Thách thức và nguy cơ sốt rét ở Tây Nguyên, miền Trung và miền Đông Nam bộ
Theo đánh giá của Ban Chủ nhiệm Dự án quốc gia phòng chống và loại trừ sốt rét tại Hội nghị phòng chống sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, côn trùng năm 2014 khu vực miền Trung-Tây Nguyên thì sốt rét giảm trên toàn quốc nhưng gia tăng cục bộ ở một số địa phương, theo đó nguy cơ sốt rét vẫn ở Tây Nguyên, miền Trung và miền Đông Nam bộ. Tây Nguyên là một trong những trọng điểm sốt rét của cả nước Trọng điểm số rét cả nước là Tây Nguyên, miền Trung và miền Đông Nam bộ Theo Báo cáo của Viện Sốt rét-KST-CT Trung ương, tình hình sốt rét cả nước năm 2014 so với cùng kỳ 2013, số bệnh nhân sốt rét (BNSR) giảm 21,29% (27.868/35.406), số ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) giảm 8,03% (15.752/17.128), số sốt rét ác tính (SRAT) giảm 13,10% (73/84), số tử vong sốt rét (TVSR) không tăng không giảm (6/6), không có dịch sốt rét xảy ra. Đáng lưu ý tất cả 6 trường hợp TVSR: 3 ca ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên (Gia Lai, Kon Tum, Quảng Bình) và 3 ca ở khu vực Nam bộ-Lâm Đồng (Bình Phước, Đồng Nai, An Giang) đều có mật độ ký sinh trùng thể vô tính trong máu rất cao (P.Ft++++), nhiễm bệnh ngoại lai từ các vùng sốt rét lưu hành hay giao lưu biên giới (Lào PDR) về, nguyên nhân tử vong do biến chứng nặng sau quá trình nhập viện muộn. Tất cả 73 trường hợp SRAT (nguy cơ tử vong)trong năm 2014 cũng tập trung ở các khu vực này: miền Trung (25 ca), Tây Nguyên (22 ca), Đông Nam bộ (23 ca) và Đồng bằng sông Cửu Long (3 ca). Trong các chỉ số sốt rét thì chỉ số KSTSR (Plasmodium falciparum, P.vivax, P.malariae, P.knowlesi) đang có mặt ở nước ta rất đáng lưu ý vì chúng không chỉ là tác nhân gây bệnh mà còn là một trong những yếu tố lan truyền tự nhiên sốt rét do muỗi truyền, có thể dẫn đến tái bùng phát sốt rét ở các vùng sốt rét lưu hành có sự hiện diện của các véc tơ truyền bệnh chính như (Anopheles minimus, An.dirus) và phụ (An.aconitus, An.maculatus, An.jeyporiensis). Điều đáng quan ngại là chỉ số này KSTSR cũng rất cao ở khu vực miền Trung-TâyNguyên và khu vực Nam bộ-Lâm Đồng nơi vẫn thường xuyên có mặt véc tơ truyền bệnh. Bảng 1. So sánh chỉ số KSTSR giữa các khu vực trong cả nước năm 2014 Số TT | Khu vực | Số KSTSR | Tỷ lệ (%) KSTSR so với cả nước | 1 | Miền núi phía Bắc | 137 | 0,87 | 2 | Đồng bằng trung du Bắc bộ | 47 | 0,29 | 3 | Khu IV | 287 | 1,82 | 4 | Miền Trung | 5.559 | 35,29 | 5 | Tây Nguyên | 7.710 | 48,95 | 6 | Miền Đông Nam bộ | 1.830 | 11,62 | 7 | Đồng bằng sông Cửu Long | 182 | 1,16 | | Cả nước | 15.752 | |
Kết quả so sánh chỉ số KSTSR ở từng khu vực với cả nước thấy cao nhất ở Tây Nguyên (48,95%) và miền Trung (35,29%), miền Đông Nam bộ tập trung chủ yếu ở tỉnh Bình Phước (11,62); còn 4 khu vực khác trong nước chỉ số KSTSR rất thấp (từ 0,29 đến 1,82%) Bảng 2. Các tỉnh có tỷ lệ ký sinh trùng cao nhất nước (Top ten) Số TT | Khu vực | Số KSTSR | Tỷ lệ (%) KSTSR so với cả nước | 1 | Gia Lai | 4.367 | 27,72 | 2 | Đắc Lắc | 1.913 | 12,14 | 3 | Bình Phước | 1.521 | 9,65 | 4 | Khánh Hòa | 1.174 | 7,45 | 5 | Ninh Thuận | 1.032 | 6,55 | 6 | Phú Yên | 984 | 6,25 | 7 | Đắc Nông | 615 | 3,90 | 8 | Quảng Bình | 597 | 3,79 | 9 | Bình Thuận | 559 | 3,55 | 10 | Lâm Đồng | 465 | 2,95 | 11 | Quảng Trị | 424 | 2,69% | | Cả nước | 15.752 | |
Kết quả phân tích các tỉnh có số KSTSR cao nhất nước (> 400 ký sinh trùng trở lên) thấy Gia Lai có chỉ số KSTSR cao nhất (4.367); 4 tỉnh dao động từ 2000-1.000 (Đắc Lắc, Bình Phước, Khánh Hòa, Ninh Thuận) và 6 tỉnh dao động từ < 1.000 đến > 400 (Phú yên, Đắc Nông, Quảng Bình, Bình Thuận, Lâm Đồng, Quảng Trị). Các tỉnh này không chỉ đơn thuần có chỉ số KSTSR cao mà còn nằm trong vùng có sốt rét kháng thuốc sốt rét, kể cả kháng với thuốc có hiệu lực cao (Artemisinine) nên khả năng lan truyền sốt rét kháng thuốc ra cả nước sẽ rất nhanh nếu không có sự kiểm soát chặt chẽ. Huyện Krongpa, tỉnh Gia Lai có tỷ lệ bệnh sốt rét cao nhất nước Cơ cấu KSTSR có thay đổi so với trước đây: trong đó chủng P.falciparum là chủng ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc, gây sốt rét ác tính và tử vong chiếm 52,34% (8254/15.752)so với tổng số KSTSR, trong đó miền Trung (56,54%), Tây Nguyên (51,18%), miền Đông Nam bộ (50,16%), còn các khu vực khác dao động ở mức thấp hơn từ Nam ra Bắc (42,31% đến 14,60%) Nghiên cứu sốt rét kháng thuốc với hệ thống labo hiện đại Khu vực miền Trung-Tây Nguyên khó kiểm soát dân di biến động Theo Báo cáo của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn, tình hình sốt rét khu vực miền Trung-Tây Nguyên năm 2014 so với cùng kỳ 2013, số BNSR giảm 9,52% (14.450/15.970), số KSTSR giảm 5,94% (12.816/13.627), số SRAT tăng 2,22% (46/45), số TVSR không tăng không giảm (3/3), không có dịch sốt rét xảy ra trên địa bàn khu vực. Các tỉnh có số BNSR cao trên 1000 ca (2014/2013) là Gia Lai (4424/4269), Đắc Lắc (2259/2106), Khánh Hòa (1214/1375), Phú Yên (1202/1188), Ninh Thuận (1079/1447). Các tỉnh có số KSTSR cao trên 1000 ca năm 2014 là Gia Lai (4367), Đắc Lắc (1913), Khánh Hòa (1174), Ninh Thuận (1032), Phú Yên (984). Phát hiện sớm, chẩn đoán sớm, điều trị sớm sốt rét ở các tuyến hạn chế tử vong Mặc dù sốt rét giảm trên phạm vi toàn khu vực nhưng vẫn gia tăng cục bộ tại một số địa phương, đặc biệt là có 6 tỉnh tăng cả BNSR và KSTSR như Bình Thuận (BNSR tăng 29,50%, KSTSR tăng 32,50%), Quảng Bình (BNSR tăng 10,83%, KSTSR tăng 25,24%), Phú Yên (BNSR tăng 1,18%, KSTSR tăng 18,10%), Gia Lai (BNSR tăng 3,63%, KSTSR tăng 36,86%), Đăk Lăk (BNSR tăng 7,26%, KSTSR tăng 12,31%), Đăk Nông (BNSR tăng 10,99%, KSTSR tăng 7,69%); 1 tỉnh tăng BNSR là Đà Nẵng (+28,57%) và 1 tỉnh chỉ tăng KSTSR là Thừa Thiên-Huế (+14,29%). Số ca SRAT cao nhất ở tỉnh Gia Lai (11 ca) và số TVSR ở 3 tỉnh Quảng Bình, Gia Lai và Kon Tum, mỗi tỉnh 1 ca. Trong 3 trường hợp TVSR có một cháu nhỏ 6 tháng tuổi, người dân tộc ja rai (Kon Tum) bị nhiễm bệnh trong rẫy do gia đình đưa vào rẫy ngủ dài ngày, 2 trường hợp tử vong do nhiễm bệnh từ Lào về quá khả năng cấp cứu của các tuyến bệnh viện do biến chứng muộn. Nguyên nhân gia tăng sốt rét chủ yếu vẫn tập trung ở các nhóm dân thường xuyên vào làm ăn trong vùng sốt rét lưu hành khó kiểm soát như đi rừng, làm rẫy, ngủ rẫy, khai thác lâm thổ sản, giao lưu biên giới Việt-Lào mang ký sinh trùng về. Như vậy trong năm 2014, các chỉ số sốt rét đều có xu hướng gia tăng hoặc giảm không đáng kể chủ yếu ở Tây Nguyên, điều này rất đáng lưu ý vì địa bàn Tây Nguyên rộng, ranh giới giữa các vùng sốt rét lưu hành không có sự khác biệt nên sốt rét rất dễ tái bùng phát và lan rộng nếu không có sự kiểm soát chặt chẽ. Tẩm màn phòng chống sốt rét cho đồng bào sống trong vùng sốt rét lưu hành Đánh giá tình hình sốt rét Trong năm 2014Dự án quốc gia phòng chống và loại trừ sốt rét bị cắt giảm khoảng 50% kinh phí nhưng với sự hỗ trợ của dự án Quỹ toàn cầu PCSR và Tổ chức Y tế thế giới (WHO) nên vẫn đảm bảo triển khai các hoạt động phòng chống sốt rét đến tận cơ sở, thực hiện các mục tiêu đề ra. Mặc dù sốt rét giảm trên phạm vi toàn quốc nhưng trọng điểm sốt rét cả nước tập trung ở các khu vực Tây Nguyên, miền Trung và miền Đông Nam Bộ với trên 90% số ca mắc và chiếmhầu hết số ca tử vong so với cả nước. Bên cạnh các nguyên nhân khách quan như sốt rét kháng thuốc, muỗi kháng hóa chất, hoặc thay đổi sinh thái hoạt động do tác động của biến đổi khí hậu, môi trường…; vấn đề biến động dân cư khó kiểm soát như đi rừng, ngủ rẫy, di dân tự do, giao lưu biên giới… vẫn ngoài tầm kiểm soát y tế và chưa có biện pháp phòng chống khả thi thì các nguyên nhân chủ quannhư một số tỉnh tổ chức thực hiện chưa tốt mặc dù có nhiều nguồn lực đầu tư; nảy sinh tư tưởng chủ quan ở các cấp chính quyền cũng như cộng đồng sau nhiều năm sốt rét giảm thấp, mô hình tổ chức phòng chống sốt rét các tuyến chưa ổn định nên chưa có hiệu quả đầu tư cơ sở hạ tầng cũng như nâng cao trình độ cán bộ; chất lượng các biện pháp phun tồn lưu hóa chất, tẩm màn ở một số địa phương chưa cao; cán bộ y tế cơ sở chưa phát hiện và điều trị kịp thời bệnh nhân sốt rét. Điều tra ký sinh trùng sốt rét tại cộng đồng Từ những thực tế nêu trên nhiệm vụ phòng chống sốt rét trọng tâm năm 2015 là duy trì và đẩy mạnh các hoạt động theo chức năng nhiệm vụ, giảm mắc, không để tăng tử vong, phổ cập phác đồ chẩn đoán và điều trị sốt rét do Bộ Y tế mới ban hành đến tất cả các tuyến điều trị; duy trì các nghiên cứu đánh giá kháng thuốc, kháng hóa chất, tăng cường hợp tác quốc tế để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu phòng chống và loại trừ sốt rét.
|