Home TRANG CHỦ Thứ 6, ngày 29/03/2024
    Hỏi đáp   Diễn đàn   Sơ đồ site     Liên hệ     English
IMPE-QN
Web Sites & Commerce Giới thiệu
Finance & Retail Tin tức - Sự kiện
Trong nước
Quốc tế
Tin hoạt động của Viện
Tin vắn đáng chú ý
Điểm tin y tế
Ngày Sốt rét thế giới 25 tháng 4 (World Malaria Day)
Web Sites & Commerce Hoạt động hợp tác
Web Sites & Commerce Hoạt động đào tạo
Web Sites & Commerce Chuyên đề
Web Sites & Commerce Tư vấn sức khỏe
Web Sites & Commerce Tạp chí-Ấn phẩm
Web Sites & Commerce Thư viện điện tử
Web Sites & Commerce Hoạt động Đảng & Đoàn thể
Web Sites & Commerce Bạn trẻ
Web Sites & Commerce Văn bản pháp quy
Số liệu thống kê
Web Sites & Commerce An toàn thực phẩm & hóa chất
Web Sites & Commerce Thầy thuốc và Danh nhân
Web Sites & Commerce Ngành Y-Vinh dự và trách nhiệm
Web Sites & Commerce Trung tâm dịch vụ
Web Sites & Commerce Thông báo-Công khai
Web Sites & Commerce Góc thư giản

Tìm kiếm

Đăng nhập
Tên truy cập
Mật khẩu

WEBLINKS
Website liên kết khác
 
 
Số lượt truy cập:
5 2 2 8 9 5 6 6
Số người đang truy cập
5
 Tin tức - Sự kiện Trong nước
Phòng chống sán lá gan lớn ở người và gia súc cần dựa vào biện pháp tổng hợp và phối hợp đa ngành

Nguyên tắc chung

Nguyên tắc chung để phòng chống bệnh sán lá truyền qua thức ăn (Food borne trematodes_FBTs) nói chung và bệnh SLGL nói riêng đều phải tuân theo là ngăn chặn các nguồn bệnh lây nhiễm từ động vật và thực vật. Tương tự như các bệnh sán giun khác trong vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, việc phòng chống giun sán là cắt đứt một trong các khâu ở mắc xích chu kỳ phát triển. Song, việc này không hề đơn giản mà vấn đề làm sao để chọn được mắc xích ngăn chặn đúng, nhanh, hiệu quả kinh tế cao. Can thiệp vào mắc xích có các khâu sau: chống phát tán trứng ra môi trường xung quanh bằng quản lý phân [1], chống vector truyền bệnh giun sán thông qua việc diệt vật chủ trung gian ốc, phá bỏ ổ ốc cư trú [2] nhưng biện pháp này không thực tế và cuối cùng là chống nhiễm bệnh bằng cách không ăn cây thủy sinh chưa nấu chín, làm sạch [3]. Như vậy, giải quyết mầm bệnh bằng điều trị thuốc đặc hiệu cho bệnh nhân là cần thiết và cùng với bộ phận thú y điều trị cho súc vật mang mầm bệnh.

 

Một cách tổng thể, các biện pháp phòng chống bệnh SLG bao gồm đảm bảo an toàn vệ sinh đối với các chất thải của con người và động vật; điều trị cho gia súc có nhiễm sán Fasciola sp. bằng thuốc đặc hiệu; ngăn ngừa phơi nhiễm giữa gia súc với các khu vực trồng rau xanh; kiểm soát nguồn nước tưới rau, không ăn rau sống ô nhiễm; thực hành vệ sinh tốt trong quá trình sản xuất, trồng trọt và chế biến rau, sử dụng nguồn nước sạch; giáo dục sức khỏe làm thay đổi hành vi và đặc biệt cung cấp các thông tin hữu ích và dễ hiểu cho người dân biết về bệnh SLGL cũng như tác hại gây ra từ chúng;không ăn thịt, gan, lòng của các gia súc bị bệnh nói trên khi chưa được xử lý kỹ; diệt vật chủ trung gian như ốc bằng hóa chất diệt nhuyễn thể; nâng cao nhận thức về bệnh cho cán bộ y tế ở mức độ phổ biến của bệnh, dịch tễ học, chẩn đoán, điều trị và phòng chống bệnh SLGL tại cộng đồng, nhất là các cán bộ y tế đang công tác tại tuyến huyện và xã - nơi đang thiếu những phương tiện chẩn đoán phù hợp.

Nhiễm SLGL Fasciola sp. ở người luôn liên quan với tình hình dịch tễ bệnh SLGL ở động vật, do đó các biện pháp phòng chống bệnh SLGL cho người cần có sự phối hợp chặt chẽ với chuyên ngành y tế-thú y hay nói đúng hơn là sức khỏe con người và sức khỏe động vật. Phát hiện và điều trị sớm, điều trị tiệt căn cho bệnh nhân mắc SLGL; truyền thông giáo dục sức khỏe phòng chống bệnh SLGL, đặc biệt là truyền thông thay đổi hành vi nguy cơ (IEC/BBC) trong thực hành ăn uống, sinh hoạt; phòng chống bệnh SLGL ở gia súc, nhất là nơi chăn thả và nông trang gia đình, cần lưu ý các nguồn bò nhập ngoại từ các quốc gia có bệnh lưu hành về các quốc gia hay vùng chưa có bệnh.

Một số thách thức trong phối hợp y tế - thú y phòng chống SLGL

Việc phối hợp giữa ngành y tế với thú y gồm có khâu quản lý phân trâu bò và các loại gia súc khác nhau, điều trị, đồng thời với quản lý súc vật bị bệnh SLGL, quản lý khu vực chuồng trại và nguồn chất thải từ lò mổ không tuân thủ quy trình hợp vệ sinh, dù các hoạt động này có thể không ổn định (một số xã hay huyện) hay ổn định (nhất là các tỉnh và thành phố lớn). Tuy nhiên, qua thực tế tại nhiều quốc gia đã cho thấy một số rào cản và thách thức trong phối hợp đa ngành hướng đến Một sức khỏe (“One Health”) cần phải chia sẻ và kết nối trong kiểm soát bệnh này giữa các bên:

Rào cản và thách thức

(Barries and challenges)

Chia sẻ và kết nối

(Bridges and shares)

- Tách biệt giữa các viện chuyên ngành

- Liên kết “yếu”giữa cơ quan y tế con người và cơ quan y tế động vật (thú y)

Sự phối hợp, lồng ghép và đối tác trong các hoat động phòng chống và kiểm soát

- Sự khác biệt trong nhấn mạnh:

+ Y tế: sức khỏe con người

+ Thú Y: sản lượng gia súc

Lợi điểm kép: sức khỏe cho con người và động vật

- Sự khác biệt trong chuyên khoa;

- Sự cạnh tranh (không biết số liệu)

- Chia sẻ thông tin qua giao ban và hội đồng y tế thú y

Đào tạo: Thiếu sự nhấn mạnh về các bệnh lý truyền từ động vật sang người và ngược lại

Xây dựng năng lực thông qua đào tạo thường quy về bệnh lây truyền từ động vật sang người cho cả lĩnh vực thú y và y tế.

Cơ sở hạ tầng về y tế công cộng của thú y còn chưa đồng bộ và yếu

Đã đến lúc cần đầu tư và nâng cấp các lĩnh vực thú y.

Các phòng chống mang tính cấp thời và chưa có lộ trình dự phòng đầy đủ

- Xây dựng nhóm hành động y tế và thú y;

- Cơ quan chức năng làm đầu mối

 
 
Phòng bệnh thông qua cắt đứt một trong các khâu trên

-Điều trị cho gia súc bị bệnh SLGL bằng các thuốc chống SLGL đặc hiệu, ít độc, thời gian tồn lưu trong thịt ngắn. Việc phòng bệnh SLGL trên động vật tại các vùng bệnh lưu hành là làm thế nào để cắt đứt các khâu trong chu kỳ khép kín của sơ đồ trên đây;

-Vaccine phòng bệnh hiện nay đang được nghiên cứu phát triển bởi các nhà khoa học tại Đại học Queensland, Úc, trước hết đi sâu vào nghiên cứu đáp ứng miễn dịch với các loài sán F. hepaticaF. gigantica trong các vật chủ, đặc biệt trên mô hình thực nghiệm giảm lượng sán lá gan lớn ở chuột, dê và cừu, rồi từ đó cần thiết phát triển vaccine chống lại sán ở người trong tương lai, các kết quả sơ bộ ban đầu cho thấy ở hai nhóm được dùng vaccine và không dùng vaccine có sự khác biệt về giảm mật độ ký sinh trùng trong cơ thể.

Phòng chống bệnh SLGL được thiết kế nhằm loại bỏ hoặc giảm tỷ lệ mắc bệnh và gián tiếp nâng cao khả năng sinh sản của gia súc (trong kinh tế nông nghiệp). Loại trừ bệnh SLGL cho gia súc cũng là gián tiếp giảm bệnh trên cộng đồng người. Hạn chế nhiễm bệnh SLGL bằng cách hạn chế tối đa thiệt hại kinh tế, sử dụng các biện pháp phòng chống hiệu quả và quản lý tốt ca bệnh.

 
Mô hình hiệu quả sử dụng vaccine phòng chống bệnh SLGL ở gia súc

Chiến lược phòng chống bệnh hiệu quả là cải thiện môi trường, thay đổi hoạt động nông nghiệp, tưới tiêu sao cho hợp vệ sinh. Vì sự nhiễm trùng ở vật nuôi phụ thuộc vào hai yếu tố, đó là lượng mưa và nhiệt độ. Với mỗi vùng riêng biệt có số liệu thời tiết có thể giúp điều trị bệnh sán một cách hiệu quả theo thời gian. Song ở vùng Đông Nam Á, vì điều kiện thời tiết có lượng mưa và nhiệt độ tương đối cao, điều này đã làm giảm hiệu quả phòng chống bệnh. Tuy nhiên, nếu sau mỗi mùa vụ thu hoạch xong, cho gia súc ăn lúa gạo sót lại thì giảm tỷ lệ bệnh cũng đáng kể, đồng thời làm giảm loài ốc trung gian truyền bệnh - vấn đề này được thực hành ở Indonesia, nhất là vùng Java, nhưng đến nay hiệu quả vẫn chưa được công bố. Trước tiên, nói một cách sơ lược nhưng hội đủ ý nghĩa rằng con người có thể ngăn ngừa nhiễm bệnh bằng cách không uống nước chưa được đun sôi hoặc nước không được lọc, không ăn gan sống và các loại rau không được rửa sạch hoặc không được nấu chín. Các biện pháp phòng chống ốc không có hiệu quả kinh tế và cân nhắc tác động đến môi trường. Ngăn ngừa và phòng chống bệnh sán truyền qua thức ăn là có thể thực hiện được thông qua các biện pháp an toàn thực phẩm (nấu và rửa đúng cách ca, thịt và rau), tránh làm nhiễm bẩn môi trường với chất thải. Chẳng hạn, việc thả phân chưa xử lý xuống ao ở Trung Quốc là một nguyên nhân chủ yếu gây nhiễm các loài sán lá, nên cần xử lý trước phân trong thùng để diệt trứng và các tác nhân gây bệnh khác làm giảm tỷ lệ mắc mới đáng kể.

Qua một vài nghiên cứu cho thấy metacercariae dính rất chặc ở cải xoong (mọc ở suối và ao, hồ) và nguồn nhiễm khác như các loài cây có nhiều lớp, có lớp mucoprotein và mucopolysacharide trung tính và acide bảo vệ. Nên muốn diệt được nang trùng metacercariae thì thường dùng dung dịch hypochloride. Hiệu quả nhất là nấu chín các loại rau trước khi ăn. Vì thực vật thuỷ sinh trong các thuỷ vực (rau ngổ, củ ấu, mùi tây, rau diếp cá, rau húng), để phòng bệnh thì nên vớt thực vật thuỷ sinh, làm mất nơi trú ẩn của ấu trùng, nên chúng dễ bị sinh vật khác tấn công và tiêu diệt. Đồng thời, vớt thực vật thuỷ sinh làm cho mặt nước không được che phủ, do đó nhiệt độ mặt nước tăng lên do bị ánh nắng mặt trời chiếu trực tiếp và ấu trùng của sán không có thể phát triển, hoàn thành chu kỳ được hoặc ít nhất không phát triển thành nang trùng của sán. Trong các ruộng trồng rau nên diệt các loài ốc, không sử dụng phân tươi của người và gia súc để bón. Trong vùng lưu hành bệnh SLGL, nếu muốn dùng các loại rau này, chúng ta không nên ăn sống và nhớ rằng nếu rửa bằng nước máy hoặc nước giếng không giết được metacercariae, nước uống phải đun sôi ít nhất 1 phút hoặc uống nước tinh khiết đã qua xử lý bằng tia cực tím. Nói chung, giáo dục sức khoẻ toàn dân hành động ngay thói quen ăn chín, uống sôi là phương pháp hiệu quả phòng ngừa bệnh.

 

Ngoài việc phát hiện ca bệnh và điều trị, quản lý tại cơ sở y tế, cần phải thực hiện các biện pháp để giảm hoặc ngăn ngừa sự lan truyền bệnh. Xây dựng các hệ thống cung cấp nước sạch là biện pháp phòng chống có hiệu quả kinh tế nhất ở hầu hết các khu vực. Giáo dục sức khoẻ là cần thiết để đảm bảo sự tham gia của cộng đồng vào việc xây dựng và sử dụng các phương tiện cung cấp nước không ô nhiễm. Sự nhiễm bệnh SLGL trong một quần thể phụ thuộc và đòi hỏi chính xác 4 yếu tố: Sự hiện diện của các ổ chứa bệnh quan trọng; sự có mặt của vật chủ trung gian, nhất là ốc họ Lymnae; các cơ hội cho nguồn nước ô nhiễm do con người và động vật khác; hành vi ăn uống, bao gồm các loại rau thủy sinh sống, chưa được xử lý. Do đó, các biện pháp quan trọng và hữu hiệu nhất cho y tế cộng đồng đòi hỏi phải đúng mục đích, không nhất thiết phải là tất cả, nhưng tối thiểu chú trọng đến các khâu này.

Một số hoạt động có thể áp dụng trong phòng chống SLGL

Tác động vào vật chủ trung gian truyền bệnh và mầm bệnh

Tránh tiếp xúc với nước có ốc nhiễm bệnh sinh sống: Điều quan trọng là cung cấp đủ nguồn nước sạch để uống, tắm và giặt quần áo. Các hệ thống cung cấp nước sạch được trang bị hệ thống ống dẫn và máy bơm hoặc các giếng đào sẽ làm cho cộng đồng tránh tiếp xúc với các nguồn nước từ suối và ao hồ nhiễm bệnh. Cán bộ y tế cần cung cấp thông tin về sự an toàn của các nguồn nước, cộng đồng dân cần tránh bơi lội, giặt hoặc tắm trong nước nghi ngờ có ô nhiễm. Tuy nhiên, các thông tin chi tiết thường không có sẵn, nên một cách an toàn hơn là xem tất cả các thuỷ vực trong vùng bệnh lưu hành là những nơi có tiềm năng lan truyền bệnh. Đối với những người sản xuất nông nghiệp thường xuyên có nguy cơ nhiễm bệnh, thì việc xét nghiệm và điều trị định kỳ có thể là biện pháp có khả thi nhất để phòng chống bệnh.

Cải thiện môi sinh (Landscape improvement): Đưa ra lời khuyến cáo cả con người và gia súc tránh đại tiện vào nguồn nước hoặc gần nguồn nước để làm giảm cơ hội nhiễm bệnh ở ốc. Cần phải xây dựng hố xí hoặc nhà vệ sinh, giáo dục khuyên răn trẻ em sử dụng chúng trong sinh hoạt hàng ngày một cách hợp lý.

Giáo dục sức khỏe (Health education): Truyền thông nguy cơ về hậu quả của bệnh đến cá nhân cũng như cộng đồng, chỉ ra bệnh SLGL sẽ là một gánh nặng cho xã hội nếu không khống chế bệnh. Hướng dẫn cách rửa rau và các thủy sinh trong dung dịch giấm 6% hoặc trong thuốc tím potassium permanganat trong 5-10 phút, chính động tác này sẽ giúp cho phá hủy được các metacercariae đóng kén. Thực hành rửa rau như thế tỏ ra có hiệu quả và đạt sự chấp nhận của cộng đồng hơn là khuyên họ tạm ngưng ăn rau sống (Farag và cs., 2005; Paul Hewish và cs., 2006). Nên luộc rau xanh trước khi ăn nếu chúng ta không an tâm với các biện pháp rửa rau thông thường, nhằm tránh tăng nhiễm các vùng đang trồng trọt.
 

Phòng chống ốc trung gian (Snail control): Với sự ra đời của một số thuốc mới và an toàn hơn để xử lý ca bệnh và sự cải thiện việc cung cấp nước và các hệ thống vệ sinh, thì việc phòng chống ốc có lẽ ít được áp dụng hơn trong kiểm soát bệnh này. Tuy nhiên, phòng chống ốc vẫn còn là một biện pháp quan trọng, nhất là những nơi có sự lan truyền bệnh cao trẻ em. Truyền thông giáo dục sức khoẻ cũng như việc cung cấp nước sạch có vẻ ít được thực hiện. Có thể phòng chống ốc một cách gián tiếp bằng cách làm giảm bớt nơi ở của chúng hoặc một cách trực tiếp bắt ốc ở những nơi mà các biện pháp này khôngđủ hiệu lực tiêu diệt quần thể ốc thì các hoá chất diệt ốc (thuốc diệt nguyễn thể) có thể sử dụng, nhưng chú ý ô nhiễm môi trường. Việc quyết định sử dụng hoá chất để phòng chống ốc do những người có kiến thức hiểu biết cao chịu trách nhiệm. Sử dụng hoá chất diệt nhuyễn thể đã và đang là phương pháp quan trọng nhất để phòng chống ốc. Nó đặc biệt có hiệu quả trong phòng chống các loài ốc thuỷ sinh thuộc các giống BulinusBiomphalaria. Hóa chất diệt nhuyễn thể kém tác dụng đới với các loài Oncomelaria lưỡng cư truyền sán máng S. japonicum. Các biện pháp quản lý môi trường thường có hiệu quả kinh tế. Phòng chống ốc có thể do các nhóm chuyên trách hoặc nhân viên chăm sóc sức khoẻ ban đầu được đào tạo, trang bị một ít kiến thức về dịch tễ học và phòng chống bệnh SLGL. Những nơi biết rõ có cư trú ốc và dễ tiếp cận, cộng đồng có thể đóng một vai trò tích cực trong các hoạt động phòng chống.

Quản lý môi trường và giảm nơi cư trú của ốc:Trong phòng chống sán máng, các phương pháp quản lý môi trường, nhìn chung rất tốn kém nhưng duy trì được trong một thời gian lâu dài. Ốc cần thực vật để làm thức ăn, để bám và làm giá thể cho trứng của chúng. Vớt thực vật trong các kênh mương thuỷ lợi làm giảm số lượng ốc, nhưng để vớt bỏ thực vật bằng tay thường người ta phải lội xuống nước là rất nguy hiểm, trong khi đó sử dụng biện pháp cơ học để vớt bỏ thực vật thì tốn kém. Dọn sạch các kênh mương cũng có thể giúp cho công tác phòng chống một số bệnh khác và có thể làm tăng việc sử dụng hiệu quả các nguồn nước thuỷ lợi. Một nhược điểm của phương pháp này là cần phải được tiến hành lặp đi lặp lại thường xuyên. Nơi điều kiện cho phép, có thể láng các con kênh mương bằng xi măng để ngăn ngừa và hạn chế sự phát triển của thực vật. Nhân dân cũng có thể dọn vớt thực vật ở các thuỷ vực nơi thường bơi lội hoặc nơi giặt giũ quần áo và rửa chén bát đĩa. Trong những điều kiện nhất định thả cá trắm cỏ (Ctenopharynegodon idella) có thể thích hợp để phòng chống sinh học các thực vật thuỷ sinh.

Thay đổi mực nước và tốc độ dòng chảy: Những nơi lượng nước không bị giới hạn, các công việc làm cho nước dâng cao hoặc làm cho mực nước thấp xuống cũng như tăng tốc độ dòng chảy có thể gây ra xáo trộn nơi ở của ốc và nguồn thức ăn của chúng. Tháo kiệt nước một cách nhanh chóng làm giảm lượng thực vật trong thuỷ vực và diệt ốc do thuỷ vực bị khô. Phương pháp này cần được chú ý đến ở những nơi chủ động được tưới tiêu nước.

Loại bỏ các ổ đẻ và diệt ốc: Các hầm, hố, vũng và ao nước nhỏ không có mục đích sử dụng đặc biệt có thể được tháo cạn hoặc làm cho đầy nước nếu phát hiện thấy chúng là những nơi lan truyền bệnh, không những thế chúng còn là ổ luân chuyển mầm bệnh khác. Có thể sử dụng gàu nạo vét để vớt ốc ra khỏi các kênh mương và các ổ nước, có thể đập bẹp để giết chúng hoặc để khô kiệt nước cho chúng chết. Hiện tượng này đã xảy ra ở Ai Cập và Sudan như là hiệu quả phụ của việc làm tăng tốc dòng chảy bằng cách vớt bùn ra khỏi các dòng kênh.

Phòng chống bằng biện pháp sinh học: Khả năng phòng chống ốc bằng biện pháp sinh học đã thu hút sự quan tâm một số người, nhưng hiện tại không thể khuyến cáo áp dụng. Trong một nghiên cứu kéo dài ở Indonesia trên các loài gặm nhấm so sánh giữa các quốc gia phát triển và các quốc gia đang phát triển trên các vùng dịch tễ đặc biệt khác nhau cùng với các tập quán canh tác đặc thù. Tất cả vấn đề môi trường được xác định và điều tra, đếm trứng trong phân và nghiên cứu khảo sát các loài ốc nhiễm. Tại các quốc gia phát triển, một chủ trang trại có chăn thả một lượng lớn gia súc, kiểm tra các nguồn nước và điều tra về các sản phẩm có khả năng nhiễm được bán ra thị trường. Các chiến lược và thái độ thực hành phòng chống cho những tình huống này được vạch ra và sẽ tiếp tục làm song song với các công việc dùng thuốc tẩy sán duy trì hiệu quả.

 

Tại các quốc gia đang phát triển, những gia đình có số lượng gia súc chăn thả ít hơn, chế độ ăn uống và nguồn nước được khảo sát cho thấy dùng lẫn nhau trong nhiều gia đình và các phương thức này đều rất thô sơ, tiêu thụ phân bón và thịt cho địa phương cũng vậy. Kết quả liên quan giữa mùa vụ nông nghiệp và ký sinh trùng cũng như vật chủ trung gian có liên quan qua lại trong một phạm vi nhất định giúp cho công tác phòng chống hiệu quả hơn. Các biện pháp phòng chống như thế sẽ không đắt tiền và tạo yếu tố bền vững.

Phòng chống bằng hóa chất: Trong quá khứ, hóa chất diệt nhuyễn thể (ốc) thường được áp dụng trên diện rộng, rất tốn kém và thường gây hại với môi trường, do đó được thay thế bằng cách sử dụng trong phạm vi khu trú. Các nghiên cứu đầu tiên được tiến hành để xác định các thủy vực và mùa truyền bệnh, hóa chất được sử dụng theo định kỳ chỉ ở các nơiđược xác định. áp dụng biện pháp hóa học chỉ hạn chế ở những nơi mà cư dân địa phương thường xuyên sử dụng để giặt giũ, tắm rửa, bơi lội. Các hóa chất diệt nhuyễn thể niclosanide được chấp nhận để sử dụng trong phòng chống ốc. Những hóa chất diệt nhuyễn thể khác có nguồn gốc thực vật đang được nghiên cứu đánh giá. Do giá thành cao, nên niclosamide chỉ được sử dụng một cách tiết kiệm trong một số ít chương trình phòng chống địa phương, chỉ cần nồng độ thấp chúng có độc tính rất cao đối với ốc và trứng của chúng. Để áp dụng thực tế, người ta khuyến cáo nồng độ sử dụng là 0,6-1mg/L với thời gian tiếp xúc là 8 giờ. Hợp chất này an toàn khi sử dụng và sau khi pha loãng không độc đối với thực vật thủy sinh và các loại hoa màu khác. Tuy nhiên, nó rất độc với cá và cá chết do hóa chất diệt nhuyễn thể có thể ăn được một cách an toàn. Khi sử dụng khu trú và có tính chất mùa vụ, thuốc diệt nhuyễn thể cần phải không gây ra các tác động xấu tới môi trường. Nhìn chung, sử dụng hóa chất diệt nhuyễn thể có thể có nhược điểm: Vì cần sử dụng nhắc lại nên đòi hỏi một bảo đảm cam kết dài hạn liên quan đến vấn đề môi trường; Các hóa chất có giá thành cao, việc giám sát sử dụng kỹ lưỡng của nhân viên được đào tạo là rất cần thiết; Chúng có những tác dụng không mong muốn đối với các sinh vật không phải là mục tiêu phải diệt, đặc biệt là cá, nên cần đặc biệt lưu ý; Ốc có khả năng tự chôn mình hoặc tạm thời rời khỏi nước để tránh hóa chất, nên đòi hỏi phải sử dụng nhắc lại.

Về cách dùng, niclosamide được sản xuất dưới dạng bột tan 70% hoặc dịch nhũ tương 25%. Dạng dịch nhũ tương phát tán rất tốt trong nước đứng khi trộn lẫn với dầu diesel. Một gam hoạt chất được chứa trong 1,43gam bột. Những nơi nước tù đọng (ở đầm hồ hoặc phía sau các con đập), tốt nhất là sử dụng bình bơm để phun thuốc. Bình bơm mang trên vai cũng rất phù hợp, hỗn hợp bột tan và nước hòa trong bình bơm cần luôn được lắc đều. Nên sử dụng liều 0,4mg/L đối với dịch nhũ tương 25% và 0,6mg/L đối với bột tan khi phun ở các thủy vực nước tù đọng. Nơi nước chảy, hóa chất diệt nhuyễn thể thả xuống nước chảy được phát tán ngay lập tức. Bởi vì hóa chất cần phải tiếp xúc với ốc trong một khoảng thời gian đủ để diệt được chúng (≥ 8 giờ), nên hóa chất phải được sử dụng trong một thời gian đủ để có hiệu lực. Với nước chảy, nên dùng thuốc trong vòng 8 giờ với liều lượng 0,6mg/L đối với dịch nhũ tương 25% hoặc 1mg/L đối với dạng bột tan. Việc thả hóa chất vào nước chảy thường thường tiến hành bằng kỹ thuật nhỏ giọt sử dụng một cái thùng phân phối thuốc, thùng này có tốc độ chảy dịch trong một số giờ. Thùng được đặt ở nơi hẹp hoặc nước chảy mạnh của con suối hay con kênh nhằm đảm bảo cho hóa chất được trộn đều với nước. Hóa chất được dòng chảy mang đi và phân bố trong toàn hệ thống chứa nước. Hóa chất thả xuống nước bảo đảm có nồng độ cao đủ để diệt ốc và trứng của chúng ở cuối nguồn nước.

Bảng . Sử dụng hóa chất niclosamide diệt nhuyễn thể truyền bệnh

Sử dụng hóa chất diệt nhuyễn thể băng thùng phân phối nhỏ giọt ổn định

niclosamide bột tan 70%, liều 1mg/L, dùng trong 8 giờ

1. Thể tích nước cần sử dụng hóa chất trong một giây (m3/s): Q = V x D x W

V: vận tốc nước chảy (m/s)

D: chiều sâu của nước (m)

W: chiều rộng của kênh (m)

2. Tổng số lượng thuốc diệt nhuyễn thể (g) cần thiết:

Q x 100/70 x 60 x 60 x 8

3. Thùng phân phối nhỏ giọt chảy ra: F lít/s

4. Dung dịch pha trong thùng phân phối

[Q(m3/s x 100/70 (g/m3)]/F(l/s) = 100/70 x Q/F (g/l)

Chú ý: tốc độ nước chảy trung bình ở toàn bộ phần cắt ngang con kênh bằng khoảng 85% tốc độ chảy tối đa đo được trên mặt nước bằng cách quan sát vật thể nổi. Do đó lượng niclosamide trong phương trình 2 cần được nhân với 0,85.

 

Trong các dòng kênh, tốc độ nước chảy có thể ước lượng bằng cách ghi thời gian để một vật nổi trôi được một khoảng cách nhất định. Các con sông và các dòng suối thì phương pháp ước lượng tốc độ nước như thế sẽ không chính xác bởi có sự xen lẫn những đoạn sông, suối, nước đọng với những đoạn có nước chảy nhanh. Các phép tính lượng hoá chất thích hợp trình bày trong khung dưới đây. Thùng phân phối nhỏ giọt cần được chứa một lượng thuốc diệt nhuyễn thể hòa lẫn với nước đủ để sử dụng trong vòng 8 giờ. Thuốc diệt nhuyễn thể chảy ra từ thùng phân phối thông qua một cái ống hoặc vòi nước. Để thả một lượng chính xác thuốc diệt nhuyễn thể vào nước, điều chỉnh vòi nước hoặc làm tăng/ giảm đường kính ống dẫn bằng 1 cái kẹp điều chỉnh. Nếu sử dụng dạng bột tan thì thường khuấy đều dung dịch trong thùng để tránh hiện tượng lắng đọng của hóa chất.

Phòng chống bằng hóa liệu pháp thuốc chống giun sán

Biện pháp này nhằm loại bỏ sán trong vật chủ, nên phải ngăn ngừa thải trứng và ấu trùng vào trong môi trường. Liệu pháp này sử dụng một cách rộng rãi trên thế giới. Tình hình nhiễm bệnh, dịch tễ học và loài gây bệnh khác nhau từ vùng này đến vùng khác, nên chiến lược sử dụng thuốc điều trị cũng sẽ khác nhau giữa các vùng sinh thái-nông nghiệp khác nhau trong một quốc gia và thời điểm thực hiện chiến dịch cũng khác nhau tùy thuộc mùa truyền bệnh. Chẳng hạn, ở Nigeria công nhân được khuyên dùng thuốc vào thời điểm cuối mùa mưa vì gánh nặng bệnh giun sán ở gia súc có xu hướng cao hơn các thời điểm khác. Một thời điểm nữa là xử lý thuốc vào đầu mùa khô để loại bỏ và cơ hội tái phát của quần thể giun sán không còn nữa do ức chế ấu trùng. Tại Cameroon, các công nhân được khuyên uống thuốc vào đầu hoặc giữa mùa mưa sẽ kìm chế phát triển của giun sán cả năm đến mức tối thiểu.

 

Tại Kenya, các chuyên gia khuyên dùng thuốc chỉ trước khi bắt đầu vào mùa mưa vì họ tìm thấy thực trạng giun sán cao hơn trong suốt mùa khô, trong khi đó các giai đoạn khác họ khuyên dùng thuốc cứ mỗi 4 tuần một lần. Tại Tanzania, một đơn trị liệu vào cuối mùa mưa nhằm hạn chế gánh nặng bệnh giun sán trong suốt mùa mưa. Trong khi đó, phía bắc Tanzania lại dùng thuốc vào thời điểm giữa của giai đoạn bắt đầu và cuối mùa khô. Những nghiên cứu khác ở Tanzania cho thấy xử lý thuốc sau một vài tuần mùa mưa bắt đầu, tiếp đó dùng thuốc với khoảng cách 4 tuần một lần trong suốt mùa mưa để hạn chế nhiễm bệnh trên đồng cỏ với các trứng sán trong mùa khô. Tuy nhiên, cần chú trọng đến tình trạng khác thuốc của cừu như đã từng xảy ra tại Kenya, Tanzania, Nam Phi. Hóa liệu pháp đã sử dụng trong nhiều năm qua ở quần thể động vật để giảm ổ bệnh và giảm gánh nặng về kinh tế nông nghiệp. Tuy nhiên, thuốc bithionol chỉ có sẵn để điều trị bệnh SLGl, song liều cao, chi phí cao và thời gian sử dụng dài ngày khiến cho chiến lược này không phù hợp quy mô cộng đồng. Thuốc TCBZ lại không có sẵn ở các nước, song dù sao nó cũng đã chỉ ra triển vọng trong loại bỏ và giảm gánh nặng bệnh SLGL trong thời gian qua.

Phòng chống bằng thuốc đặc hiệu triclabendazole (TCBZ)

Từ quan điểm triển vọng của nền y tế công cộng, phòng chống SLGL chủ yếu dựa trên điều trị kịp thời bằng thuốc TCBZ, một biện pháp chữa khỏi các cá nhân nhiễm và ngăn ngừa sự phát triển tỷ lệ mắc bệnh tăng lên. Tác các vùng ca bệnh SLGL chỉ xảy ra rải rác, quản lý ca lâm sàng nếu được báo cáo với các bệnh viện địa phương đủ để ngăn chặn bệnh (!). Quy trình chẩn đoán đáp ứng với môi trường kinh tế xã hội của các vùng lưu hành bệnh, thuốc TCBZ nên sẵn có tại các trung tâm y tế nhằm làm gia tăng tiếp cận điều trị từ cộng đồng. Trong các cộng đồng mà ở đó phát hiện chùm bệnh, có thể thiết lập hệ thống phân phối thuốc quy mô lớn để phòng bệnh tại các cấp dưới huyện (xã, thôn, bản). Hóa phòng bệnh (preventive chemotherapy) trên các vùng như thế có thể thiết lập như để điều trị đích cho nhóm trẻ em tuổi đi học từ 5-14 tuổi, thường là các quần thể có tỷ lệ nhiễm và cường độ nhiễm cao nhất, hoặc điều trị phổ rộng (universal treatment) dạng MDA trên toàn bộ quần thể đang cư trú. Tại các vùng như vậy, việc chẩn đoán cho từng cá nhân không cần thiết nữa, quyết định điều trị sẽ khả quan hơn dựa vào một sự đánh giá khía cạnh y tế công cộng. Một số quốc gia đang thiết lập phòng chống SLGL thông qua thuốc TCBZ (WHO, 2007).

Một số ví dụ dưới đây cho thấy có một số tiếp cận khác nhau:Quản lý từng ca bệnh riêng biệt (individual case-management) sau khi dựa trên một tiêu chuẩn chẩn đoán cụ thể và đơn giản (ở Việt Nam); Sàng lọc hàng loạt trên các vùng nghi ngờ và sau đó cho điều trị các ca dương tính (ở Ai Cập);Điều trị đích trên các nhóm quần thể nguy cơ cao, đặc biệt trẻ em, đang sống trong các vùng bệnh lưu hành (ở Bolivia); Áp dụng phát thuốc điều trị hàng loạt (MDA) cho toàn bộ cộng đồng được xác định nhiễm cao (ở Peru).

Một nghiên cứu được tiến hành tại Indonesia nhằm đánh giá tác động TCBZ chống lại nhiễm trùng tự nhiên sán F. gigantica trên thực địa 102 gia súc. Các gia súc này được chia thành hai nhóm: Một nhóm cho dùng TCBZ liều 12 mg/kg đường uống mỗi 8 tuần trong vòng một năm. Nhóm còn lại không điều trị (nhóm chứng). Liên quan đến phòng chống là đếm lượng trứng trong phân trên những con vật được điều trị thuốc có một tỷ lệ giảm đáng kể (p < 0,001). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm về các giá trị thông số máu và trọng lượng cơ thể con vật. Men glutamate dehydrogenase (GLDH) huyết thanh ở nhóm được điều trị giảm trong khoảng cho phép, ngược lại trong nhóm chứng thì giá trị này trên mức bình thường. Mặc dù nồng độ gamma glutamyl transferase (GGT) huyết thanh vẫn giữ nguyên giá trị bình thường trong cả hai nhóm, nhưng ở nhóm chứng cao hơn. Tuy nhiên, cả nồng độ GLDH và GGT ở nhóm chứng thấp hơn so với một số báo cáo của tác giả khác khi nghiên cứu trên bệnh SLGL mạn tính, điều này cho thấy tổn thương gan chỉ nhẹ, gây bởi lượng nhỏ F. gigantica trên các động vật đó. Thêm vào đó, các chỉ số này còn phụ thuộc vào tần suất bệnh, tỷ lệ lưu hành bệnh, dữ liệu về kinh tế, chiến lược phòng chống ở quốc gia đó đòi hỏi phải đánh giá một cách chi tiết vì dễ sót các ca bệnh chưa phát hiện trên lâm sàng. Thuốc TCBZ (biệt dược Fasinex®) được khyến cáo điều trị có thể thích ứng một cách tự do với vùng dịch tễ địa phương trong mỗi vùng khác nhau vì hiệu quả của thuốc tác động lên cả ba giai đoạn của sán. Hiệu quả của Fasinex® trên thể sán chưa trưởng thành giai đoạn sớm cho phép khoảng cách điều trị có thể kéo dãn ra giai đoạn tiềm tàng hoặc lâu hơn. Ngoài ra, các động vật có thể được điều trị một liệu trình ngắn sau mùa nhiễm bệnh. Nhìn chung, cách tiếp cận các biện pháp phòng chống giun sán hiện tại có những ưu điểm và nhược điểm riêng và phần lớn các biện pháp đang nằm trong khuôn khổ nghiên cứu.

Một nghiên cứu gần đây của nhóm tác giả Ai Cập (Curtale F và cs., 2012) lựa chọn phòng chống bệnh SLGL ở người bằng hóa liệu pháp chọn lọc (selective chemotherapy) qua một thiết kế sao cho vừa chi phí tiết kiệm và hiệu quả tại các vùng lưu hành dựa trên các can thiệp trên quy mô trường học ở đồng bằng sông Nile, Ai Cập. Sự thay đổi con người lúc đầu là vật chủ tình cờ dần thích nghi qua vật chủ chính đã chứng minh và giờ đây cần phải phòng chống nhiễm bệnh trên người và gia súc đồng thời. Trong những năm gần đây, các báo cáo tỷ lệ nhiễm cao trong số các trẻ em ở sông Nile. Đây là vấn đề công cộng cần có những can thiệp phòng chống và kiểm soát, trong đó có tiếp cận điều trị trên nhóm tuổi và các khu làng có nguy cơ đặc biệt. Trước tiên, các quận có tỷ lệ nhiễm cao được xác định thông qua các điều tra cơ bản, tiếp đó sàng lọc và điều trị chọn lọc tất cả trẻ em tuổi đi học ở các vùng có nhiễm cao. Trong vòng 4 năm họ đã sàng lọc 36.000 trẻ tại 6 quận, điều trị 1.280 ca xác định. Tỷ lệ nhiễm vùng lưu hành sau đó giảm từ 5,6 xuống còn 1,2%. Tất cả mọi dữ liệu chi tiết về chi phí và hiệu quả làm giảm tỷ lệ mắc bệnh, lan truyền bệnh và giảm gánh nặng bệnh tật rất cao. WHO và công ty dược phẩm Novartis Pharma AG đã thỏa thuận với Novartis cung cấp TCBZ để điều trị SLGL tại các quốc gia có bệnh lưu hành. Thuốc được cung cấp miễn phí đến các quốc gia tùy thuộc vào các mẫu đăng ký và dự trù từ Bộ Y tế. Một số lượng nhỏ cũng có thể sẵn có tại các viện để đáp ứng nhu cầu. WHO chịu trách nhiệm thu thập các mẫu về các ca bệnh ở các quốc gia (Bolivia Georgia, Madagascar, Peru, Việt Nam, Yemen) đang nhận tài trợ loại thuốc TCBZ này thông qua bản thỏa thuận trên (WHO, 2007).

Truyền thông giáo dục sức khỏe cộng đồng nhằm thay đổi hành vi nguy cơ

Truyền thông giáo dục sức khỏe (TTGDSK) trong y tế cộng đồng là các hoạt động nhằm khuyến khích mọi người đóng góp vai trò tích cực trong việc duy trì và nâng cao sức khỏe cho bản thân và cả cộng đồng. TTGDSK trên nhiều kênh trong cộng đồng bao gồm giảng bài ngoại khóa về phòng chống bệnh SLGL tại các trường học; tiến hành tuyên truyền thông qua hệ thống loa truyền thanh của xã, thôn; tổ chức các buổi họp dân phố, làng xã để tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia phòng chống các bệnh giun sán, thực hiện cam kết bỏ thói quen ăn sống, uống nước lã, có giám sát của y tế địa; phân phối và phát các tranh treo tường tại các hộ gia đình với nội dung phòng chống bệnh SLGL; tại điểm lưu hành bệnh, nên treo các pano, áp phích về tuyên truyền phòng chống bệnh sán truyền qua thức ăn và SLGL nói riêng; áp dụng truyền thông vào từng hoạt động cụ thể để đạt mục tiêu đề ra. TTGDSK để cộng đồng tự phòng chống bệnh SLGL tốt hơn cho chính họ, đồng thời cán bộ truyền thông cần nắm nguyên tắc cơ bản của TTGDSK như vật liệu truyền thông, phương tiện truyền thông và kỹ năng truyền thông.

Truyền thông giáo dục sức khỏe cần tác động tới: đối tượng trực tiếp: những người có hành vi nguy cơ cao (những người ăn thực phẩm chưa nấu chín hoặc chưa được xử lý sạch như rau, cá, gỏi cá, ốc); đối tượng gián tiếp: những người có thể tác động đến những đối tượng trực tiếp (người thân gia đình chẳng hạn). Để xây dựng hoạt động TTGDSK phải qua các bước như xem xét yêu cầu cụ thể của công tác TTGDSK; đặt mục tiêu cụ thể (tùy theo chương trình, dự án đề ta); xây dựng, thử nghiệm, phân phối vật liệu TTGDSK; xây dựng mạng lưới gồm càng nhiều đối tượng tham gia càng tốt; dự kiến những khó khăn có thể xảy ra để khắc phục; thông điệp truyền thông có hiệu quả cần đơn giản, ngắn gọn, rõ ràng, chính xác, âm điệu nên có tính hài hước, gây ấn tượng khó quên; tiến hành giáo dục truyền thông, đánh giá kết quả và rút kinh nghiệm.

Các phương tiện truyền thông giáo dục sức khỏe: Loa, đài phát thanh: có ưu điểm là phổ biến hơn ở nông thôn với số lượng khán thính giả đông đảo, có thể phát đi nhiều lần và tiết kiệm, nhưng có nhược điểm là người dân ít khi nghe hết cả bản tin và không có hình ảnh minh họa.Vô tuyến truyền hình, báo chí có tính chất bổ sung cho phương tiện loa, đài về phương diện bao phủ, dễ vận động quần chúng, nhất là tại thành thị, dễ thuyết phục và đặc biệt được chính quyền các cấp ủng hộ, nhưng có khó khăn là chi phí cao và không rộng khắp nơi xa xôi, miền núi, hải đảo.Tờ rơi có ưu điểm là len lỏi đến từng hộ gia đình, người dân có thể đọc nhiều lần, tại nhiều thời điểm khác nhau, là phương tiện cho cách tuyên truyền giữa người - người, tuyên truyền viên dễ sử dụng và người dân sau khi xem lại đem cho người khác xem, tạo nên một dây chuyền thông tin hữu ích trong chốc lát.Tuyên truyền giữa người với người cũng chính là hình thức TTGDSK hữu hiệu nhưng cần có vốn kiến thức chung nhất định, có kỹ năng giao tiếp/ thuyết phục. Phương pháp này cần tuân thủ nguyên tắc cảm thông với tình trạng hiện tại và nâng cao dần nhận thức.

Ứng dụng vào công tác phòng chống bệnh sán lá gan lớn

Nâng cao hiểu biết mỗi thành viên trong cộng đồng để từ đó thay đổi hành vi nguy cơ nhiễm SLGL như các thức ăn và thực phẩm chưa xử lý hoặc chưa nấu chín (rau thủy sinh sống, ốc trung gian truyền bệnh); phát động công tác vệ sinh môi trường, quản lý phân hợp lý và hợp vệ sinh.

Tuyên truyền viên trong cộng đồng gồm: Chính quyền gồm: cán bộ phụ trách văn xã, các trưởng thôn, bản và hình thức tuyên truyền như thông qua họp dân, loa đài, bản tin xã. Trường học gồm: giáo viên và học sinh, hình thức giáo dục truyền thông như thông qua bài giảng ngoại khóa hoặc học sinh tuyên truyền đến cho cha mẹ mình. Hội phụ nữ: tuyên truyền cho chồng, con và cộng đồng, đặc biệt thông qua cácphong trào triển khai để tranh thủ tuyên truyền phòng chống SLGL. Cán bộ y tế: đóng vai trò nòng cốt trong việc điều phối hoạt động các thành phần trên và đóng vai trò cố vấn về chuyên môn.

Nội dung tuyên truyền gồm: Tác hại của bệnh SLGL có thể gây suy tế bào gan, tổn thương gan lan tỏa, viêm đường mật lan tỏa, sỏi mật, biến chứng tụ máu, vở bao gan, chảy máu đường mật, u gan, áp xe gan, thậm chí tử vong do các biến chứng nghiêm trọng. Liên quan giữa ung thư gan mật và bệnh SLGL đến nay chưa có bằng chứng y học (evidence-based medicine), nên không thể đưa thông điệp này ra (thận trọng và lưu ý khác với bệnh do sán lá gan nhỏ). Nguyên nhân và yếu tố nguye cơ hoặc liên quan gây ra bệnh SLGL gồm có rau xanh ăn sống mang nang trùng, ốc mang ấu trùng, gan động vật nhiễm bệnh, uống nước lã. Để tránh tác hại của bệnh SLGL cần phải như thế nào? Nếu bị nhiễm đến khám chuyên khoa, điều trị triệt để, vệ sinh môi trường, không nên bón rau bằng phân tươi, không thải phân xuống hồ cá, ao hồ, mà hướng dẫn cộng đồng nên quản lý phân tốt, xử lý phân hợp vệ sinh.

Tập huấn và đào tạo kỹ năng chẩn đoán và điều trị, quản lý bệnh

Tổ chức tập huấn về kỹ năng chẩn đoán và điều trị bệnh SLGL cho cán bộ y tế tuyến huyện và xã, nhất là bác sĩ và kỹ thuật viên để phối hợp công tác tốt hơn. Muốn thực hiện tốt chiến lược phòng chống bệnh SLGL tốt ở Việt Nam thì cần phải: Trước tiên, cần đánh giá tình hình bệnh tật bằng cách thu thập số liệu (tỷ lệ nhiễm, mắc bệnh, nguy cơ nhiễm bệnh) để lập chương trình phòng chống bệnh thích hợp, bao gồm điều tra tại cộng đồng và các tuyến bệnh viện điều trị bệnh SLGL. Trong đó, mỗi tỉnh/ thành phố nên xác định được số xã có bệnh lưu hành và đánh giá mức độ, lập bản đồ dịch tễ học theo từng cấp đến xã. Đánh giá kết quả điều tra bằng phiếu điều tra kiến thức, thái độ hành vi bệnh (KAP_Knowledge Attitude and Practice). Nâng cao khả năng chẩn đoán, phát hiện và điều trị bệnh SLGL của y tế địa phương bằng cách tập huấn chuyên môn cho CBYT cơ sở, đặc biệt tuyến huyện và xã để họ có khả năng phát hiện được những ca nghi ngờ về lâm sàng để chẩn đoán bệnh, đồng thời cho điều trị hợp lý. Xây dựng mạng lưới y tế từ tỉnh đến xã để họ có khả năng phát hiện bệnh thụ động, chủ yếu dựa vào công tác truyền thông và quản lý ca bệnh tốt. Tiến hành điều trị, hiện chỉmới áp dụng điều trị ca bệnh được phát hiện và đã có phác đồ điều trị cho cơ sở y tế theo khuyến cao của TCYTTG (WHO, 2007) và Bộ Y tế (2006). Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học để khuyến khích các nghiên cứu có thể ứng dụng ngay vào từng mục tiêu phòng chống cụ thể như khả năng mở rộng hoạt động phòng chống bệnh có sự kết hợp của nhiều nguồn ngân sách quốc gia, quốc tế và từ các Dự án đầu tư khác. Xã hội hóa công tác phòng chống bệnh SLGL như lồng ghép với các chương trình và vận động cộng đồng cùng tham gia. Xây dựng hệ thống quản lý, điều hành chiến lược phòng chống bệnh SLGL từ trung ương đến tận cơ sở với hình thức quản lý như kênh báo cáo, cách giám sát và đánh giá kết quả thực hiện nhằm hoàn thiện hơn về chiến lược.

Phát hiện ca bệnh trong phòng chống bệnh sán lá gan lớn

Công tác phòng chống SLGL gồm phòng chống lây nhiễm như đảm bảo an toàn thực phẩm, vệ sinh nuôi trồng thủy sản, TTGDSK phòng chống bệnh SLGL bằng cách chẩn đoán, phát hiện ca bệnh, điều trị đặc hiệu và quản lý ca bệnh. Phát hiện ca bệnh: vấn đề quan trọng để phát hiện bệnh nhân là cần chẩn đoán hợp lý cho những người có hành vi nguy cơ kèm với biểu hiện lâm sàng. Chẩn đoán dựa vào: yếu tố dịch tễ học như tiền sử ăn thức ăn sống, chưa chín, soi phân tìm trứng SLGL dưới kính hiển vi, khám lâm sàng, chỉ định siêu âm bụng tổng quát, xét nghiệm Western-blot, ELISA, đếm bạch cầu ái toan trong tổng số bạch cầu chung và thông số chức năng gan hỗ trợ;

Phát hiện ca bệnh thụ động (PCD_Passive case detection): Phát hiện thụ động ca bệnh, nhìn chung các bệnh nhân được phát hiện tại cơ sở y tế, có thể là bệnh viện từ tuyến trung ương đến tỉnh, huyện, xã, phòng khám tư nhân là phát hiện ca bệnh thụ động (PCD), bao gồm bệnh nhân có biểu hiện nghi ngờ sẽ tự đến khám bác sĩ và được phát hiện, chẩn đoán và điều trị bệnh. Cụ thể: bệnh do người dân có biểu hiện nghi ngờ và tự đến khám tại cơ sở y tế. Đa số trường hợp phát hiện trong hệ thống y tế công cộng là phát hiện thụ động. Hệ thống y tế giữ vai trò “thụ động” đợi bệnh nhân đến để chẩn đoán và điều trị, do vậy để phát hiện bệnh thụ động thành công thì cần khuyến khích tính “chủ động” của người dân. Phát hiện bệnh thụ động đóng góp nhiều vào nguồn thông tin bệnh tật và phụ thuộc chủ yếu vào hiểu biết của cộng đồng về dấu hiệu sớm của bệnh; nhận thức tầm quan trọng của việc đi khám bệnh, tầm soát; tại vùng bệnh lưu hành, người dân biết rõ sau khi nhiễm bệnh sẽ phát triển thành bệnh nhưng họ chỉ đi khám khi biểu hiện bệnh thì đã muộn; chính TTGDSK làm tăng hiệu quả công tác phát hiện bệnh thụ động. Người dân nghi ngờ nếu có một trong các biểu hiện cần đi khám ngay. Phát hiện bệnh thụ động chưa đủ trong phòng chống bệnh SLGL vì số liệu phát hiện thụ động thường chưa đủ để đánh giá hết mức độ vấn đề, thành công của nó phần lớn tùy thuộc vào các hoạt động truyền thông, khi tuyên truyền đến cơ sở y tế, một trong những yếu tố quyết định là việc chi trả của người dân, nhiều khi cán bộ y tế chưa có thái độ tích cực, chủ động.

Phát hiện ca bệnh chủ động (ACD_Active case detection): Phát hiện ca bệnh chủ động là nhân viên y tế tìm đến bệnh nhân, áp dụng cho những trường hợp đặc biệt như phát hiện chủ động, điều tra cộng đồng nhiễm, đánh giá về dịch tễ học bệnh SLGL. Y tế chủ động lập kế hoạch, tổ chức thực hiện bên ngoài cơ sở y tế. Mục tiêu của phát hiện bệnh chủ động là vùng tỷ lệ nhiễm bệnh cũng như nhận thức của bệnh thấp hoặc tỷ lệ nhiễm bệnh cao nhưng nhận thức bệnh thấp. Tại những vùng lưu hành nặng, trong giai đoạn đầu, phát hiện bệnh thụ động cần có phát hiện bệnh chủ động hỗ trợ. Phát hiện bệnh chủ động có những hoạt động sau: lập kế hoạch (vùng mục tiêu, cần phát hiện, dự kiến độ rộng của mục tiêu, chiến lược và các hoạt động cụ thể, dự kiến kinh phí, hậu cần cần thiết). Đội điều tra tùy thuộc vào cơ quan chủ trì, phối hợp và quy mô điều tra mà tổ chức đội điều tra phù hợp. Thực hiện điều tra và thu thập, xử lý số liệu, báo cáo kết quả. Các bước phát hiện bệnh chủ động: điều tra hàng loạt (xét nghiệm phân, siêu âm, huyết thanh chẩn đoán Western-blot, ELISA, chuyển tải thông tin về các biểu hiện bệnh cho cộng đồng, xác định và điều trị ca chẩn đoán xác định (confirmed case), xử lý số liệu và báo cáo.

So sánh ưu điểm/nhược điểm của phát hiện PCD và ACD

Đối với phát hiện ca bệnh thụ động (PCD): Ưu điểm: phát hiện bệnh thụ động có tính bền vững cao, nâng cao khả năng cho hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu (CSSKBĐ), ít tốn kém cho hệ thống y tế, khuyến khích sự tham gia của người dân và nâng cao nhận thức bệnh tật cho toàn cộng đồng. Nhược điểm: phát hiện bệnh thụ động phụ thuộc vào nhận thức bênh tật trong cộng đồng; chủ yếu phải dựa vào hệ thống CSSKBĐ mà không chỉ là những cán bộ tận tâm, việc thiếu trang bị thuốc men tại hệ thống CSSKBĐ sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến phát hiện bệnh thụ động, nếu vùng nhiễm nặng mà nhận thức của cộng đồng thấp thì nhiều bệnh nhân bị bỏ sót, không cung cấp số liệu dịch tễ.

Đối với phát hiện ca bệnh chủ động (ACD): Phát hiện bệnh chủ động phụ thuộc vào nguồn nhân lực sẵn có;chi phí cao cho đội điều tra,ít quan hệ với hệ thống CSSKBĐ;độ bền vững của ACD không cao.

Phòng chống thông qua quản lý tất cả ca bệnh

Biện pháp này nhằm giảm phơi nhiễm các gia súc với ấu trùng của sán.Phòng chống thông qua quản lý tốt được xem là có khả thi hơn biện pháp dùng thuốc và có lẽ nó là biện pháp thực hành tốt nhất cho cộng đồng vì họ không thể tiếp cận các thuốc đắt tiền. Việc chăn thả gia súc luân phiên theo nhóm tuổi gia súc, nâng cao dinh dưỡng và hệ thống chuồng trại tốt hơn là các biện pháp thông dụng nhất được áp dụng ở hầu hết các quốc gia hiện tại. Chăn thả gia súc luân phiên (Rotational grazing) thường áp dụng trong hệ thống sinh sản hiện đại, nhưng có hạn chế khi áp dụng tại tuyến xã. Chăn thả các con gia súc non và cha mẹ của chúng riêng rẽ sẽ giúp chúng không bị nhiễm ấu trùng và trứng sán lẫn nhau từ đồng cỏ ô nhiễm. Chăn thả gia súc thay thế (Alternative grazing) bởi các vật chủ khác nhau dựa vào mức độ lây nhiễm chéo. Việc thay đổi chăn thả loại gia súc khác nhau được thực hiện ở Nam Phi, Zimbawe, Kenya. Điều này có thể có thể giảm các loại giun sán, nhưng có thể không đầy đủ. Giảm tỷ lệ gia súc bị nhiễm trứng sán hoặc ấu trùng bằng cách giảm gia súc nhiễm sán. Sử dụng thức ăn cho gia súc không có nhiễm sán, hệ thống nhà có nền bằng dát gỗ và tăng cường nuôi dưỡng nhằm hạn chế nhiễm bệnh cho gia súc.

Phòng chống bằng cách đề kháng gây giống

Biện pháp này dựa trên cơ chế đề kháng di truyền của các con vật gây giống với sự nhiễm giun sán. Sự đề kháng của gây giống nội sinh của dê và cừu so với cơ chế ngoại sinh. Gây giống cho các chủng đề kháng có thể mở ra một chiến lược lâu dài cho phòng chống giun sán. Hiện nay, biện pháp này không được sử dụng rộng rãi ở vùng sa mạc Sahara, châu Phi nhưng nó vẫn có tiềm năng lớn bởi biện pháp có những lợi điểm đáng thuyết phục mọi người.

Phòng chống bằng miễn dịch tiêm chủng vaccine

Chủng ngừa một loại vaccine phòng chống bệnh giun sán dựa trên nguyên tắc kích thích đáp ứng miễn dịch có thể tồn tại sau khi nhiễm bệnh. Kết quả chỉ ra cho thấy việc chủng ngừa ở cừu trưởng thành với chiếu xạ. Kết quả vẫn còn đang trong giai đoạn thử nghiệm. Một nghiên cứu mới được công bố bởi các nhà khoa học Viện Nghiên cứu y khoa Queensland, Úc. Alex Loukas và cộng sự đang điều chế vaccine chống lại sán. Cơ chế bảo vệ của vaccine hoạt động thông qua kích thích hệ thống miễn dịch cơ thể, hình thành cơ chế bảo vệ và chống lại sán. Thử nghiệm ban đầu cho thấy vaccine làm giảm tỷ lệ nhiễm bệnh sán lá trên 60%. Alex Loukas cho biết vaccine có thể cứu sống hàng ngàn người vì đây là giải pháp thực tế hơn là liệu pháp điều trị đặc hiệu như hiện nay, nghĩa là phòng bệnh hơn chữa bệnh. Các nhà nghiên cứu coh rằng có những loại thuốc có thể tiêu diệt tận gốc sán song nếu còn nhiễm thì người đó phải dùng thuốc suốt đời, còn vaccine có thể bảo vệ cho họ trong 5-10 năm thay vì người đó sẽ phải điều trị trong vài lần trong năm. Hiện vaccine này đang được thử nghiệm trên động vật và đang chờ quỹ tài trợ để thử nghiệm trên con người. Động vật và người bị nhiễm SLGL được điều trị với thuốc đặc hiệu TCBZ Tiếc thay, vũ khí lợi hại này đang đối mặt với tình hình gia tăng kháng thuốc với TCBZ. Trong tình hình thiếu một loại thuốc mới để kiểm soát kháng thuốc và tìm giải pháp thuốc thay thế nhằm tránh đề kháng là việc cấp thiết. Do vậy, một chiến lược mới đầy hứa hẹn chống lại SLGL là hoạt động chủng ngừa, song để một vaccine đạt được sự chọn lựa nhất là phải có đặc tính an toàn, không gây hại cho môi trường và được sự chấp nhận người tiêu dùng, đặc biệt vaccine đó không có lượng tồn dư về hoá chất trong thịt cũng như trong sữa con vật sau khi được tiêm. Sản phẩm vaccine thông minh mới này nhằm hạn chế sự tấn công của sán vào gan vật chủ trước khi chúng có cơ hội gây các tổn thương đáng kể.

Nguyên tắc cơ bản của vaccine là con vật đó được tiêm vaccine (thường là một sản phẩm từ thể nhiễm được giảm độc lực hoặc chết). Điều này sẽ tạo ra đáp ứng miễn dịch, cho phép vật chủ nhận ra và khống chế các đợt tấn công của sán. Việc điều chế vaccine cho sán khó gấp trăm ngàn lần so với chế vaccine chống lại virus bởi hai lý do: (i) Một là bất kỳ một loài ký sinh trùng đơn giản nào chăng nữa cũng có mức độ gen di truyền phức tạp gấp 12.000 lần loài virus điển hình; (ii) Hai là về chu kỳ sinh học của nó rất đa dạng lẫn cấu trúc và giai đoạn phải trải qua nhiều vật chủ trung gian suốt quá trình phát triển. Chính vì lẽ đó, quy trình để tạo ra một loại vaccine tấn công vào đích đặc hiệu của SLGL là khó. Nên chiến lược mới ở đây đòi hỏi khắc phục những trở ngại trên, với mục đích rằng “vaccine thông minh” khống chế trên động vật được tiêm chủng, với nguồn năng lượng của SLGL và bắtchúng dừng lại các chu chuyển phát triển đang dang dở. Để đạt được điều này, họ đã nghiên cứu làm thế nào biết được rõ bản chất các enzym của SLGL đã giúp cho sán xâm nhập vào vật chủ để chống lại sán. Kết quả bước đầu mang lại đầy hứa hẹn hơn họ tưởng, vaccine đã bảo vệ chống lại sán cho các vật chủ, giúp vật chủ giảm đến 66% tình trạng nhiễm cũng như số lượng sán so với nhóm không dùng vaccine. Những công trình nghiên cứu tiếp theo nhằm tối ưu hoá về phân phối vaccine và chỉ định đường dùng vaccine. Nếu thử nghiệm thành công, vaccine mang lại cho các trang trại chăn nuôi gia súc một biện pháp mới trong phòng chống SLGL trên gia súc, được lợi về nhiều mặt cả hiệu quả, trong sạch môi trường và thúc đẩy lợi nhuận về chăn nuôi.

Nghiên cứu vaccine tái tổ hợp (recombinant vaccine) chống lại bệnh SLGL cho vật nuôi trong nông nghiệp của Viện công nghệ sinh học Ireland cũng cho biết thuốc đặc hiệu TCBZ - thuốc duy nhất hiện nay điều trị bệnh SLGL đang có một tỷ lệ kháng lan rộng, không chỉ ở Ireland mà còn ở Hà Lan và Úc, trong khi các biện pháp phòng bệnh không toàn diện. Từ đó, hướng mở ra là làm thế nào chế ra một loại vaccine ngăn ngừa cả giai đoạn cấp và mạn tính. Kết quả thử nghiệm lâm sàng bước đầu cho nhiều hứa hẹn. Liên quan đến Cathepsin L proteinase, một loại vaccine chống lại F. hepatica ở động vật do nhóm nghiên cứu tiến hành, cho một loại vaccine chống lại SLGL là tối ưu nếu nó rất có ích cho môi trường và được sự chấp nhận người tiêu dùng, mang lại lơinhuận kinh tế gia súc. Cathepsin L proteases bao gồm Fhe CL 1 và Fhe CL 2, được sán tiết ra ở tất cả các giai đoạn phát triển của chúng trong động vật có vú, chất này đóng vai trò quan trọng trong cơ chế hỗ trợ sán di chuyển, hủy cấu trúc mô, xâm nhập tạo ra miễn dịch. Các tác giả cân nhắc về các đích (target) đầu tiên cho điều chế vaccine. Qua nghiên cứu vaccine trên gia súc và cừu, kết quả cho thấy mức độ bảo vệ đạt đến 72-79%, có thể thu được sự miễn nhiễm do sử dụng loại vaccine chiết từ cathepsin Ls. Loại vaccine này cũng cho thấy một hiệu quả rất cao về chống khả năng tạo phôi thai và sinh sản trên sán, nên chúng tác động lớn lên sự lan truyền bệnh đối với vật chủ trung gian. Trong khi sự nhiễm trùng tự nhiên ở cừu và gia súc tạo ra một đáp ứng miễn dịch Th2 không thể bảo vệ, thì nghiên cứu này chỉ ra sự bảo vệ sẽ giảm nếu tiêm chủng liên quan đến chỉ các yếu tố đáp ứng Th1.

Một nghiên cứu khác liên quan đến Glutathione S-transferase (GST) để chống lại sán F. hepatica ở cừu do nhóm Sexton và cộng sự thuộc Viện nghiên cứu thú y Attwood, Úc. Tiềm năng của GST được xem như một ứng cử viên vaccine chống lại sán ở động vật như cừu, loại GST tinh khiết chiết từ sán trưởng thành F. hepatica và 500 nang trùng metacercariae của F. hepatica. Chủng ngừa miễn dịch tạo ra một lượng lớn kháng thể đối với đáp ứng GST, ngược lại nó đáp ứng rất thấp với kháng nguyên hoặc mức đáp ứng không thể phát hiện được đối với kháng nguyên này khi quan sát trên cừu bị nhiễm. Trong suốt quá trình thử nghiệm, nhiễm sán được giám sát bằng cách đo nồng độ Hb trong hồng cầu, mức tổn thương gan và thải trứng ra phân của cừu. Kết quả phân tích chỉ ra có một tỷ lệ nhỏ số con được chủng ngừa vaccine không có thiếu máu, giảm tổn thương gan và số lượng trứng/ phân trung bình thải ra ít hơn so với nhóm chứng và đặc biệt số lượng sán nhiễm vào cơ thể cũng thấp hơn. Lượng sán trong gan ở nhóm chủng vaccine GST (107 ± 22) là 57% thấp hơn so với nhóm chứng bị nhiễm mà không tiêm vaccine (250 ± 25). Tất cả 4/9 ca trong nhóm tiêm vaccine GST cho thấy giảm 78% lượng sán so với nhóm chứng. Những kết quả này cho thấy GST của F. hepatica trưởng thành là một kháng nguyên mới có thể giúp bảo vệ cừu đặc hiệu chống lại sán. Kết quả chỉ ra đáp ứng miễn dịch đối với GST là trực tiếp tới việc làm giảm lượng sán non.

Thường quy quản lý và giám sát ca bệnh

Giải thích thuật ngữ

-Các bệnh lây truyền từ động vật sang người, bao gồm cả bệnh sán lá gan lớn;

-Tiếp cận hội chứng: là phát hiện, chẩn đoán, điều trị, tư vấn, quản lý người bệnh dựa vào hội chứng. Tiếp cận hội chứng không dựa trên cơ sở của các chẩn đoán căn nguyên mà chỉ dựa vào dấu chứng và triệu chứng;

-Báo cáo ca bệnh: là báo cáo các trường hợp mắc bệnh được khám, phát hiện, chẩn đoán trong các cơ sở y tế nhà nước và tư nhân (phát hiện tại cộng đồng?);

-Các tỉnh giám sát bệnh trọng điểm: là các tỉnh được chọn tham gia chương trình giám sát các bệnh truyền nhiễm, trong đó có bệnh SLGL;

-Giám sát bệnh: là quá trình thu thập liên tục và có hệ thống các yếu tố về sự phân bố và chiều hướng của bệnh nhằm cung cấp thông tin cho việc lập kế hoạch, dự phòng, khống chế và đánh giá hiệu quả các biện pháp can thiệp;

-Giám sát trọng điểm bệnh SLGL: là sự thu thập liên tục có hệ thống và liên tục các số liệu về sự phân bố và chều hướng của bệnh trong các nhóm dân/ cộng đồng có nguy cơ khác nhau (quần thể trọng điểm) nhằm cung cấp thông tin cho việc lập kế hoạch dự phòng, kiểm soát và đánh giá hiệu quả các biện pháp can thiệp ở một số nơi đã lựa chọn.

Mục tiêu xét nghiệm, phương pháp thu thập mẫu bệnh phẩm SLGL

Mục tiêu xét nghiệm: Phát hiện, chẩn đoán bệnh sớm và kịp thời; sàng lọc bệnh trong cộng đồng; tìm trường hợp bệnh qua thăm khám và xét nghiệm; chỉ định thuốc điều trị và theo dõi kết quả điều trị bệnh; giám sát bệnh và giám sát trọng điểm bệnh SLGL; phục vụ mục đích nghiên cứu khoa học.

Nguyên tắc thu thập mẫu: Mẫu bệnh phẩm cần xét nghiệm được lấy và ghi rõ mã số (code) và các thủ tục, thông tin hành chính cần thiết, để phân vùng dịch tễ rõ ràng sau đó; mẫu xét nghiệm theo quy định: các mẫu bệnh phẩm máu, phân, dịch sinh học khác (dịch tá tràng, mật) của cơ thể phải được xét nghiệm, phát hiện, chẩn đoán.

Giám sát trọng điểm bệnh sán lá gan lớn:

Mục tiêu giám sát trọng điểm: Báo các trường hợp bệnh; xác định tỷ lệ bệnh, phân bố bệnh SLGL trong nhóm dân điều tra và cộng đồng; theo dõi chiều hướng, tỷ lệ mắc bệnh theo thời gian; xác định nhóm nguy cơ nhiễm trùng để đề ra các biện pháp can thiệp thích hợp; đánh giá nguyên nhân, hội chứng (nếu có thể); dự báo tình hình nhiễm SLGL để có kế hoạch phòng chống hiệu quả; giám sát kháng thuốc, nhất là thuốc đặc hiệu triclabendazole.

Giám sát trọng điểm bệnh SLGL: Bệnh cần được giám sát cùng với SLGL: một số bệnh giun truyền qua đất thường gặp và phổ biến; bệnh ấu trùng ngõ cụt ký sinh và ký sinh trùng cơ hội (ấu trùng giun lươn S. stercoralis, giun đầu gai G. spinigerum, giun đũa chó, mèo T. canis hoặc T. cati;bệnh sán lá truyền qua thức ăn (sán lá gan nhỏ O. viverrini, C. sinensis, hoặc sán lá ruột lớn F. buski (hoặc loài khác) và sán lá ruột nhỏ H. taichui (hoặc loài khác), hoặc sán lá phổi P. westermani (hoặc loài khác).

-Quần thể trọng điểm cần giám sát, địa điểm lấy mẫu và cỡ mẫu sàng lọc cũng nên lưu ý để đảm bảo tính khoa học, tiết kiệm và hiệu quả nhiều mặt:

TT

Nhóm

quần thể

Địa điểm lấy mẫu

Cỡ mẫu

1

Bệnh nhân

Viện, bệnh viện, phòng khám ĐKKV, hệ thống YDTN, Bệnh viện Bệnh nhiệt đới, phòng khám chuyên khoa.

200

2

Nhóm nguy cơ

Viện, bệnh viện, phòng khám ĐKKV, hệ thống YDTN, Bệnh viện Bệnh nhiệt đới, phòng khám chuyên khoa, các vùng trọng điểm

200

3

Vùng nguy cơ

Bệnh viện, phòng khám đa khoa khu vực, y dược tư nhân, khoa truyền nhiễm, phòng khám chuyên khoa,..

300

4

Vùng dịch tễ

Thực địa, tỉnh trọng điểm có bệnh SLGL

500

5

Cộng đồng

Cộng đồng và thực địa của vùng lưu hành bệnh SLGL

500

Cỡ mẫu trên mang tính tham khảo và cần có tính toán khoa học tùy thuộc mục đích lấy mẫu để làm gì?

 

-Thu thập mẫu

+Các nhóm quần thể giám sát trọng điểm đều lấy mẫu theo các nguyên tắc chung và cẩn thận trong quy trình lấy mẫu;

+Lấy mẫu theo phương pháp liên tục hệ thống hoặc phương pháp kỹ thuật khác tùy thuộc vào mục đích của lấy mẫu.

-Thời gian lấy mẫu

+Hàng năm lấy mẫu làm nhiều đợt, lấy đủ cỡ mẫu quy định. Thời gian lấy mẫu bắt đầu từ tháng 1, tháng 4, tháng 7 và tháng 10 (có thể lấy mẫu lặp lại);

+Không loại bỏ các mẫu đã biết rõ tình hình xét nghiệm trước đó.

-Kỹ thuật xét nghiệm và các thủ thuật cận lâm sàng khác: Soi phân phát hiện trứng sán trong phân; Siêu âm bụng tổng quát phát hiện các thương tổn trong hệ gan-mật; Xét nghiệm huyết thanh miễn dịch ELISA hoặc Western blot (nếu có).

Chế độ báo cáo ca bệnh

Mục tiêu của báo cáo ca bệnh: Đánh giá tỷ lệ mắc mới tối thiểu bệnh SLGL nói riêng và các bệnh giun, sán khác. Góp phần theo dõi chiều hướng phát triển của các bệnh, đặc biệt là bệnh SLGL; Cung cấp thông tin cho việc điều trị. Cung cấp dữ liệu cho việc quản lý các dịch vụ y tế công cộng và ngoài công lập.

Báo cáo các trường hợp theo hội chứng: Hội chứng bệnh do SLGL; Hội chứng bệnh kèm theo của bệnh SLGL.

Giám sát kháng thuốc điều trị đặc hiệu: Giám sát nhạy cảm của SLGL đối với thuốc điều trị đặc hiệu TCBZ bằng các phương pháp hiện đại như quan sát dưới kính hiển vi điện tử quét (SEM_Scanning Electron Microscopy) nhằm xem sự thay đổi cấu trúc vi ống và thay đổi giải phẩu bệnh của sán khi thuốc tác động theo thời gian. Tiếp tục giám sát đề kháng thuốc để đề xuất phác đồ chống kháng hợp lý.

Tổ chức thực hiện báo cáo: hàng năm theo kế hoạch/chỉ tiêu đã được thống nhất giữa các Viện Sốt rét-KST-CT và các địa phương và Bộ Y tế thông qua bệnh viện, TTYTDP/Trung tâm PCSR các tỉnh, thành phố trực thuộc chịu trách nhiệm điều phối, tổ chức thực hiện giám sát trọng điểm, xét nghiệm phát hiện và giám sát kháng thuốc dưới sự chỉ đạo của các Viện chuyên ngành quản lý, bao gồm các hoạt động: Lập kế hoạch chi tiết trình lên Sở Y tế và Viện chuyên ngành phê duyệt (kế hoạch nhân sự, sinh phẩm, kinh phí, thời gian); Tổ chức họp dưới sự chủ trì của Viện, Sở Y tế, giao chỉ tiêu cho các cơ quan phối hợp để triển khai phòng chống SLGL; Tổ chức tập huấn cho các cán bộ trực tiếp và các cán bộ phối hợp tham gia vào chương trình giám sát bệnh SLGL; Điều phối tổ chức, kiểm tra thực hiện, rút kinh nghiệm; Lập ra Tiểu ban Phòng chống bệnh SLGL là cần thiết, đồng thời có thể phối hợp với cơ quan thú y khi triển khai.

Hệ thống báo cáo số liệu: Trung tâm YTDP/PCSR tỉnh, Sở Y tế và các bệnh viện có bệnh nhân SLGL nhập viện và điều trị, chịu trách nhiệm thu thập, tổng hợp báo cáo kết quả giám sát trọng điểm, báo cáo ca bệnh, báo cáo các hội chứng theo sơ đồ hệ thống báo cáo số liệu đính kèm. Thời gian báo cáo tùy theo quy định các Viện Sốt rét-KST-CT. Xét nghiệm sàng lọc, phát hiện, chẩn đoán và báo cáo ca bệnh; giám sát trọng điểm và báo cáo ca bệnh cho các Viện và các Viện có nhiệm vụ báo cáo Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế.

Ứng phó của WHO

WHO làm việc với bệnh sán lá truyền qua thức ăn như một phần tiếp cận lồng ghép phòng chống các bệnh nhiệt đới bị lãng quên bao gồmphát triển các định hướng chiến lược và khuyến cáo phù hợp; hỗ trợ xây dựng bản đồ lưu hành bệnh ở các quốc gia; hỗ trợ các chương trình phòng chống và nghiên cứu can thiệp thí điểm tại các quốc gia lưu hành bệnh; hỗ trợ giám sát và đánh giá các hoạt động đã triển khai; trình bày gánh nặng bệnh sán lá truyền qua thức ăn và tác động của các biện pháp can thiệp. WHO thúc đẩy đưa các bệnh sán lá truyền qua thức phẩm nằm trong số các mục tiêu can thiệp hóa dự phòng, nhằm đảm bảo rằng các hậu quả xấu không còn hoặc giảm đến mức tối thiểu (ung thư đường mật hay các hậu quả khác). TCYTTG đã thương lượng với tập đoàn dược phẩm Novartis Pharma AG cung cấp thuốc hiệu quả triclabendazole để điều trị sán lá gan lớn và sán lá phổi. Thuốc được chuyển đến các Bộ Y tế miễn phí. Trong năm 2015, khoảng 600.000 cá nhân được nhận thuốc điều trị các bệnh này trên toàn cầu. Các chương trình lớn nhất phòng chống bệnh sán lá này hiện nay đáng quan tâm nhất là Bolivia, Campuchia, Peru và Việt Nam.

Một số vấn đề còn bỏ ngỏ trong nghiên cứu bệnh SLGL ở người

Dịch tễ học huyết thanh (sero-epidemiology) tại một số tỉnh có số ca mắc cao miền Trung-Tây Nguyên cũng như cả nước chưa dược điều tra toàn diện và quy mô, nhất là các địa phương có chăn thả gia súc phổ biến. Phân vùng dịch tễ học bệnh sán lá gan cần điều chỉnh và bổ sung vì phiên bản trước đây không còn phù hợp khi có Hướng dẫn chẩn đoán ca bệnh của WHO ra đời thay đổi về định nghĩa ca bệnh (WHO, 2007). Đánh giá dịch tễ học bệnh SLGL đồng thời với bệnh SLGL tại một số vùng, nơi mà có sự hiện diện đồng thời đủ các vật chủ (cừu, trâu, bò, dê, người) như tỉnh Ninh Thuận chẳng hạn là điểm thú vị. Ngoài gía thể truyền bệnh trên các rau thủy sinh thì còn các giá thể nào khác giúp cho lan truyền bệnh quy mô rộng hơn như trước đây một số quốc gia vùng Trung Đông mô tả? Hướng nghiên cứu phối hợp y tế - thú y trong phòng chống SLGL cả gia súc và người (sentinel site) à nhân rộng mô hình. Vì tất cả nghiên cứu về SLGL ở người đều ghi nhận nữ giới mắc nhiều hơn nam giới gấp nhiều lần, song lý giải và chứng minh vẫn chưa có bằng chứng thuyết phục. Do vậy, cần phân tích về kháng nguyên bạch cầu người (HLA_Human Leucocyte Antigens) ở các nhóm nhiễm xem liệu có sự khác biệt ý nghĩa không. Một số bộ chẩn đoán huyết thanh miễn dịch hiện nay vẫn còn nhược điểm dương tính giả hoặc âm tính giả, do vậy cần xây dựng bộ chẩn đoán sán F. gigantica bằng phương pháp Outchterlony immunodiffusion test để phát hiện Ag/Ab đặc hiệu hơn. Nghiên cứu giải trình tự bộ gen trên cơ ở phân tích ở bộ gen nhân và hệ gen ty thể của sán F. gigantica ở người và so sánh hệ thống Genbank về các loài Fasciola sp. ở các quốc gia và lãnh thổ khác. Liên quan giữa tổn thương áp xe nhu mô gan do F. gigantica trên hai nhóm gan bình thường và gan nhiễm mỡ về quá trình phục hồi thương tổn chưa được đánh giá. Đánh giá tính giảm nhạy và kháng thuốc TCBZ do sán F. gigantica. Thử nghiệm can thiệp chống kháng bằng phác đồ TCBZ phối hợp với thuốc khác như một số ca bệnh đã trình bày? 

Ngày 13/07/2016
TS.BS. Huỳnh Hồng Quang  

THÔNG BÁO

   Dịch vụ khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn khám bệnh tất cả các ngày trong tuần (kể cả thứ 7 và chủ nhật)

   THÔNG BÁO: Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn xin trân trọng thông báo thời gian mở cửa hoạt động trở lại vào ngày 20/10/2021.


Tin đáng chú ý
Thông điệp về Ngày Sốt rét thế giới 25-4 (World Malaria Day)
Ngày Sốt rét thế giới-Ngày Chăm sóc sức khỏe toàn cầu (World malaria day – A day to make the world care)
 LOẠI HÌNH DỊCH VỤ
 CHUYÊN ĐỀ
 PHẦN MỀM LIÊN KẾT
 CÁC VẤN ĐỀ QUAN TÂM
 QUẢNG CÁO

Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005
Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.
Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464
Email: impequynhon.org.vn@gmail.com
Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng
Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích