|
Bản mới của dân di cư tự do tại Tiểu khu 179-Liêng S`ronh,Ðam Rông,Lâm Ðồng. (Nguồn ảnh: nhandan.com.vn) |
Tính phức tạp và khó giải quyết về vấn đề di biến động dân liên quan đến sốt rét & bệnh truyền nhiễm khác
Trong thực tế có nhiều bệnh nhiễm trùng do nhiều tác nhân khác nhau gây nên như ký sinh trùng, vi khuẩn, virus, nấm, đơn bào có thể lây truyền từ người sang người trực tiếp hoặc qua trong gian truyền bệnh, có thể truyền từ động vật lây sang người, hoặc từ động vật sang động vật, điều đó giải thích lý do tại sao một số bệnh trước đây chưa hề nghe nói đến ở một quốc gia hay vùng lãnh thổ nào đó trên hành tính này, nay lại có thể truyền sang các quốc gia lẫn nhau tương đối phổ biến. Các chuyên gia về dich tễ học và sinh học phân tử có nhiều nghiên cứu khác nhau đưa ra giả thuyết, thậm chí có nhiều bằng chứng cụ thể như sự di dân từ quốc gia này sang quốc gia khác, có các trung gian truyền bệnh tại chỗ sẽ là vật truyền hữu hiệu cho căn bệnh lan truyền, hay hiện tượng nhập cư cùng với nhập các nguồn vật nuôi theo kinh tế chăn nuôi cũng góp phần lây lan mầm bệnh sang các quốc gia khác nhau, hoặc mầm bệnh có thể di chuyển theo các con đường tàu thủy, hàng không, xe khách, một số khác có thể lây truyền qua con đường nhập các nông sản và thịt chế phẩm sang các nước khác vốn dĩ trước đó không có mầm bệnh. Một trong những căn bệnh khá phổ biến hiện nay vẫn được coi là bệnh vector truyền nguy hiểm trên phạm vi toàn cầu, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến các vùng châu Á-Thái Bình Dương, Nam Mỹ và châu Phi. Mặc dù, cùng với một số tác nhân và bệnh truyền nhiễm đãvà đang trong thời gian tiến đến loại trừ như bệnh phong, bệnh bại liệt và sắp đến có thể là bệnh sốt rét vào năm 20130 trên phạm vi toàn cầu. Bức tranh toàn cảnh về sốt rét cho thấy trong thời gian 10 năm gần đây tình hình sốt rét có xu hướng giảm thấp về tỷ lệ mắc, bệnh nhân sốt rét, số ký sinh trùng sốt rét và tử vong do sốt rét, Song một số tỉnh thành, đặc biệt tại khu vực miền Trung-Tây Nguyên vẫn còn một số điểm biến động và khó kiểm soát. Hình 1
Bên cạnh đó, dù tình hình sốt rét giảm về gánh nặng, nhưng vẫn đang đối mặt với một số thách thức mới như: Ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc, muỗi sốt rét kháng hóa chất, sốt rét do giao lưu biên giới, đặc biệt sốt rét trên nhóm dân di biến động và dân di cư rất khó kiểm soát. Trong đó, các nhóm nguy cơ chính tại khu vực rừng và chân đồi là: •Các nhóm dân tộc thiểu số sống trong rừng hoặc gần rừng, những người có tập quán du canh (đốt nương làm rẫy); •Dân bản và nông dân sống ở bìa rừng, gồm những người mới đến định cư và người đi trồngrừng; •Công nhân nông trường, đặc biệt là ở các nông trường cao su làm công việc ban đêm; những công nhân này thường là người lao động theo mùa vụ và thường là dân di cư; •Những người đã được di rời đến các khu vực rừng hay bìa rừng để tị nạn hoặc di dời để phục vụ các dự án phát triển như xây đập; •Những người đi rừng trong khoảng thời gian ngắn như lực lượng an ninh, người khai thác gỗ, thợ mỏ, khách du lịch và nhiều đối tượng khác; •Lực lượng quân đội và cảnh sát được triển khai tại các khu vực biên giới; •Những người sống hoặc làm việc tại các khu vực ven biển tham gia làm nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, đánh bắt cá hoặc buôn lậu. Hình 2
Những nhóm này có thể được phân biệt theo các mức độ và hình thức di chuyển khác nhau, cũng như tình trạng hợp pháp hoặc bất hợp pháp. Có thể có sự chồng chéo khi phân loại. Ví dụ, những người thuộc các nhóm dân tộc thiểu số có thể là nông dân làm việc ở bìa rừng hoặc công nhân lâm trường. Trong những năm gần đây, các nhóm dân tộc thiểu số có tập quán làm nông nghiệp du canhdu cư chiếm số lượng lớn nhất và quan trọng nhất về gánh nặng sốt rét trong khu vực GMS. Trong những đối tượng này, có khi cả gia đình, nhưng phần đông là nam giới dành nhiều ngày hoặc nhiều tuần không ở làng để chăm sóc các lô rừng, thu hoạch lâm sản hoặc săn bắn. Vì thế chu kỳ lan truyền sốt rét có thể tiếp tục duy trì trong cộng đồng, ngay cả khi lan truyền sốt rét đã từng cắt đứt. Cộng đồng làm nông nghiệp du canh du cư đang dần biến mất (mặc dù ở Myanmar, họ vẫn có thể chiếm khoảng hơn 2 triệu người) và hầu hết số còn lại này được cung cấp đầy đủ màn LLINs và các dịch vụ quản lý ca bệnh dựa vào cộng đồng. Hình 3
Dân di cư không nhất thiết phải ở những vùng xa xôi hẻo lánh, hoặc ngoại trừ. Nhận thấy rằng tính lưu động là một hệ thống liên quan đến các nhóm đa nhân khẩu, các địa phương và tiến trình giao thoa kinh tế-xã hội được chứng minh là ngày càng quan trọng. Khi LTSR ở khu vực GMS tiến gần đến giai đoạn cuối cùng, mối quan tâm chính sẽ là nguy cơ sốt rét ngoại lai từ các nước khác, đặc biệt là từ những vùng sốt rét lưu hành ở Bangladesh và phía đông bắc Ấn Độ giáp Myanmar. So với các dòng di cư trong khu vực GMS, thì di biến động qua biên giới của Myanmar với hai nước này tương đối ít. PCSR ở đây đang có những tiến bộ, các yếu tố quyết định rủi rotương tự như tại khu vực Tiểu vùng sông Mê Kông. Tiến bộ trong LTSR ở khu vực khu vực Tiểu vùng sông Mê Kông sẽ kích thích các nỗ lực loại trừ tương tự ở Bangladesh và phía đông bắc Ấn Độ, làm giảm các tổn thương ở Myanmar. Hình 4
Việc di chuyển bằng đường hàng không trên toàn cầu tăng có thể làm tăng nguy cơ sốt rét ngoại lai. Ví dụ, Trung Quốc đang phải đối phó với sốt rét do P. falciparum ngoại lai từ châu Phi, và việc đi lại giữa châu Phi và thủ đô của các nước Đông Nam Á cũng đang gia tăng. Trong bối cảnh ngăn chặn sốt rét kháng thuốc, hai vấn đề hiện nay là: dân di cư từ miền tây Myanmarsang các nước khác như Bangladesh và có thể đến các khu vực có nguy cơ sốt rét;binh sĩ đến châu Phi với mục đích thực hiện gìn giữ hòa bình hoặc huấn luyện và trao đổi quân sự. Giảm gánh nặng sốt rét tại khu vực Tiểu vùng sông Mê Kông trong thập kỷ qua là kết quả của đầu tư cho PCSR mà còn thay đổi bối cảnh như giảm nạn phá rừng và giảm đói nghèo. Mặc dù, tăng trưởng kinh tế hy vọng sẽ làm giảm nguy cơ sốt rét trong dân di cư, nhưng các yếu tố như sự bất bình đẳng, nhu cầu thu hái lâm sản và các dự án cơ sở hạ tầng gần hoặc nằm trong khu vực rừng sẽ duy trì nguy cơ sốt rét liên quan đến di biến động dân cư và nguy cơ này được hỗ trợ bởi sự phát triển của mạng lưới giao thông và mở cửa biên giới. Hình 5
Trong thời gian ngắn, một trong những biện pháp can thiệp quan trọng nhất có thể được các chính phủ thực hiện bao gồm hoàn thiện các quy định và cưỡng chế, ngăn chặn toàn bộ các hoạt động như khai thác gỗ bất hợp pháp và yêu cầu các công ty được cấp phép hoạt động trong hoặc gần khu vực rừng phải tham vấn và hợp tác với ngành y tế. Vấn đề an ninh và bất ổn chính trị vẫn là nguy cơ nghiêm trọng nhất. Tình hình này tại khu vực GMS đang được cải thiện, nhưng chỉ một thay đổi tiêu cực cũng có thể gây nguy hại đến các nỗ lực LTSR và làm đảo ngược những thành quả gần đây của công tác PCSR. Một vấn đề khác không kém phần quan trọng, đó là lao động di cư và rối nhập cư từ các quốc gia Nam Mỹ và châu Phi trở về, nơicó nhiều ổ chứa mầm bệnh truyền nhiễm tiềm tàng khi hết thời hạn lao động trở về hoặc họ quay trở về Việt Nam vào các dịp lễ, tế và thăm thân cũng là vấn đề cần quan tâm, kiểm soát và giám sát chặt chẽ. Để làm được điều đó, các ngành phối hợp với ngành y tế cũng là vấn đề cần có sự thống nhất và chỉ đạo cấp trên thì mới mong thành công trong kiểm soát. Và vấn đề chủng Plasmodium falciparum kháng thuốc artemisinin Một vấn đề tập trung đặc biệt trên nhóm dân di biến động, người tị nạn phải đươc đảm bảo vì các lý do khác: các nhóm này thường tìm kiếm điều trị từ các cơ sở y tế tư nhấn hay các cơ sở y dược không chính thống, tăng nguy cơ phưi nhiễm và uống phải các thuốc kém chất lượng và thuốc giả, thuốc đơn trị liệu, nhất là artesunate đơn trị liệu đường uống 50mg. Hình 6
Các chương trình ngăn chặn kháng thuốc artemisinin tại Campuchia, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam gồm có các biện pháp can thiệp đặc biệt trên nhóm dân di biến động như chiến dịch phân bổ màn tẩm hóa chất, thiết lâp các điểm sàng lọc bệnh (screening points) và cung cấp các dịch vụ chẩn đoán và điều trị tại nơi họ làm việc. Chiến lược ngăn chặn chủng KSTSR sốt rét kháng thuốc đã khởi động đến nay gần 10 năm và đạt được nhiều thành quả quan trọng, góp phần trong phòng chống tích cực và loại trừ sốt rét, tuy nhiên vẫn còn nhiều thách thức đang đối mặt đó là muỗi kháng hóa chất diệt, ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc sốt rét có hiệu lực cao, quần thể dân di biến động phức tạp, nhất là tại các vùng biên giới hai nước, kể cả đường tiểu ngạch và chính ngạch, nguồn kinh phí đầu tư vào cuộc chiến phòng chống sốt rét hiện đang hạn hữu, ý thức bảo vệ cá nhân của cộng đồng vẫn còn chưa bao phủ, nhất là tại các vùng sâu vùng xa, vùng núi có dân sinh sống rải rác và rất xa giữa các cụm dân và hộ gia đình. Trước các thách thức và khó khăn trên, cần lắm những đầu tư về trí tuệ, công sức, kinh phí và vật lực vào các chương trình phòng chống bệnh truyền nhiễm nói chung và bệnh sốt rét nói riêng trong thời gian đến.
|