Home TRANG CHỦ Thứ 4, ngày 24/04/2024
    Hỏi đáp   Diễn đàn   Sơ đồ site     Liên hệ     English
IMPE-QN
Web Sites & Commerce Giới thiệu
Web Sites & Commerce Tin tức - Sự kiện
Web Sites & Commerce Hoạt động hợp tác
Web Sites & Commerce Hoạt động đào tạo
Finance & Retail Chuyên đề
Dịch tễ học
Côn trùng học
Nghiên cứu lâm sàng & điều trị
Ký sinh trùng sốt rét
Ký sinh trùng
Sinh học phân tử
Sán lá gan
Sốt xuất huyết
Bệnh do véc tơ truyền
Vi khuẩn & Vi rút
Sán
Giun
Nấm-Đơn bào
Web Sites & Commerce Tư vấn sức khỏe
Web Sites & Commerce Tạp chí-Ấn phẩm
Web Sites & Commerce Thư viện điện tử
Web Sites & Commerce Hoạt động Đảng & Đoàn thể
Web Sites & Commerce Bạn trẻ
Web Sites & Commerce Văn bản pháp quy
Số liệu thống kê
Web Sites & Commerce An toàn thực phẩm & hóa chất
Web Sites & Commerce Thầy thuốc và Danh nhân
Web Sites & Commerce Ngành Y-Vinh dự và trách nhiệm
Web Sites & Commerce Trung tâm dịch vụ
Web Sites & Commerce Thông báo-Công khai
Web Sites & Commerce Góc thư giản

Tìm kiếm

Đăng nhập
Tên truy cập
Mật khẩu

WEBLINKS
Website liên kết khác
 
 
Số lượt truy cập:
5 2 5 0 4 8 7 0
Số người đang truy cập
1 4
 Chuyên đề Giun
Bệnh giun chỉ Dracunculiasis có chiều hướng quay trở lại sẽ là gánh nặng bệnh tật toàn cầu ?

Giun Dracunculus medinensis hay còn gọi là Guinea worm là một loại giun gây nên bệnh có tên gọi là Dracunculiasis, còn được gọi là bệnh giun guinea. Về phân loại khoa học, giun Dracunculus medinensis thuộc giới Animalia, ngành Nematoda, lớp Secernentea, bộ Camallanida, siêu họ Dracunculoidea, họ Dracunculidae, giống Dracunculus, loài D. medinensis (Linnaeus, 1758) và hai loài khác D. medinensis and D. insignis

Loài mà được giới khoa học quan tâm nhiều nhất và biết đến nhiều nhất là D. medinensis, thường biết đến dưới tên gọi Guinea worm. Ký sinh trùng này thường tìm thấy ở trong cscs mô dưới da và cơ của người, có và đôi khi trên cả gia súc và ngựa. Tên khoa học của bệnh lý này gọi là Dracunculiasis. Bệnh gây nên các nốt dưới da và sau đó sinh ra các vết loét. Sau đó đầu giun phía trước sẽ nhô ra khỏi bề mặt da của cơ thể vật chủ động vật, hầu hết nhìn thấy trên chi dưới và xuất hiện các vết loét. Khi có mặt của giun trong môi trường nước lạnh, sự co cơ bên trong cơ thể sẽ sẽ gây ở tử cung (điều này làm đầy toàn bộ khaong cơ thể) sau đó vỡ ra, hàng trăm đến hàng ngàn ấu trùng giai đoạn 1 ra trong nước, ở đó chúng có thể tiếp cận đến vật chủ mới.

 

D. insignis nhiễm trùng vào các con chó và loài động vật hoang dại ăn thịt, gây các thương tổn ở dưới da, loét và đôi khi ảnh hưởng lên tim và vùng cột sống thẳng đứng. Giống như D. medinensis, người ta cũng cho rằng đó là giun Guinea worm, cũng như Dragon hay Fiery Dragon. Sự sắp xếp loài D. insignis còn giới hạn tại vùng Bắc Mỹ. Các phân tích DNA fingerprinting có thể phân biệt loài giữa D. medinensisD. insignis, điều này rất quan trọng nhất là nổ lực loại trừ bệnh giun tròn này.

 

Một số loài ghi nhận gần đây qua phân tích của các nhà khoa học gồm: D. alii, D. dahomensis, D. fuelliborni, D. globocephalus, D. insignis, D. lutrae, D. medinensis, D. ophidensis. Hoặc các loài khác như D. fuelliborni ký sinh trên các thú có túi, loài D. lutrae ký sinh trên con rái cá, loài D. ophidensis ký sinh trên các loài bò sát.

Bệnh gây ra bởi một lượng lớn giun cái D. medinensis, là loại giun tròn dài nhất trong nhóm giun gây nhiễm trên người. Giun cái trưởng thành lớn hơn giun đực trưởng thành. Năm 2009, các con giun cáu dài nhất được ghi nhận là 800 mm, trong khi con giun đực chỉ có 40 mm.

Sự phân bố và chiến dịch loại trừ

Loài giun tròn Dracunculus medinensis gây nhiễm trên người, đòi hỏi một vật chủ là người để sinh sản. Do vậy, trong việc loại trừ nhiễm trùng ở người sẽ dẫn đến thanh toán luôn bệnh do Dracunculus medinensis. Vào năm 2011, chỉ có 4 quốc gia vẫn còn nhiễm Dracunculus medinensis và trong số các quóc gia này thì Ghana, Ethiopia và Mali gần như loại trừ bệnh. Trong số đó có 1785 ca tìm thấy vào năm 2010, 1.690 ca ở Nam Sudan, với 38% số ca ít hơn năm 2009. Vào năm 2013, TCYTTG báo cáo chỉ có 521 ca đượ ghi nhận từ tháng 1-9 năm 2012.

 

Tiêu diệt Dracunculus medinensis: % giảm số ca

Năm

Tổng số ca

% số ca giảm

2009

2463

Không có báo cáo

2010

1785

38%

2011

1006

77%

2012

521

96%


Chu kỳ sinh học và phát triển của giun

Chu kỳ sinh học của giun tròn này được làm sáng tỏ vào năm 1870 khi Alexei Pavlovich Fedchenko của Nga khám phá ra các động vật giáp xác đóng vai trò là vật chủ trung gian. Về tác nhân gây bệnh chính là Dracunculus medinensis.

 

Người bị nhiễm do uống hay dùng phải nguồn nước ô nhiễm có chứa các loài giáp xác nhỏ mang mầm bệnh là các ấu trùng D. medinensis. Sau khi nuốt phải, các loài giáp xác nhỏ này chết và ly giải ra các ấu trùng, các ấu trùng này đi xuyên qua dạ dày và thành ruột và đi vào trong khoang bụng và đi ngược vào khoang phúc mạc.

 
Sau khi trưởng thành, các con giun đực chết đi và con giun cái (dài khoảng 70 - 120 cm) di chuyển trong lớp mô dưới da hướng đến bề mặt da. Khoảng chứng một năm sau khi nhiễm, con giun cái gây ra các nốt phỏng trên da, chứa dịch, nhất là vùng chi dưới ở đoạn xa như bàn chân chẳng hạn và nốt này vỡ ra.

Khi các thương tổn này tiếp xúc với nước bệnh nhân cảm thấy sự giảm đau đáng kể và con giun cáu trồi ra ngoài da và ly giải rất nhiều ấu trùng. Các ấu trùng được nuốt phải một loài giáp xác và sau đó hai tuần (và rụng lông hai lần) phát triển thành dạng ấu trùng có thể gây nhiễm. Sự tiêu hóa các loài giáp xác đó sẽ đóng lại chu kỳ.

Chương trình tiêu diệt

Giun Guinea đã tồn tại hàng trăm và có thể đến hàng triệu năm. Nhưng mãi đến năm 1980, một chương trình loại trừ bệnh mới được bắt đầu, gồm có Trung tâm Carter Center góp phần. Chương trình bao gồm giáo dục sức khỏe cho cộng đồng đang sống trong vùng bệnh lưu hành về ấu trùng gây bệnh nằm trong nước, sự phân lập và hỗ trợcho các bệnh nhân mắc bệnh và phân phối các màng lọc đến cộng đồng một cách rộng rãi là cần thiết (dạng net filters, pipe filters) để lấy được nguồn nước an toàn cho nhân dân và giải thích làm thế nào họ hiểu được tầm quan trọng khi dùng các màng lọc như thế là rất cần thiết.

Theo Tổ chức Y tế thế giới (TCYTTG), bệnh giun chỉ “Guinea worm” đang có chiều hướng quay trở lại. Căn bệnh chỉ cần nhìn qua đã thấy sởn gai ốc vì người bệnh dùng tay kéo con giun từ những vết thương mở ra ngoài, càng kéo càng dễ chịu, thậm chí có những con giun dài tới trên 1 mét. Bệnh giun chỉ Dracunculiasis, viết tắt GWD (Guinea worm diseases), là căn bệnh nhiễm trùng gây nên bởi ký sinh trùng giun tròn Dracunculus medinensis. Bệnh lây qua đường nước uống có chứa ấu trùng giun Guinea, dạng chưa trưởng thành. GWD ảnh hưởng đến cộng đồng những người nghèo tại các vùng xa xôi hẻo lánh của một số quốc gia châu Phi do thiếu nguồn nước sạch và được coi là Căn bệnh nhiệt đới bị lãng quên (Neglected Tropical Diseases_NTDs), nhưng nay đang có xu hướng bùng phát, quay trở lại.

 

Theo các chuyên gia ở Đại học Y khoa Vệ sinh và Y học nhiệt đới London, Anh cho biết bệnh giun chỉ này phát triển mạnh tại các nước châu Phi. Khi đủ tuổi, người ta có thể kéo được những con giun dài trên 1 mét từ da người bệnh. Căn bệnh phát triển âm thầm, người trong cuộc đôi khi không biết được bệnh, chỉ đến khi đau nhức, đi khám mới biết mắc bệnh. Giun Guinea đã bùng phát mạnh cách đây 3 thập kỷ, hàng triệu người mắc bệnh và cứ ngỡ đã thanh toán nhưng hiện nay đang có nguy cơ tái xuất hiện, đặc biệt là do nguồn nước sinh hoạt bị ô nhiễm nghiêm trọng. Nguy hiểm hơn, bệnh giun Guinea hiện chưa hề có vaccin hay các phương pháp đặc trị.

 

Bệnh có các biến chứng gây đau nhức dữ dội, kéo dài và gây khó chịu cho bệnh nhân

Nguyên nhân chính gây bệnh GWD là do vệ sinh kém, nhất là uống phải nguồn nước bị nhiễm ấu trùng do ký sinh trùng Dracunculus medinensis đẻ ra, thường gặp trong nguồn nước tại những vùng nông thôn nghèo, xa xôi hẻo lánh. Ấu trùng sau đó phát triển ngay trong cơ thể vật chủ thành giun trong thời gian 1 năm, bắt đầu từ dạ dày và thâm nhập vào đường tiêu hóa, đi vào các hốc, khoang cơ thể. Trong 10 - 14 tháng, ấu trùng phát triển đầy đủ, dài 60 - 100cm, đường kính bằng một sợi mì nhỏ. Cuối cùng, con cái chui ra khỏi cơ thể vật chủ qua đường vết thương ở chân để đẻ trứng, nhất là trong môi trường nước. Ví dụ, khi tắm hoặc làm việc trong môi trường có nước hoặc khi người bệnh thấy đau nhức chân, ngâm vào nước, lợi dụng môi trường này giun đẻ trứng.

 

Cảm giác đau đớn, rát bỏng kéo dài trong vòng 24 - 72 giờ. Trước khi giun Guinea thoát ra khỏi vết thương, tiết ra chất lỏng màu đục sữa vào trong nước kèm theo hàng triệu ấu trùng chưa trưởng thành. Điều này không chỉ gây ô nhiễm nguồn nước mà còn bắt đầu một chu trình sống mới của giun. Mặc dù bệnh GWD hiếm khi gây tử vong nhưng lại làm cho người bệnh ốm yếu, mệt mỏi kéo dài, không thể làm việc được, ảnh hưởng lớn đến sức khỏe và thu nhập.

Từ những năm 90 của thế kỷ trước, UNICEF đã phát động một chương trình mang tên Xóa bỏ giun Guinea Worm toàn cầu (GWEP), nhất là ở Tây Phi và những vùng nông thôn hẻo lánh ở châu Phi, nơi kinh tế khó khăn, dịch vụ y tế còn nghèo nàn. Nguyên thủy, Chương trình GWEP được Trung tâm Kiểm soát và Phòng chống dịch bệnh Mỹ (CDC) khởi xướng từ đầu thập niên 80 khi chiến dịch xóa sổ bệnh đậu mùa thành công. Do căn bệnh chỉ lây qua con đường nước bị ô nhiễm, nên Liên hợp quốc đã phát động Chương trình Cung cấp nước sạch và Vệ sinh môi trường giai đoạn 1981 - 1990, riêng Mỹ còn có hẳn một trung tâm mang tên Trung tâm Carter do cựu Tổng thống Mỹ Jimmy Carter đứng đầu chuyên lo về phòng trừ bệnh giun này Từ năm 1982, TCC đã tập trung vào các hoạt động như giải quyết xung đột chính trị và các loại bệnh trong chiến tranh và bệnh giun Guinea.

Giải pháp ngăn chặn bệnh GWD

Từ năm 1986, số người mắc bệnh bệnh giun Guinea đã giảm từ 3,5 triệu ca tại 21 quốc gia châu Phi và châu Á xuống còn 148 ca vào năm 2013, chủ yếu ở 4 quốc gia là Chad, Ethiopia, Mali và Nam Sudan, nhưng thực tế thì nhiều nơi con số báo cáo không phản ánh hết thực tế, vì vậy số người mắc bệnh có thể còn cao hơn, bởi phần lớn những nước mắc bệnh đều là ở các nước nghèo nên công tác giám sát, thống kê ít được quan tâm và thiếu tính minh bạch.

Theo các chuyên gia của LTM, một trong những giải pháp quan trọng trong cuộc chiến phòng chống bệnh GWD là đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về tác dụng của việc giữ vệ sinh nguồn nước sinh hoạt, tuyên truyền người dân sử dụng bộ lọc nylon hoặc vải thông thường để loại bỏ ấu trùng giun trước khi sử dụng. Ngoài giải pháp vệ sinh, còn một yếu tố khác làm cho căn bệnh bùng phát chính là chiến tranh, xung đột kéo dài, nhất là ở Nam Sudan, Ghana..., làm cho nguồn nước bị ô nhiễm nặng, kinh tế khó khăn, tạo điều kiện cho căn bệnh trên bùng phát.

Theo CDC, mọi người đều có nguy cơ mắc bệnh GWD nếu uống phải nguồn nước ô nhiễm, tuy nhiên căn bệnh này có thể ngăn ngừa được bằng cách dùng nguồn nước đảm bảo vệ sinh, tẩy lọc đầy đủ. Những người có mụn sưng và vết thương ở chân không nên tắm rửa tại những nơi dùng làm nguồn nước sinh hoạt. Thường xuyên lọc nước uống bằng bộ lọc plastic hay bằng vải để loại trừ bọ chét nước, sinh vật mang ấu trùng giun Guinea. Ngoài ra, có thể xử lý nguồn nước sinh hoạt bằng thuốc diệt ấu trùng đã được phê duyệt. Nên tiếp cận nguồn nước an toàn, hợp vệ sinh, kể cả nguồn nước giếng khoan hay giếng đào.

 

Quan tâm của TCYTTG về loại giun chỉ này

Bệnh giun Guinea gây ra bởi ký sinh trùngDracunculus medinensis đã ảnh hưởng rất lớn đến các mô cơ thể người. Con giun cái mang khoảng 3 triệu phôi có thể đo được 600-800 mm chiều dài và 2 mm đường kính. Ký sinh trùng này di chuyển đi khắp các mô dưới da của nạn nhân, gây nên các cơn đau dữ dội, đặc biệt khi chúng xảy ra tại khớp. Cuối cùng, giun lồi lên (phần lớn là trên mu bàn chân), gây ra các tình trạng phù đau nhức, một vết phỏng lồi trên mặt da và loét đi kèm theo sốt, buồn nôn và nôn mửa.

 

Người bị nhiễm trùng cố gắng làm giảm đau đớn, giảm cảm giác bỏng rát thông qua thoa các dung dịch tại vị trí nhiễm trùng trên cơ thể và rửa các vết thương bàng nguồn nước địa phương. Điều này cũng dẫn đến sự co thắt của giun cái ở tại nền vị trí vết loét, dẫn đến sự trồi đột ngột hàng trăm ngàn ấu trùng giai đoạn 1 vào trong nước. Chúng di chuyển nhanh trong nước, ở đó chúng có thể soogns trong vài ngày.

Sự phát triển tiếp theo, ấu trùng cần đi vào cơ thể các loài giáp xác ăn mồi thích hợp, Cyclops hay các con vật giáp xác nhỏ xíu trong nước có kích thước 1-2 mm và chính là nguyên nhân gây lan rộng trên toàn cầu. Trong cyclops, ấu trùng phát triển thành ấu trùng giai đoạn 3 có khả năng gây nhiễm trong vòng 14 ngày ở điều kiện nhiệt độ 26°C. Khi một người uống nguồn nước ô nhiễm từ các hồ hay các giếng, cyclops có thể bị hòa tan bởi acide dịch vị trong dạ dày và bị ly giải và di chuyển đi xuyên quan thành ruột. Sau 100 ngày, con cái và đực giao phối nhau. Con đực trở nên đóng kén và chết trong mô bị ký sinh, trong khi con cái di chuyển đến các cơ. Sau khoảng một năm nhiễm trùng, con cái trồi lên khỏi mô cơ ở chân, và ly giải hàng trăm ngàn ấu trùng, do đó sẽ lặp lại chu kỳ.

Hiện không có thuốc sẵn có để ngăn ngừa hay chữa khỏi bệnh ký sinh trùng này, ngoại trừ nguồn nước ô nhiễm dùng để uống tại dân cư cần cải thiện. Tuy nhiên, bệnh Dracunculiasis tương đối dễ loại trừ và tiến đến tiêu diệt tác nhân. Đồng thời, bệnh hiếm khi dẫn đến tử vong, song bệnh nhân có thể bị đau trong nhiều tháng, chủ yếu do:

·  Sự nổi lên của giun đôi lúc đi kèm theo phù tại chỗ và đau tăng hơn ở mô bị ảnh hưởng, ngứa là triệu chứng cũng hay gặp với cường độ cao, nổi bọng nước và loét tại vùng mà giun trồi ra;

·  Sự di chuyển và trồi ra của giun xảy ra tại các phần nhạy cảm của giun, đôi khi tại các khoang khớp có thể dẫn đến tàn tật suốt đời;

·  Loét gây ra bởi sự xuát hiện của giun kèm theo nhiễm khuẩn thứ phát và chính điều này làm nặng thêm tình trạng việm và đau, có thể khuyết tật tạm thời trong một vài tuần đến vài tháng;

Khi có sự vỡ ra tình cờ và giun trồi lên tại khoang mô đó có thể dẫn đến các phản ứng dị ứng nghiêm trọng. Tình trạng tàn tật tạm thời có thể trên một số bệnh nhân làm cho bệnh nhân không thể đi lại trong một tháng kể từ khi giun trồi ra. Điều này thường xảy ra trong suốt giai đoạn hoạt động nông nghiệp cao điểm và khi lao động cật lực nhất của mùa.

Dịch tễ học của bệnh được xác định phần lớn nhờ vào sử dụng nguồn nước tù động như nước ao hồ và đôi khi nước từ các giếng. Các hồ nhân tạo là nguồn lan truyền bệnh chính. Bệnh giun này có mùa, xảy ra theo hai mô hình rộng tìm thấy ở các vùng lưu hành bệnh là tại châu Phi, tùy thuộc vào các yếu tố thời tiết tại các vùng đó và thời điểm đỉnh bệnh.

 

Tại vùng Sahelian, sự lan truyền nhìn chung xảy ra vào thời điểm mùa mưa là chính (từ tháng 5 đến tháng 8). Trên các vùng savan ẩm ướt và vùng rừng núi, đỉnh bệnh xảy ra vào các mùa khô (từ tháng 9 đến tháng 1 năm sau). Tuy nhiên, có một sự thay đổi tại chỗ trong các mô hình này. Các yếu tố nguy cơ khác là tỷ lệ mắc bệnh và tình trạng nhiễm trùng có xảy ra vào năm trước đó.

Bệnh giun Guinea là một bệnh có xu hướng dễ nhiễm trên nhóm dân dễ bị thương tổn, các đàn ông chịu trách nhiệm duy trì chu kỳ lan truyền không bền vững. Do vậy, có thể quá trình lan truyền có thể rút ngắn nhờ vào các biện pháp sau đây:

·  Giám sát hiệu quả để phát hiện tất cả ca bệnh trong vòng 24 giờ khi giun xuất hiên trồi lên và tất cả các ca nhiễm;

·  Đảm bảo việc tiếp cận đến các nguồn nước an toàn và có các phương thức cải tiến và làm thế nào từ nguồn nước không an toàn thành an toàn để dân dùng;

· Xây dựng các mái quanh và trên các giếng nước hoặc lắp đặt các các giếng khoan trong lòng đất và dùng bơm tay để lấy nước. Điều này sẽ ngăn chặn được không chỉ bệnh Dracunculiasis mà còn ngăn ngừa một số bệnh tiêu chảy khác;

·  Thường xuyên lọc và uống nguồn nước sạch lây từ các giếng và ao hồ, có thể dùng dng dịch xử lý hoặc biện pháp lọc tinh khiết từ các tấm lọc 0.15 mm nylon để lọc các cyclops từ nguồn nước uống;

·  Xử lý các nguồn nước không an toàn bằng các temephos để giết chết các cyclops;

·  Truyền thông giáo dục sức khỏe và truyền thông thay đổi hành vi vận động cộng đồng có thói qune dùng nước an toàn;

Nếu các biện pháp này được thiết lập bởi các cộng đồng thì mục tiêu chính duy nhất, sau cùng để tiêu diệt bệnh giun tròn này sẽ đạt được.

Tài liệu tham khảo

1.Stefanie Knopp, Ignace K. Amegbo, David M. Hamm, Hartwig Schulz-Key, Meba Banla & Peter T. Soboslay (March 2008). "Antibody and cytokine responses in Dracunculus medinensis patients at distinct states of infection". Transactions of the Royal Society of Tropical Medicine and Hygiene (102 3): 277-283.

2.Langbong Bimi (2007). "Potential vector species of Guinea worm (Dracunculus medinensis) in Northern Ghana". Vector-Borne and Zoonotic Diseases 7 (3): 324–329.

3.Talha Bin Saleem & Irfan Ahmed (2006). ""Serpent" in the breast" (PDF). Journal of Ayub Medical College Abbottabad 18 (4): 67-68. PMID 17591014.

4.G. D. Schmidt & L S. Roberts (2009). Larry S. Roberts & John Janovy, Jr., ed. Foundations of Parasitology (8th ed.). McGraw-Hill. pp. 480–484. ISBN 978-0-07-128458-5.

5."Dracunculiasis (Guinea Worm Disease) Eradication", Ernesto Ruiz-Tiben and Donald Hopkins, Advances in Parasitology, vol. 61 (2006), pp. 275-309.

6.Bimi et al., 2005, New Scientist: South Sudan's votes could kill an ancient disease

7.Emerson, John (July 2003). Eradicating Guinea worm disease: Caduceus caption. Social Design Notes. http://www.backspace.com/notes/2003/07/27/x.html. Retrieved 2007-06-15.

8.Bimi, L et al. (2005)."Differentiating Dracunculus medinensis from D. insignis, by the sequence analysis of the 18S rRNA gene". Annals of Tropical Medicine and Parasitology 99 (5): 511–517.

9."Dracunculus". Integrated Taxonomic Information System. Retrieved February 27, 2007.

Ngày 11/11/2014
TS. Nguyễn Văn Chương, PGS.TS. Triệu Nguyên Trung,
Ths.Bs. Huỳnh Hồng Quang
 

THÔNG BÁO

   Dịch vụ khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn khám bệnh tất cả các ngày trong tuần (kể cả thứ 7 và chủ nhật)

   THÔNG BÁO: Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn xin trân trọng thông báo thời gian mở cửa hoạt động trở lại vào ngày 20/10/2021.


 LOẠI HÌNH DỊCH VỤ
 CHUYÊN ĐỀ
 PHẦN MỀM LIÊN KẾT
 CÁC VẤN ĐỀ QUAN TÂM
 QUẢNG CÁO

Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005
Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.
Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464
Email: impequynhon.org.vn@gmail.com
Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng
Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích