|
WHO khuyến cáo 5 nước Tiểu vùng sông Mekong có sốt rét kháng Artemisinine |
Thách thức trong ứng phó với P.falciparum kháng thuốc Artemisinine ở Việt Nam
Từ lâu chủng ký sinh trùng sốt rét Plasmodium faciparum được xác định kháng cao trên diện rộng với nhiều loại thuốc sốt rét trên thế giới, tuy nhiên gần đây sự kháng của chủng ký sinh trùng này với artemisinin-một trong những loại thuốc chống sốt rét có hiệu lực cao liên tục được cảnh báo ở một số quốc gia Tiểu vùng sông Mekong thuộc Đông Nam Á thực sự là một trở ngại lớn trong chương trình phòng chống sốt rét ở khu vực này. Có 5 nước Tiểu vùng sông Mekong (Campuchia, Myanmar, Lào, Thái Lan và Việt Nam) thuộc Đông Nam Á được Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cảnh báo có sự lan rộng của P.falciparum kháng Artemisinine-một loại thuốc có hiệu lực cao trong điều trị sốt rét, được chiết xuất từ cây Thanh Hao hoa vàng (Artemisia annua) mọc hoang ở các tỉnh miền nam Trung Quốc và miền núi phía bắc Việt Nam. Trong thời điểm “sốt rét quay trở lại” trong những năm đầu 1990s thì chủng ký sinh trùng sốt rét đa kháng thuốc P.falciparum được coi là thủ phạm làm hàng chục ngàn người mắc, hàng ngàn người chết và hàng chục vụ dịch sốt rét xảy ra mỗi năm ở Việt Nam. Tuy nhiên sự xuất hiện của Artemisinin và dẫn xuất (artesunate) trong điều trị sốt rét đã diệt nhanh chóng thể vô tính máu, cắt cơn sốt nhanh và làm ung hóa giao bào từ đó làm giảm nhanh sự lan truyền sốt rét.
| Thuốc sốt rét Artemisinine chiết suất từ cây Artemisia annua (Thanh Hao hoa vàng) |
Tuy nhiên sự bột phát sớm của ký sinh trùng sốt rét (early recrudesence) với loại thuốc này sau đó đã khiến WHO phải tuyên bố loại bỏ đơn trị liệu artemisinin bằng đường miệng khỏi các thị trường thuốc chống sốt rét trên thế giới mà thay vào đó là một trị liệu phối hợp có gốc artemisinine (Artemisinine-bases Combination Therapy_ACTs) được sử dụng điều trị sốt rét P.falciparum chưa biến chứng (uncomplicated malaria) và artesunate bằng đường tiêm (lọ 60mg) được sử dụng để điều trị các trường hợp sốt rét có biến chứng (complicated malaria).
| Thử nghiệm nuôi cấy ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc tại labo |
Mục đích WHO đưa ra khuyến cáo artemisinin kết hợp với một loại thuốc tác dụng hiệp đồng (ACTs) là do artemisinin và dẫn xuất của nó nhanh chóng bị đào thải khỏi cơ thể do đó hợp chất tác dụng hiệp đồng sẽ làm thuốc đào thải tương đối chậm để có thể tồn tại ở nồng độ có hiệu lực trong máu đến khi diệt được tất cả các thể vô tính của ký sinh trùng. Thêm vào đó sự kết hợp này nhằm bảo vệ sự phát triển kháng với artemisinine và ngăn chặn sự phát triển kháng với các thành phần thuốc phối hợp (ACTs). Người ta cho rằng sự kháng cao và lan rộng của P.falciparum với chloroquine và các loại thuốc sốt rét khác trong quá khứ làm khả năng kháng artemisinins sẽ lan rộng hoặc phát triển một cách độc lập, tuy nhiên dự đoán và so sánh sự kháng artemisinin với các thuốc đã kháng trước đó là rất khó khăn khi quá trình kiểm soát sốt rét được thực hiện tích cực trong hơn một thập kỷ qua làm thay đổi đáng kể bức tranh toàn cảnh về sốt rét.
| Xét nghiệm máu tìm ký sinh trùng sốt rét ở Việt Nam |
Đánh giá tình hình sốt rét sau hai thập kỷ (1991-2011) từ thời kỳ “sốt rét quay trở lại” (1991) đến “loại trừ sốt rét” (2011) ở Việt Nam thấy: Tỷ lệ mắc sốt rét đã liên tục giảm từ 2,8 ca/1.000 dân (1991) xuống còn 0,87 ca/1.000 dân (2001) và 0,18 ca/1.000 dân (2011).Tử vong sốt rét giảm từ 4.646 ca (1991) xuống còn 91 ca (2001) và 4 ca (2011). Như vậy sau 20 năm phòng chống sốt rét tỷ lệ mắc sốt rét ở Việt Nam đã giảm được 98% và tỷ lệ tử vong do sốt rét giảm được 99%, đủ điều kiện để thực hiện chiến lược tiền loại trừ sốt rét. Mặc dù các chỉ số sốt rét giảm rõ rệt trên phạm vi toàn quốc nhưng đến nay gần 80% số ca mắc và hầu như tất cả các ca tử vong do sốt rét đều tập trung ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên và tỉnh Bình Phước, điều đáng chú ý là số ca sốt rét được xác định có kháng artemisinin đang ngày càng tăng.
| Khu vực miền Trung-Tây Nguyên được xem là “cái nôi” sốt rét của Việt Nam |
Hiện nay ước tính dân số Việt Nam là 88,2 triệu người với khoảng 15,5 triệu người (18% dân số) sống ở những vùng có sốt rét lưu hành, Chiến lược quốc gia phòng chống và loại trừ sốt rét giai đoạn 2011-2020 đã được triển khai thực hiện với những hoạt động chính như cung cấp hóa chất phun tồn lưu và tẩm màn ngủ chống muỗi Anopheles, thuốc chống sốt rét, giám sát, vật tư và đào tạo.
| Dân di cư tự do-một trong những nhóm dân di biến động khó kiểm soát |
Vấn đề khó khăn lớn nhất hiện nay trong phòng chống và loại trừ sốt rét ở Việt Nam là giải pháp phòng chống cho các nhóm dân di biến động khó kiểm soát: dân đi rừng, ngủ rẫy, di cư tự do và giao lưu biên giới vì hầu hết các ca sốt rét xác định (positive cases) đều tập trung ở các nhóm dân này nhưng lại chưa có giải pháp phòng chống hữu hiệu. Một số biện pháp chương trình phòng chống sốt rét quốc gia đã thực hiện như tẩm màn, võng bằng hóa chất tồn lưu lâu hoặc cấp thuốc tự điều trị (stand-by treatment) xem ra mới chỉ là giải pháp tình thế chứ chưa can thiệp dứt điểm được sự phơi nhiễm bệnh. Biện pháp được cho là khả thi và bền vững nhất hiện nay là tuyên truyền giáo dục sức khỏe để người dân biết cách tự bảo vệ khi vào vùng sốt rét lưu hành nặng, đến cơ sở y tế để được phát hiện, chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời khi có sốt…
| Gần 20% dân số Việt Nam vẫn nằm trong vùng sốt rét lưu hành |
WHO cho rằng sốt rét vẫn là một vấn đề y tế công cộng quan trọng và chương trình phòng chống sốt rét quốc gia nhận được sự hỗ trợ chính trị mạnh mẽ, đặc biệt mới đây Bộ Y tế một lần nữa khẳng định sốt rét là một trong 5 bệnh truyền nhiễm được quan tâm ưu tiên của Việt Nam. Từ trước tới nay việc kiểm soát vector truyền bệnh sốt rét và bảo vệ cá nhân chủ yếu dựa vào việc sử dụng màn ngủ tẩm hóa chất diệt muỗi thông qua việc sử dụng màn ngủ tẩm hóa chất có tác dụng tồn lưu lâu (LLINs) làm tiêu chuẩn quốc gia, mặc dù thay đổi này vẫn còn chờ được cấp kinh phí thực hiện. Màn đơn hay võng và màn võng tẩm hóa chất có tác dụng tồn lưu lâu đã được cung cấp cho dân di biến động và người đi rừng nhằm hạn chế số ca mắc sốt rét ở nhóm đối tượng này. Phun tồn lưu hóa chất trong nhà (IRS) được áp dụng như biện pháp dự phòng thông thường ở một số vùng, đồng thời là biện pháp đáp ứng dịch khi có sự bùng phát xảy ra.
| Các biện pháp Chiến lược loại trừ sốt rét ở Việt Nam |
Được sự hỗ trợ của WHO đầu năm 2011, Kế hoạch quốc gia về ngăn chặn sốt rét kháng artemisinin đã được xây dựng phù hợp với các nguyên tắc hướng dẫn của Kế hoạch ngăn chặn kháng aretemisin toàn cầu (GPARC), tuy nhiên cho tới nay kinh phí cấp cho Kế hoạch này còn ở mức rất thấp. Cùng với đó, Bộ Y tế đã cấm sử dụng phác đồ đơn trị liệu artesunate để điều trị sốt rét và hạn chế sản xuất thuốc sốt rét loại artesunate dưới dạng đơn trị liệu, một trong những yếu tố chính thúc đẩy sự phát triển của ký sinh trùng kháng thuốc. Theo WHO, từ lâu tình hình kháng thuốc chống sốt rét đã là một vấn đề ở Việt Nam, đặc biệt là gần đây sốt rét kháng thuốc artemisinin được xác nhận đầu tiên ở tỉnh Bình Phước, Tây Nguyên (năm 2010). WHO xác định hỗ trợ xác định các yếu tố nguy cơ dẫn đến sự phát triển kháng thuốc chống sốt rét trong những người cư trú và không cư trú ở tỉnh Bình Phước; xây dựng Kế hoạch quốc gia giám sát và đánh giá (M&E) sốt rét; duy trì các địa bàn trọng điểm cho nghiên cứu hiệu quả điều trị để theo dõi tình hình kháng artemisinin; kỹ thuật và kinh phí cho việc triển khai chiến lược ngăn chặn kháng artemisinin; giám sát tình hình kháng thuốc ở Việt Nam.
|