số người nhiễm mới HIV hàng năm; giảm số người chuyển sang AIDS và giảm số người tử vong do HIV/AIDS. Việt Nam đã tiếp tục kiểm soát được tỷ lệ nhiễm HIV trong cộng đồng ở mức < 0,3% nhưng theo báo cáo từ các địa phương các chỉ tiêu hiện tại của Việt Nam còn khá xa so với các mục tiêu 90-90-90 do UN đề ra; với mục tiêu 90% số người nhiễm HIV biết được tình trạng nhiễm HIV của mình thì Việt Nam mới đạt gần 80%, với mục tiêu 90% người nhiễm HIV được điều trị ARV mới chỉđạt gần 50%, với mục tiêu 90% số người được điều trị ARV kiểm soát được tải lượng vi rút ở mức thấp và ổn định hiện đang mở rộng theo khuyến cáo của WHO tiến tới như xét nghiệm thường quy đòi hỏi cần sự cam kết và nỗ lực lớn hơn trong việc nâng cao nhận thức phòng chống HIV/AIDS của các cấp lãnh đạo cũng như cộng đồng; đồng thời yêu cầu chương trình phòng chống HIV/AIDS phải có những điều chỉnh thích hợp với tình hình mới.


Tổng Thư ký UN Ban Ki Moon: “Dồn tổng lực kết thúc nhanh đại dịch AIDS”

Thay cho lời kết

"Chiến lượctổng lực nhanhkết thúc đại dịch AIDS"(Fast-Track strategy to end the AIDS epidemic)vào năm 2030 của UNAIDSđưa ra những mục tiêu hết sức tham vọng và thách thức trong khi nguồn lực viện trợ quốc tế đang giảm nhanh, nếu thực hiện được những mục tiêu này thì không chỉ bảo vệ sức khỏe tính mạng của người dân mà còn ổn định và phát triển quốc gia. Trong bối cảnh dịch bệnh HIV mang tính toàn cầu, nếu phòng chống HIV/AIDS hiệu quả cùng thực hiện thắng lợi các mục tiêu 90-90-90 thì đó chính là cơ sở kết thúc đại dịch AIDS vào năm 2030.

Tài liệu tham khảo

1.Chiến lược quốc gia Phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2020 và tầm nhìn 2030 (Ban hành kèm theo Quyết định số 608/QĐ-TTg ngày 25/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ).

2.Kế hoạch tháng hành động quốc gia phòng chống HIV/AIDS năm 2016 (ban hành kèm CV số 7610 /BYT-UBQGngày 20/10/2016 của UBQG PCAIDS và PCTNMTMD)

3.UNAIDS.Global AIDS Update 2016;2016

4.UNAIDS.2016 Core Epidemiology Slides; 2016. UNAIDS. AIDSinfo website; accessed June 2016, available at:http://aidsinfo.unaids.org/.

5.UNAIDS.Get o­n the Fast Track; 2016.

6.UNAIDS.Prevention Gap Report; 2016.

7.UNAIDS.Fact Sheet 2016; 2016.

8.WHO. Tuberculosis:http://www.who.int/mediacentre/factsheets/fs104/en/index.html.

9.WHO. Tuberculosis and HIV:http://www.who.int/hiv/topics/tb/en/index.html.

10.WHO.Global tuberculosis report; 2016.

11.UNAIDS.UNAIDS 2016-2021 Strategy; August 2015.

12.Population Reference Bureau.2015 World Population Data Sheet; 2015.

13.Global HIV Prevention Working Group.Behavior Change for HIV Prevention: (Re) Considerations for the 21st Century; August 2008.

14.WHO.Guideline o­n When to Start antiretroviral Therapy and o­n Pre-Exposure Prophylaxis for HIV; September 2015.

15.WHO.WHO expands recommendation o­n oral pre-exposure prophylaxis of HIV infection (PrEP);November 2015.

16.United Nations.Political Declaration o­n HIV and AIDS: o­n the Fast-Track to Accelerate the Fight Against HIV and to End the AIDS Epidemic by 2030;June 8, 2016.

17.WHO. Press Release: NIAID START Trial confirms that immediate treatment of HIV with antiretroviral drugs (ARVs) protects the health of people living with HIV; May 28, 2015.

18.NIAID. Starting Antiretroviral Treatment Early Improves Outcomes for HIV-Infected Individuals; May 27, 2015.

19.U.S. Congress. P.L. 108-25; May 27, 2003.

20.U.S. Congress. Public Law No: 113-56; December 2, 2013.

21.Kaiser Family Foundation analysis of data from the Office of Management and Budget, Agency Congressional Budget Justifications, and Congressional Appropriations Bills. Totals include funding for HIV and the Global Fund.

22.KFF/UNAIDS. Financing the Response to HIV in Low- and Middle-Income Countries: International Assistance from Donor Governments in 2015; July 2016.

23.United Nations.Transforming our world: the 2030 Agenda for Sustainable Development; 2015.

24.UNAIDS. 2011 Political Declaration o­n HIV/AIDS; 2011, available at:http://www.unaids.org/en/aboutunaids/unitednationsdeclarationsandgoals/2011highlevelmeetingonaids/.

25.UNAIDS. Press Release: Bold Commitments to Action Made at the United Nations General Assembly High-Level Meeting o­n Ending AIDS; June 10, 2016.

26.UNAIDS. Fast-Track: ending the AIDS epidemic by 2030; 2014.

27.Global Fund. Grants Portfolio; accessed June 2016, available at:http://www.theglobalfund.org/en/portfolio/.

28.Bill & Melinda Gates Foundation,HIV Strategy Overview; accessed June 2016, available at:http://www.gatesfoundation.org/What-We-Do/Global-Health/HIV#OurStrategy

Ngày 07/12/2016
PGS.TS. Triệu Nguyên Trung
(Theo UNAIDS, WHO và MOH)
 

THÔNG BÁO

   Dịch vụ khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn khám bệnh tất cả các ngày trong tuần (kể cả thứ 7 và chủ nhật)

   THÔNG BÁO: Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn xin trân trọng thông báo thời gian mở cửa hoạt động trở lại vào ngày 20/10/2021.


 LOẠI HÌNH DỊCH VỤ
 CHUYÊN ĐỀ
 PHẦN MỀM LIÊN KẾT
 CÁC VẤN ĐỀ QUAN TÂM
 QUẢNG CÁO

Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005
Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.
Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464
Email: impequynhon.org.vn@gmail.com
Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng
Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích