Home TRANG CHỦ Thứ 6, ngày 19/04/2024
    Hỏi đáp   Diễn đàn   Sơ đồ site     Liên hệ     English
IMPE-QN
Web Sites & Commerce Giới thiệu
Finance & Retail Tin tức - Sự kiện
Trong nước
Quốc tế
Tin hoạt động của Viện
Tin vắn đáng chú ý
Điểm tin y tế
Ngày Sốt rét thế giới 25 tháng 4 (World Malaria Day)
Web Sites & Commerce Hoạt động hợp tác
Web Sites & Commerce Hoạt động đào tạo
Web Sites & Commerce Chuyên đề
Web Sites & Commerce Tư vấn sức khỏe
Web Sites & Commerce Tạp chí-Ấn phẩm
Web Sites & Commerce Thư viện điện tử
Web Sites & Commerce Hoạt động Đảng & Đoàn thể
Web Sites & Commerce Bạn trẻ
Web Sites & Commerce Văn bản pháp quy
Số liệu thống kê
Web Sites & Commerce An toàn thực phẩm & hóa chất
Web Sites & Commerce Thầy thuốc và Danh nhân
Web Sites & Commerce Ngành Y-Vinh dự và trách nhiệm
Web Sites & Commerce Trung tâm dịch vụ
Web Sites & Commerce Thông báo-Công khai
Web Sites & Commerce Góc thư giản

Tìm kiếm

Đăng nhập
Tên truy cập
Mật khẩu

WEBLINKS
Website liên kết khác
 
 
Số lượt truy cập:
5 2 4 6 4 7 8 8
Số người đang truy cập
2 6 6
 Tin tức - Sự kiện Trong nước
Chủ động ngăn chặn bệnh tay chân miệng bùng phát

Hiện nay một số địa phương bệnh tay chân miệng ở trẻ em phát triển vào các thời điểm thuận lợi trong năm; chúng có khả năng lây lan nhanh, bùng phát thành dịch với nhiều trẻ bị mắc bệnh dẫn đến những hậu quả biến chứng khó lường. Vì vậy cần chủ động thực hiện các biện pháp phòng bệnh cụ thể để ngăn chặn, bảo vệ sức khỏe cho trẻ.


Phòng ngừa bệnh tay chân miệng bằng biện pháp thường rửa tay sạch cho trẻ (ảnh minh họa)

Đặc điểm bệnh tay chân miệng

Các nhà khoa học xác định bệnh tay chân miệng là một bệnh truyền nhiễm donhiễm loại vi-rút đường ruột với hai nhóm tác nhân gây bệnh thường gặp có tên Coxsakie virus A16 và Eterovirus 71; chúng có khả năng lây lan mầm bệnh từ người sang người một cách dễ dàng và dẫn đến nguy cơ bùng phát dịch. Chủ yếu bệnh lây nhiễm qua đường tiêu hóa và nguồn lây lan chính từ nước bọt, chất dịch của các nốt phỏng nước ở da và phân thải của trẻ bị nhiễm bệnh. Bệnh thường xuất hiện rải rác quanh năm ở hầu hết các địa phương, hàng năm tại các tỉnh phía nam chúng có khả năng phát triển tăng cao vào hai thời điểm từ tháng 3 đến tháng 5 và từ tháng 9 đến tháng 12. Bệnh nhân có thể gặp ở mọi lứa tuổi nhưng thường gặp ở trẻ em dưới 5 tuổi, đặc biệt tập trung nhiều ở trẻ dưới 3 tuổi. Các điều kiện và yếu tố sinh hoạt tập thể như cho trẻ đi học tại nhà trẻ, mẫu giáo, đến những nơi trẻ vui chơi tập trung sẽ tạo nên nguy cơ lây nhiễm bệnh; nhất là trong các thời điểm bệnh bùng phát.

Biểu hiện triệu chứng lâm sàng chính của bệnh là làm tổn thương da, niêm mạc dưới dạng các nốt phỏng nước ở những vị trí đặc biệt như niêm mạc miệng, lòng bàn tay, lòng bàn chân, mông, đầu gối. Bệnh có thể gây nên nhiều biến chứng nguy hiểm như viêm não-màng não, viêm cơ tim, phù phổi cấp với nguy cơ tử vong nếu không được phát hiện, chẩn đoán xác định bệnh sớm và xử trí điều trị kịp thời. Trên thực tế, các trường hợp bị biến chứng nặng thường do loại Enterovirus 71 gây ra.

Chẩn đoán xác định bệnh

Sau thời gian ủ bệnh từ 3 đến 7 ngày, bệnh khởi phát khoảng 1 đến 2 ngày với các triệu chứng lâm sàng như sốt nhẹ, mệt mỏi, đau họng, biếng ăn, đi tiêu chảy vài lần trong ngày. Khi đã phát bệnh rõ, dấu hiệu lâm sàng có thể kéo dài từ 3 đến 10 ngày với các triệu chứng điển hình như: Loét miệng, vết loét đỏ, có nốt phỏng nước đường kính 2-3 mm ở niêm mạc miệng, lợi răng, lưỡi; gây đau miệng, bỏ ăn, bỏ bú, tăng tiết nước bọt. Xuất hiện phát ban dạng bỏng nước ở lòng bàn tay, lòng bàn chân, đầu gối, mông; nốt phỏng nước này tồn tại trong khoảng thời gian ngắn dưới 7 ngày và sau đó có thể để lại vết thâm, rất ít khi bị loét hay bội nhiễm. Trẻ bị sốt nhẹ, nôn; nếu sốt cao và nôn nhiều dễ có nguy cơ bị biến chứng nặng. Biến chứng thần kinh, tim mạch, hô hấp nếu xảy ra thường xuất hiện sớm từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 5 của bệnh. Bệnh có thể thoái lui thường từ 3-5 ngày sau đó, trẻ được phục hồi sức khỏe hoàn toàn nếu không có biến chứng xảy ra.

Bệnh cảnh lâm sàng của bệnh tay chân miệng được thể hiện với các thể khác nhau. Thể tối cấp diễn tiến bệnh rất nhanh, có biểu hiện sớm các biến chứng nặng như suy tuần hoàn, suy hô hấp, hôn mê dẫn đến tử vong trong vòng từ 24 đến 48 giờ. Thể cấp tính có diễn biến lâm sàng qua các giai đoạn điển hình ủ bệnh, khởi phát, toàn phát, lui bệnh như đã nêu ở trên. Thể không điển hình có dấu hiệu phát ban không rõ ràng, chỉ có vết loét ở miệng hoặc có triệu chứng thần kinh, tim mạch, hô hấp nhưng không có triệu chứng phát ban và loét miệng. Ngoài triệu chứng lâm sàng được phát hiện, để chẩn đoán xác định cụ thể bệnh tay chân miệng cần thực hiện các xét nghiệm cận lâm sàng cần thiết như: Xét nghiệm cơ bản công thức máu, protein C, đường huyết, điện giải đồ, chụp phim phổi. Xét nghiệm theo dõi biến chứng gồm khí máu, siêu âm tim, dịch não tủy. Xét nghiệm phát hiện vi-rút bằng kỹ thuật RT-PCR (real-time polymerase chain reaction: phản ứng chuỗi đồng phân hóa sao chép ngược) hoặc phân lập có vi-rút gây bệnh. Chụp cộng hưởng từ não khi có điều kiện và cần thiết để chẩn đoán phân biệt bệnh lý ngoại thần kinh.

Tóm lại, việc chẩn đoán bệnh tay chân miệng theo ca bệnh lâm sàng dựa vào triệu chứng lâm sàng và dịch tễ học; yếu tố dịch tễ căn cứ vào tuổi, mùa, vùng lưu hành bệnh, số trẻ mắc bệnh trong cùng một thời gian; triệu chứng lâm sàng căn cứ vào dấu hiệu có các nốt phỏng nước điển hình ở miệng, lòng bàn tay, lòng bàn chân, đầu gối, mông kèm theo sốt hoặc không sốt. Việc chẩn đoán xác định cần thực hiện xét nghiệm RT-PCR hoặc phân lập có vi-rút gây bệnh. Tuy vậy trên lâm sàng cũng cần chẩn đoán phân biệt với các bệnh có biểu hiện loét miệng, các bệnh có phát ban da, viêm não-màng não, nhiễm trùng huyết, sốc nhiễm khuẩn, viêm phổi... để tránh nhầm lẫn.

Xử trí điều trị bước đầu và theo dõi biến chứng

Hiện nay bệnh tay chân miệng chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, vì vậy việc can thiệp chỉ tập trung vào điều trị hỗ trợ nhưng chú ý không nên sử dụng kháng sinh khi không có tình trạng bội nhiễm. Trong quá trình điều trị, cần theo dõi sát lâm sàng để phát hiện sớm các biến chứng và xử trí kịp thời; bảo đảm dinh dưỡng đầy đủ và nâng cao thể trạng. Nếu bệnh tay chân miệng ở mức độ nhẹ, có thể điều trị ngoại trú và được y tế cơ sởtheo dõi. Cho trẻ dinh dưỡng đầy đủ theo nhóm tuổi, đối với trẻ còn bú cần tiếp tục cho bú mẹ. Sử dụng thuốc hạ sốt khi trẻ bị sốt cao bằng paracetamol với liều 10 mg/kg cân nặng cho mỗi lần uống và dùng lại sau mỗi 6 giờ khi vẫn còn sốt. Vệ sinh răng miệng, cho trẻ nghỉ ngơi và tránh kích thích. Lưu ý cho trẻ tái khám sau 1-2 ngày điều trị ngoại trú và trong 8-10 ngày đầu của bệnh. Trường hợp trẻ có sốt phải tái khám mỗi ngày cho đến khi hết sốt ít nhất trong 48 giờ. Trong quá trình theo dõi, cần cho trẻ tái khám ngay khi phát hiện có dấu hiệu bệnh lý nặng hơn như: sốt cao từ 39oC trở lên, thở nhanh, khó thở, giật mình, lừ đừ, run rẩy chi, quấy khóc, bức rứt, khó ngủ, nôn nhiều, đi loạng choạng, da nổi vân tím, vã mồ hôi, tay chân lạnh, co giật, hôn mê. Trường hợp nặng phải cho trẻ nhập viện để điều trị nội trú, kịp thời xử trí các biến chứng trầm trọng có thể xảy ra nhằm hạn chế tử vong.

Biến chứng nặng của bệnh thường gặp là biến chứng thần kinh, biến chứng tim mạch và hô hấp. Biến chứng thần kinh biểu hiện bệnh lý viêm não, viêm thân não, viêm não tủy, viêm màng não với các dấu hiệu như: rung giật cơ còn gọi là giật mình chới với xảy ra từng cơn ngắn từ 1-2 giây, chủ yếu ở tay và chân, dễ xuất hiện khi bắt đầu giấc ngủ hay khi cho trẻ nằm ngữa; ngủ gà, bứt rứt, chới với, đi loạng choạng, run chi, mắt nhìn ngược; rung giật nhãn cầu; yếu, liệt chi loại liệt mềm cấp tính; liệt dây thần kinh sọ não; lưu ý co giật, hôn mê là dấu hiệu trầm trọng và thường đi kèm với suy hô hấp, tuần hoàn; có dấu hiệu tăng trương lực cơ biểu hiện duỗi cứng mất não, gồng chứng mất vỏ. Biến chứng tim mạch, hô hấp biểu hiện bệnh lý viêm cơ tim, phù phổi cấp, tăng huyết áp, suy tim, trụy mạch với các dấu hiệu như: mạch nhanh trên 150 lần/phút; thời gian đổ đầy mao mạch chậm trên 2 giây; da nổi vân tím, vã mồ hôi, chi lạnh, các biểu hiện rối loạn vận mạch có thể chỉ khu trú tại một vùng cơ thể như 1 tay, 1 chân...; giai đoạn đầu có huyết áp tăng với huyết áp tâm thu ở trẻ dưới 1 tuổi từ 110 mmHg trở lên, trẻ từ 1-2 tuổi từ 115 mmHg trở lên, trẻ trên 2 tuổi từ 120 mmHg trở lên và qua giai đoạn sau thì mạch, huyết áp không đo được; khó thở với triệu chứng thở nhanh, rút lõm lồng ngực, thở khò khè, thở rít thanh quản, thở nông, thở bụng, thở không đều; phù phổi cấp với triệu chứng sùi bọt hồng, khó thở, tím tái, phổi có nhiều ran ẩm, nội khí quản có máu hay bọt màu hồng.

 

Bệnh tay chân miệng có dấu hiệu nặng phải cho trẻ nhập viện để điều trị nội trú (ảnh minh họa) 

Biện pháp phòng bệnh tay chân miệng

Hiện nay bệnh tay chân miệng chưa có vắc-xin phòng bệnh nên biện pháp phòng ngừa nhiễm bệnh tốt nhất vẫn là áp dụng biện pháp phòng ngừa chuẩn và phòng ngừa đối với các bệnh lây nhiễm qua đường tiêu hóa; đặc biệt là lưu ý hạn chế sự tiếp xúc trực tiếp với nguồn lây. Việc phòng bệnh muốn có hiệu quả cần thực hiện một cách nghiêm túc các biện pháp quy định tại các cơ sở y tế và tại cộng đồng.

Tại các cơ sở y tế, phải cách ly bệnh nhân theo nhóm bệnh; nhân viên y tế phải mang khẩu trang, rửa tay, sát khuẩn tay trước và sau khi chăm sóc người bệnh. Cần khử khuẩn bề mặt, giường bệnh, buồng bệnh bằng chloramin B 2%; chú ý khử khuẩn các ghế ngồi của người bệnh và thân nhân đi kèm tại khu khám bệnh. Xử lý chất thải, quần áo, khăn trải giường của người bệnh và các dụng cụ chăm sóc sử dung lại theo quy trình quy định của phòng bệnh lây qua đường tiêu hóa.

Tại cộng đồng, cần vệ sinh cá nhân, rửa tay bằng xà phòng, đặc biệt là sau khi thay quần áo, thay tả lót; sau khi tiếp xúc với phân và nước bọt của người bệnh. Thường xuyên rửa sạch đồ chơi của trẻ, vật dụng và sàn nhà. Nên lau sàn nhà bằng dung dịch khử khuẩn chloramin B 2% hoặc các loại dung dịch khử khuẩn khác. Cách ly trẻ bị mắc bệnh tại nhà, không cho đến nhà trẻ, lớp mẫu giáo, trường học, nơi các trẻ vui chơi tập trung trong vòng 10-14 ngày đầu của bệnh.

Như vậy bệnh tay chân miệng chưa có vắc-xin để chủ động phòng bệnh, khi bị mắc bệnh cũng chưa có thuốc điều trị đặc hiệu mà chỉ xử trí can thiệp điều trị hỗ trợ triệu chứng và biến chứng. Nếu các biến chứng trầm trọng xảy ra ở hệ thần kinh, tim mạch và hô hấp đã nêu ở trên sẽ có nguy cơ dẫn đến những hậu quả khó lường, trẻ có thể bị tử vong là điều không thể tránh khỏi. Vì vậy việc phòng bệnh vẫn là biện pháp cần thiết và hiệu quả nhất.

 

 

 

 

 

Ngày 25/05/2015
TTƯT.BS. Nguyễn Võ Hinh  

THÔNG BÁO

   Dịch vụ khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn khám bệnh tất cả các ngày trong tuần (kể cả thứ 7 và chủ nhật)

   THÔNG BÁO: Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn xin trân trọng thông báo thời gian mở cửa hoạt động trở lại vào ngày 20/10/2021.


Tin đáng chú ý
Thông điệp về Ngày Sốt rét thế giới 25-4 (World Malaria Day)
Ngày Sốt rét thế giới-Ngày Chăm sóc sức khỏe toàn cầu (World malaria day – A day to make the world care)
 LOẠI HÌNH DỊCH VỤ
 CHUYÊN ĐỀ
 PHẦN MỀM LIÊN KẾT
 CÁC VẤN ĐỀ QUAN TÂM
 QUẢNG CÁO

Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005
Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.
Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464
Email: impequynhon.org.vn@gmail.com
Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng
Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích