Home TRANG CHỦ Thứ 6, ngày 29/03/2024
    Hỏi đáp   Diễn đàn   Sơ đồ site     Liên hệ     English
IMPE-QN
Web Sites & Commerce Giới thiệu
Web Sites & Commerce Tin tức - Sự kiện
Web Sites & Commerce Hoạt động hợp tác
Web Sites & Commerce Hoạt động đào tạo
Finance & Retail Chuyên đề
Dịch tễ học
Côn trùng học
Nghiên cứu lâm sàng & điều trị
Ký sinh trùng sốt rét
Ký sinh trùng
Sinh học phân tử
Sán lá gan
Sốt xuất huyết
Bệnh do véc tơ truyền
Vi khuẩn & Vi rút
Sán
Giun
Nấm-Đơn bào
Web Sites & Commerce Tư vấn sức khỏe
Web Sites & Commerce Tạp chí-Ấn phẩm
Web Sites & Commerce Thư viện điện tử
Web Sites & Commerce Hoạt động Đảng & Đoàn thể
Web Sites & Commerce Bạn trẻ
Web Sites & Commerce Văn bản pháp quy
Số liệu thống kê
Web Sites & Commerce An toàn thực phẩm & hóa chất
Web Sites & Commerce Thầy thuốc và Danh nhân
Web Sites & Commerce Ngành Y-Vinh dự và trách nhiệm
Web Sites & Commerce Trung tâm dịch vụ
Web Sites & Commerce Thông báo-Công khai
Web Sites & Commerce Góc thư giản

Tìm kiếm

Đăng nhập
Tên truy cập
Mật khẩu

WEBLINKS
Website liên kết khác
 
 
Số lượt truy cập:
5 2 2 7 8 1 8 5
Số người đang truy cập
3 2 2
 Chuyên đề Giun
Phần 1: Điểm mới trong chẩn đoán & điều trị bệnh giun kim Enterobius vermicularis ở người

Bệnh do ký sinh trùng giun kim (Enterobiasis) là bệnh do giun tròn Enterobius vermicularis hay còn gọi là pinworm gây ra, người chính là vật chủ duy nhất được biết đến hiện nay. Loài giun tròn này khá phổ biến và gây tác hại tương đối nghiêm trọng nếu không phát hiện và điều trị kịp thời. Thực tế rất bệnh dễ phát hiện, đặc biệt trên trẻ em thông qua các lời kể của cha mẹ hoặc người giám hộ trẻ, nhưng không dễ chữa trị (đặc biệt loại trừ tiệt căn và các thể ở âm đạo âm hộ). Nếu không thận trọng trong điều trị và phòng bệnh tái phát.

Trước đây tại nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ, kể cả nước phát triển và đang phát triển, đặc biệt các vùng vẫn còn kinh tế chưa phát triển, điều kiện vệ sinh môi trường còn thấp và ý thức vệ sinh cá nhân của người dân chưa cao nên việc nhiễm ký sinh trùng đường ruột nói chung là một trong những vấn đề y tế công cộng phổ biến, đồng thời được cói là các bệnh nhiệt đới đang bị lãng quên (Neglected Tropical Diseases_NTDs).

Theo Tổ chức Y tế thế giới (TCYTTG) cho biết khoảng 1/4 dân số thế giới bị nhiễm giun, tùy thuộc từng vùng, từng khu vực và giai đoạn thời gian mà tỷ lệ nhiễm các loại giun dao động, hơn nữa tỷ lệ đó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như vùng địa lý, khí hậu, tập quán vệ sinh, trình độ dân trí, điều kiện kinh tế-xã hội.

Không những tại các quốc gia đang phát triển, có vệ sinh thấp thì các quốc gia phát triển trên thế giới, giun kim vẫn là loại ký sinh trùng phổ biến và vẫn là vấn đề đáng quan tâm. Việt Nam là một quốc gia nằm trong vùng nhiệt đới, khí hậu nóng ẩm, cùng với ý thức vệ sinh của người dân chưa cao, nên đây là điều kiện rất thuận lợi cho các bệnh giun sán nói chung phát triển quanh năm. Các bệnh ký sinh trùng đường ruột, đặc biệt là bệnh giun kim đã và đang gây ra nhiều tác hại trong cộng đồng dân cư một cách thầm lặng và lâu dài, bệnh xảy ra ở tất cả mọi lứa tuổi. Song, thường gặp ở trẻ em trong lứa tuổi nhà trẻ, mẫu giáo, khu tỵ nạn, đông dân cư. Các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ nhiễm giun giun kim tại một số khu vực từ 18,5-47%, có vùng lên đến 73,45% và tập trung chủ yếu ở lứa tuổi dưới 5.


Hình 1

1. Lịch sử nghiên cứu về bệnh do giun kim ở người

Bệnh giun kim được mô tả và ghi chép lại từ rất lâu trong các tài liệu y học cổ đại. Trong đó có mô tả về một loài giun gây ngứa quanh hậu môn trong quần thể dân cư ở Trung Quốc, Ấn Độ, Ả Rập, Ba Tư, Hy Lạp và La Mã. Hippocrate (Hy Lạp) cũng đã ghi lại kinh nghiệm của mình với các rối loạn giấc ngủ gây ra bởi ký sinh trùng giun kim.

Các nhà khoa học cũng đã tìm thấy trứng giun kim trong các mẫu phân khô hóa thạch ở địa điểm khảo cổ. Trứng giun kim lâu đời nhất được phát hiện từ mẫu phân khô hóa thạch trong các hang động ở Bắc Mỹ có niên đại cách đây 10.000 năm tuổi. Bằng chứng đầu tiên nhiễm trùng giun kim là vào thời Ai Cập (30 BC-AD 395) và trứng giun kim cổ nhất được tìm thấy trong khối phân người hóa thạch vào thời điểm 7800 BC từ các hang động nguy hiểm ở Utah (Fry và Hall., 1969). Giun kim cũng được tìm thấy trên các bản thảo cổ của Hippocrates, xác định niên đại 430 BC. Tác giả Ferreira và cộng sự (1997) và Hugot và cộng sự (1999) xem giun kim như một loại ký sinh trùng đặc hiệu vật chủ và có một lịch sử cùng tiến hóa lâu dài với tổ tiên cổ loài người, nhất là tại châu Phi, trước khi con người phân tán đi các lục địa. Giun kim cổ tìm thấy có mặt ở tại các vùng khảo cổ học khác nhau và theo Goncalves (2002), cho biết phần lớn xuất phát từ các mẫu phân bị hóa thạch tìm thấy ở Mỹ, Chile, Peru, Mexico, Đức, Đan Mạch, Argentina cũng như ở triều đại nhà Hán ở Trung Quốc.

Giun kim được phát hiện thông qua các tư liệu khảo cổ học, người ta đưa ra giả thuyết rằng loại ký sinh trùng này không có nguồn gốc từ châu Mỹ. Điểm đăc biệt, giun kim không như các loài giun khác đòi hỏi nhiệt độ môi trường đất đặc biệt để phát triển thành giai đoạn nhiễm thì giun kim không cần đòi hỏi điều đó và không thể di chuyển đến các vùng lãnh thổ phía bắc cực có khí hậu lạnh.

Một loài thứ hai được cho là của giun kim đã được báo cáo tại châu Âu, châu Phi và châu Á là loài Enterobius gregorii, giun kim này được phân lập vào năm 1983 bởi tác giả Jean-Pierre Hugot. Hình thái học, chu kỳ sinh học và đặc điểm lâm sàng, liệu pháp điều trị tương tự như đối với loài giun kim E. vermicularis và điểm khác biệt duy nhất ở loài E. gregorii là trên hình thái học có lồi ra một chóp hay gai nhỏ hơn (70-80 micromet so với 100-122 micromet).


Hình 2. Các mẫu phân hóa thạch có liên quan phát hiện lịch sử giun kim

Phân loại khoa học giun kim E. vermicularis

Theo phân loại bệnh tật quốc tế, mã đặt cho bệnh giun kim theo ICD-9 là 127.4 và theo ICD-10 là B80. Giun kim thuộc giới động vật (Animalia), ngành giun tròn (Nematoda), lớpSecernentea, dưới lớp Spiruria, bộ Oxyurida, họ Oxyuridae, giống Enterobius và ít nhất có ba loài xác định Enterobius vermicularis (Linnaeus và cs., 1758), Enterobius anthropopitheci (Gedoelst và cs., 1916), Enterobius gregorii (Hugot và cs., 1983).

Người là vật chủ duy nhất đối với Enterobius vermicularis (tên cũ là Oxyurias vermicularis). Các con tinh tinh là vật chủ của giun kim Enterobius anthropopitheci, có hình thái có thể phân biệt rõ ràng với loài giun kim ở người. Hugot (1983) khẳng định có một loài khác cũng ảnh hưởng trên người, đó là Enterobius gregorii, đây được xem là loài “chị em” với loài E. vermicularis và có gai ở phần thân mình hơi nhỏ hơn (ví dụ cơ quan sinh dục). Tuy nhiên, sự tồn tại của nó vẫn còn đang tranh luận. Totkova và cộng sự (2003) cân nhắc vấn đề này vì chưa có đủ bằng chứng và tác giả Hasegawa (2006) cho rằng loài E. gregorii là một giai đoạn còn non của E. vermicularis. Bất luận về sự phân biệt như một loài khác, E. gregorii về mặt lâm sàng được coi giống như E. vermicularis.

Các vấn đề thứ phát khi nhiễm trùng giun kim cần được quan tâm, vì khi trứng định vị ở vùng quanh hố chậu, quanh rìa hậu môn và kích thích ngứa vùng âm đạo. Bệnh nhân thường ngứa và cố gắng làm giảm ngứa (gãi, cào xước) có thể dẫn đến rối loạn giấc ngủ và nhiễm trùng thứ phát do vi khuẩn. Hiếm khi bệnh diễn biến trầm trọng, gây sụt cân, nhiễm trùng đưòng tiết niệu và viêm ruột thừa.

Nhiễm giun kim nên được đặt ra và chẩn đoán nghĩ đến khi một trẻ em biểu hiện ngứa vùng quanh hậu môn và không yên giấc vào bao đêm. Có thể nhìn thấy trực tiếp giun kim trưởng thành hoặc soi dưới kính hiển vi phát hiện trứng, nhưng chỉ có 5% số ca nhiễm có trứng trong phân. Áp dụng test “cellophane tape test” có thể là hướng tiếp cận tốt nhất và nhanh nhất xác định chẩn đoán xác định.

Một số đặc điểm dịch tễ học bệnh trên thế giới và Việt Nam

Đầu thế kỷ XIX những hiểu biết của con người về bệnh giun sán ngày càng được hoàn thiện hơn với nhiều tài liệu khoa học phong phú. Từ thế kỷ XX đến nay, với sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật đã giúp con người ngày càng am hiểu sâu sắc hơn về hình thể, cấu tạo, chu kỳ, vị trí ký sinh và tác hại lên vật chủ các loài giun sán. Đó là tiền đề, cơ sở để thực hiện biện pháp phòng chống nhiễm giun đường ruột nói chung và giun kim nói riêng.

Do giun kim có chu kỳ phát triển trực tiếp không phụ thuộc vào những yếu tố địa lý khí hậu. Trẻ em là lứa tuổi dễ mắc bệnh, đặc biệt tỷ lệ nhiễm cao nhất là trẻ trong độ tuổi mẫu giáo và mầm non. Bệnh có tính chất gia đình và cộng đồng.

Tất cả mọi người trên thế giới đều có thể nhiễm giun kim, không kể phân biệt giới tính, trong đó trẻ em là đối tượng dễ bị nhiễm nhất. Mật độ dân đông đúc là yếu tố quan trọng trong chuyển dịch hay truyền bệnh và tái nhiễm bệnh. Trứng và ấu trùng giun kim có thể khuếch tán ở mọi chỗ và trên mọi vật dụng.


Hình 3

Tình hình nhiễm giun kim E. vermicularis

Tỷ lệ mắc bệnh

Tỷ lệ nhiễm chung trên thế giới khoảng < 5%, chẳng hạn ở Mỹ tỷ lệ nhiễm khoảng 5-15% quần thể dân số chung; tuy nhiên, tỷ lệ này đã giảm rõ trong những năm gần đây do chương trình phòng bệnh tốt ở hầu hết các quốc gia. Bên cạnh đó, tỷ lệ nhiễm lại có khả năng tăng cao hơn ở những cá nhân cùng một cơ sở làm việc, trong khu nhà trẻ, nội trú.

Về giới tính và chủng tộc, tỷ lệ nhiễm giữa hai giới nam và nữ không có gì khác biệt. Tất cả lứa tuổi đều có nguy cơ nhiễm, nhưng lứa yuổi hay gặp nhất là 5-9 tuổi;

Trứng và ấu trùng giun kim có thể khuyếch tán ở mọi nơi (chăn, chiếu, ghế ngồi, móng tay, đủng quần, khăn tay,…).

Trên thế giới:

Bệnh giun kim có ở phần lớn các nước trên thế giới, số liệu cụ thể nhiễm giun kim cho từng khu vực, quốc gia không có sẵn.Ký sinh trùng Enterobius vermicularis, một loại giun tròn kích thước nhỏ và thường gây bệnh các nước nhiệt đới, nóng ẩm và ngay cả quốc gia tiến tiến như Mỹ cũng có tỷ lệ mắc tương đối. Tất cả những điều kiện kinh tế xã hội đều bị ảnh hưởng và nhiễm bệnh thường xảy ra trong những nhóm gia đình. Sự nhiễm giun kim không liên quan tương thuận với điều kiện vệ sinh kém, đây chính là điểm quan trọng khi chúng ta bàn luận về biện pháp điều trị.

Giun kim là một loại ký sinh trùng (KST) có mặt trên khắp thế giới với tỷ lệ nhiễm tại một số quốc gia có khí hậu ôn đới cao. Theo thống kê về tình hình nhiễm giun kim trên thế giới cho thấy tỷ lệ nhiễm giun kim ở trẻ em cao hơn người lớn, mức độ nhiễm có thể thay đổi tùy theo các điều kiện vệ sinh ở các địa phương, các nước nhit đới có tình hình nhiễm KST chung.

Theo thống kê của TCYTTG 2002, có đến 230 triệu trẻ em từ 0-4 tuổi bị nhiễm giun kim. Khu vực cận sa mc Sahara, châu Phi, hay các quốc gia châu Á là những khu vực có tỷ lệ nhiễm cao nhất, đặc biệt là Trung Quốc, Ấn Độ. Chúng phân bố rộng nhất so với bất kỳ loại KST nào với ước tính khoảng 200 triệu người nhiễm trên toàn cầu. Nhiễm trùng phổ biến nhất tại Mỹ và Tây Âu, đồng thời cũng là loài giun đường ruột phổ biến nhất tại các cơ sở chăm sóc sức khỏe ban đầu (CSSKBĐ), bất luận các yếu tố chủng tộc, tình trạng kinh tế xã hội và văn hóa. Như thế giun kim đóng vai trò như một ngoại lệ của quy luật chung của các KST đường ruột là không hoặc ít xảy ra tại các quần thể dân có mức thu nhập cao.

Chỉ tính riêng tại Mỹ, ước tính khoảng 20-40 triệu người và nghiên cứu giám sát của Trung tâm CDC được tiến hành vào năm 1992 tại 35 bang tìm thấy 11,4% trong số 9.597 mẫu xét nghiệm tìm giun kim dương tính. Trong khi các báo cáo cho thấy tỷ lệ nhiễm giun kim chính là trên trẻ em thì báo cáo này cho thấy có cả người lớn cũng nhiễm, đặc biệt trên các hộ gia đình có trẻ em nhiễm lây truyền sang cho các thành viên còn lại trong gia đình. Giun kim có sự phân bố trên phạm vi toàn cầu và là loại giun nhiễm trùng phổ biến nhất tại Mỹ, Tây Âu và châu Đại Dương. Tại Mỹ, một nghiên cứu bởi Trung tâm CDC báo cáo tỷ lệ nhiễm mới là 11,4% ở tất cả mọi nhóm tuổi. Giun kim đặc biệt hay gặp ở trên trẻ em và tỷ lệ nhiễm ở nhóm tuổi này cao có khi lên đến 61% ở Ấn Độ,50% ở Anh, 39% ở Thái Lan, 37% ở Thụy Điển và 29% ở Đan Mạch.

Tật mút ngón tay đã cho thấy có liên quan đến làm tăng tỷ lệ nhiễm và tỷ lệ tái phát nhiễm giun kim và cắn móng tay cũng có mối liên quan như vậy. Vì chúng lây nhiễm từ người này qua người khác rất dễ dàng, nên chúng nhanh chóng lan rộng trên các nhóm người sống chật chội và tiếp xúc gần, có xu hướng xảy ra ở tất cả mọi gia đình. Tỷ lệ lưu hành giun kim không liên quan ưu thế giới tính nào, cũng như không liên đới đến các tầng lớp xã hội, chủng tộc, văn hóa. Giun kim là một ngoại lệ đối với một nguyên lý vì thông thường xu hướng nhiễm trên cộng đồng như các giun truyền qua đất khác. Trường hợp được biết sớm nhất nhiễm trùng trên người có bằng chứng nhiễm qua phát hiện trứng ở trong khối phân hóa thạch với sự can thiệp nghiên cứu khảo cổ học xác định niên đại vào năm 7837 BC tại phía tây Utah của Mỹ. Tuy nhiên, cách nay 240 triệu năm, giun kim là loại giun tròn nhiễm trên loài tổ tiên của các động vật có vú với bằng chứng trứng hóa thạch được phát hiện trong các xỉ phân hóa thạch.

Bệnh do giun kim Enterobius vermicularis gây ra khá phổ biến và gây tác hại tương đối nghiêm trọng nếu không phát hiện và điều trị kịp thời; thực tế rất bệnh dễ phát hiện nhưng không dễ chữa chút nào, nếu không thận trọng trong điều trị và phòng bệnh tái phát và phải lưu ý rằng người chính là vật chủ duy nhất được biết đến hiện nay.

      Trên thế giới, bệnh giun kim có ở phần lớn các nước trên thế giới, số liệu cụ thể nhiễm giun kim cho từng khu vực, quốc gia không có sẵn vì so với các bệnh giun sán khác nó không phải là phổ biến. Giun kim có tên khoa học là Enterobius vermicularis, một loại giun tròn kích thước nhỏ và thường gây bệnh các nước nhiệt đới, nóng ẩm và ngay cả quốc gia tiến tiến như Mỹ cũng có tỷ lệ mắc tương đối. Tất cả những điều kiện kinh tế xã hội đều bị ảnh hưởng và nhiễm bệnh thường xảy ra trong những nhóm gia đình. Sự nhiễm giun kim không liên quan tương thuận với điều kiện vệ sinh kém, đây chính là điểm quan trọng khi chúng ta bàn luận về biện pháp điều trị.

-Năm 1994: Cook Gc cho biết trên thế giới có khoảng 1 tỷ người nhiễm giun kim, tập trung chủ yếu ở trẻ em, nhất là trẻ sống trong môi trường tập thể như nhà trẻ, lớp mẫu giáo. Đồng thời, Norhayati điều tra về tỷ lệ nhiễm giun kim trên 178 trẻ từ 1-8 tuổi tại khu vực nông thôn ở Malaysia là 40,4% , nhiễm giun kim cao hơn đáng kể ở trẻ em 5-7 tuổi;

-Năm 2002: Nghiên cứu của Rim H.J tại 17 tỉnh thành Viêng Chăn, Lào thấy tỷ lệ nhiễm giun kim là 35,7% và Cazorla điều tra  dịch tễ học về giun kim trong số 427 trẻ em trong độ tuổi mầm non và học sinh tiểu học sống ở nông thôn thuộc quận Falcon, tây Bắc của Venezuela cho thấy tỷ lệ nhiễm giun kim khá cao 63,23%;

-Năm 2003: Ở Thái Lan khảo sát tại xã Karen tỉnh Chiang Mai, thấy tỷ lệ nhiễm giun kim là 45,38% và học sinh tiểu học tại quận Bang Plee, tỉnh Samut Prakarn là 38,82%;

-Năm 2005: ở Thổ Nhĩ Kỳ, Celiksoz tiến hành xét nghiệm trên 2.029 trẻ thấy tỷ lệ nhiễm giun kim 15,6%. Tỷ lệ nhiễm giun kim ở ngoại ô là 18,7% và ở trung tâm thành phố chỉ 11,5%;

-Năm 2006: Murray công bố kết quả điều tra trẻ em bị nhiễm giun kim tại Mỹ và Canada là 30-80%.

-Năm 2012: ở Na Uy, Boas tiến hành xét nghiệm 395 trẻ, thấy tỷ lệ nhiễm giun kim 18%, trẻ từ 6-11 tuổi có tỷ lệ nhiễm cao nhất 34% và tại Hàn Quốc, Muan-gun điều tra thấy tỷ lệ nhiễm giun kim 4,5%, tại đảo Geoje nhiễm 9,8%, trẻ em ở ven biển phía tây và nam;

-Năm 2013: Khảo sát nhiễm giun kim ở trẻ em tại 9 tỉnh Trung Quốc cho thấy tỷ lệ nhiễm là 17,8%, tỷ lệ nhiễm giun kim ở nông thôn 28,5% cao hơn so với thành thị 7,3%.

Việt Nam:

ViệtNam nằm ở khu vực Đông Nam Á,có khí hu nhiệt đới nóng ẩm. Đó cũng là điều kiện thuận lợi cho các bệnh giun đường ruột phát triển.Mặt khác nềnkinh tế chưa phát triển,trình độ dân trí còn hạn chế, tình trạng vệ sinh môi trường chưa tốt, tập quán sinh hoạt, canh tác còn lạc hậu... Tất cả những yếu tố trên đã làm cho tình trạng bệnh giun đường ruột ở nước ta là một bệnh phổ biến, mang tính chất cộng đồng. Các bệnh giun đường ruột đã và đang gây ra tác hại rộng lớn trong cộng đồng một cách thầm lặng và lâu dài. Bệnh có tác hại đến mọi lứa tuổi, song quan trọng nhất vẫn là tác hại ở lứa tuổi trẻ em.

Ở Việt Nam, tỷ lệ nhiễm giun kim chung từ 18,5-47%. Tỷ lệ trẻ em ở thành phố nhiễm cao hơn ở nông thôn, nữ cao hơn nam (nam 40,89%, nữ 45,48%). Mật độ nhiễm tăng nhanh từ 1-5 tuổi và sau đó giảm dần theo tuổi lớn hơn (trẻ em dưới 1 tuổi: 1,88%, từ 1-5 tuổi: 51,16%). Trẻ em sống tập thể có tỷ lệ nhiễm cao hơn trẻ em sống ở gia đình. Kết quả điều tra của bộ môn ký sinh trùng Đại học Y Hà Nội tại một nhà trẻ thấy 42% móng tay trẻ em có trứng giun kim, 12% sách vở có trứng giun kim. Số lượng trứng phát tán rất cao, ở một chiếc chiếu đã tìm thấy được tới 257 trứng giun kim. Theo số liệu thống kê của Viện Sốt rét-KST-CT TƯ, tỷ lệ nhiễm giun kim ở miền Bắc từ 29-43%, miền Trung là 7,5%, khu vực Tây Nguyên là 50% và vùng đồng bằng Nam bộ là 16-47%. Tỷ lệ nhiễm cao nhất là đối tượng trẻ em, ở thành phố mắc cao hơn nông thôn, nữ mắc hơn nam giới. bệnh thường xảy ra ở môi trường nhà trẻ và mẫu giáo, trường mầm non; trẻ từ 1-5 tuổi nhiễm với tỷ lệ cao nhất (51,2%), trẻ từ 11 tuổi trở lên thì tỷ lệ nhiễm giảm dần. Do bệnh dễ lây lan nên có thể gặp ở những gia đình có nhiều người mắc hoặc trong cả khu nhà trẻ.

-Năm 1994: Trần Thị Thanh Tâm điều tra cho thấy trẻ em tại hai trường mầm non 15A quận Phú Nhuận và mầm non Linh Xuân (quận Thủ Đức) có tỷ lệ nhiễm giun kim là 47,86%, tỷ lệ trẻ nhiễm giun kim ở nội thành (mầm non 15A, quận Phú Nhuận) 43,53% thấp hơn so với ngoại thành (mầm non Linh Xuân) 50,4%; tỷ lệ nhiễm giun kim tăng theo lứa tuổi, cao nhất ở trẻ 5-6 tuổi 56,86%;

-Năm 1996: Phan Thị Hương Liên xét nghiệm 276 trẻ lứa tuổi mẫu giáo (36-60 tháng), cho thấy tỷ lệ nhiễm giun kim 12,5%. Cùng năm này, Nguyễn Văn Dũng nghiên cứu nhiễm giun kim ở trẻ em TP. Buôn Ma Thuột lứa tuổi từ 1-10 với tỷ lệ nhiễm 73,5%;

-Năm 1997: Thân Trọng Quang điều tra tỷ lệ nhiễm giun kim ở một số nhà trẻ và trường mẫu giáo TP. Buôn Ma Thuột là 80,24%;

-Năm 2002: Phạm Thị Hiển điều tra tỷ lệ nhiễm giun kim trên trẻ em và ở ngoại cảnh tại ba trường mầm non ở Thái Nguyên cho thấy tỷ lệ nhiễm giun kim là 45,59%, ở móng tay với 107 mẫu xét nghiệm, tỷ lệ nhiễm 29,91%; ở sàn nhà với 150 mẫu xét nghiệm, tỷ lệ nhiễm chung 17,5%; ở đồ chơi 120 mẫu xét nghiệm thì tỷ lệ nhiễm chung là 17,5%;

-Năm 2004: Vũ Văn Thái nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ học giun kim ở trẻ em 1-6 tuổi tại trường mầm non Hải Phòng cho thấy tỷ lệ nhiễm giun kim chung là 23,35%. Tỷ lệ nhiễm giun kim ở nhóm 12-36 tháng tuổi chiếm 29,0% và nhóm 37-72 tháng tuổi chiếm 37,5%. Đồng thời, năm này Lại Quang Sáng đánh giá tình hình nhiễm giun kim trẻ em tuổi nhà trẻ, mẫu giáo tại trường mầm non số 2 TP. Nam Định cho thấy tỷ lệ nhiễm giun kim là 35,23% và có khuynh hướng tăng dần theo nhóm tuổi;

-Năm 2005: Nguyễn Thị Hường khảo sát tại hai huyện EaKar và EaSúp, tỉnh Đắk Lắk thấy tỷ lệ nhiễm giun kim ở trẻ trong độ tuổi nhà trẻ, mẫu giáo là 44,5%; tỷ lệ nhiễm giun có liên quan đến mức thu nhập kinh tế gia đình. Những gia đình kinh tế khá và giàu có tỷ lệ nhiễm là 11,0% thấp hơn nhiều so với những gia đình kinh tế khó khăn 50,3%;

-Năm 2006: Giang Thùy Dương tiến hành điều tra ở một số nhà trẻ, mẫu giáo phường Tân An, TP. Buôn Ma Thuột và xã EaDrơng, huyện Cư Mgar, tỉnh Đắk Lắk cho thấy tỷ lệ nhiễm giun kim chung là 36,09%; nhóm tuổi càng nhỏ thì tỷ lệ nhiễm càng cao. Nhóm tuổi nhiễm giun kim cao nhất là 2-3 tuổi (50,98%), sau đó đến 4-5 tuổi (39,87%) và nhóm 6 tuổi (21,5%); tỷ lệ nhiễm giun ở trẻ em dân tộc thiểu số (23,43%) thấp hơn trẻ em người Kinh (53,5%). Cùng năm này, Lê Thị Ánh Tuyết khảo sát 1.162 trẻ tại ba xã thuộc huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, cho thấy tỷ lệ nhiễm giun kim là 54,7%, tỷ lệ nhiễm giun kim ở nhóm 37-72 tháng tuổi (60,5%) cao hơn nhóm 12-36 tháng tuổi (49,6%);

-Năm 2007: Chu Thị Thảo xét nghiệm cho tỷ lệ nhiễm giun kim ở trẻ em dưới 6 tuổi tại trường mầm non Hoa Pơ Lang, phường Ea Tam, TP. Buôn Ma Thuột năm 2007 là 37,15%;

-Năm 2009: Phan Văn Trọng nghiên cứu tại hai buôn Đơn P’lang và buôn Đắk R’Mmưc, xã Krông Nô, huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk cho thấy tỷ lệ nhiễm giun kim ở lứa tuổi nhà trẻ, mẫu giáo là 44,8%. Cùng năm này, Nhữ Thị Hoa nghiên cứu tỷ lệ nhiễm giun kim trên trẻ mẫu giáo huyện Củ Chi, TP. Hồ Chí Minh từ 2008-2009 với 1.677 trẻ, cho thấy tỷ lệ nhiễm giun kim là 30,7%;

-Năm 2011: Nguyễn Tín xét nghiệm trên 388 trẻ tại 23 trường mầm non huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, thấy tỷ lệ nhiễm giun là 45,1%; trẻ ở trường mầm non đạt chuẩn Quốc gia có tỷ lệ nhiễm giun kim (24%) thấp hơn trẻ ở trường mầm non không đạt chuẩn (48,2%);

-Năm 2012: Nguyễn Xuân Hạnh khảo sát trên 578 trẻ tại thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận, cho thấy tỷ lệ nhiễm giun kim là 15,2%; tỷ lệ nhiễm giun kim ở nhóm trẻ nam (15,6%) cao hơn tỷ lệ nhiễm giun kim ở nhóm trẻ nữ (14,7%);

Các yếu tố liên quan gây nhiễm giun kim E. vermicularis

Môi trường có trứng giun kim

Sàn nhà, bàn ghế, đồ chơi, chăn chiếu trong gia đình, trong tập thể có trẻ nhiễm giun kim đều có thể có trứng giun kim. Một nghiên cứu ở bộ môn KST trường ĐH Y Thái Nguyên đã nghiên cứu mức độ ô nhiễm trứng giun kim ở ngoại cảnh tại trường mầm non, thu được kết quả là mẫu sàn nhà có (20%) số mẫu có nhiễm trứng giun kim, như bàn ghế (17,5%), đồ chơi (17,5%), móng tay trẻ (29,91%). Điều này chứng tỏ mức độ phát tán đáng kể của trứng giun ra ngoại cảnh. Theo kết quả nghiên cứu Nguyễn Văn Dũng (1996), trẻ học ở các nhà trẻ nhiễm cao hơn trẻ đang ở nhà. Lý giải sự khác biệt này là do môi trường nhà trẻ, mẫu giáo có ảnh hưởng đến tỷ lệ nhiễm giun kim do sự phát tán trứng giun kim ra ngoại cảnh trong môi trường nhà trẻ rất cao, trẻ thường được cô giáo cho ngồi sinh hoạt dưới sàn lớp học, trứng giun từ rìa hậu môn sẽ có cơ hội phát tán ra môi trường, lớp mẫu giáo thường có nhiều đồ chơi, đây chính là nơi trứng giun sẽ bám vào. Sàn nhà và đồ chơi đã nhiễm trứng trở thành nguồn nhiễm chủ yếu tử trẻ này sang trẻ khác.

Tập quán sinh hoạt vệ sinh kém

Cho trẻ mặc quần hở đũng/ đáy quần sẽ là điều kiện để trứng giun ở hậu môn trẻ rơi vãi ra giường chiếu. Để trẻ mút ngón tay, cắn móng tay sẽ thành thói quen xấu, mất vệ sinh. Sự hiểu biết về bệnh giun kim và cách phòng tránh còn hạn chế trong nhân dân. Do những người chăm sóc trẻ có những suy nghĩ chưa đúng về vấn đề chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ như: cho trẻ mặc quần áo ngủ đi học, không rửa hậu môn cho trẻ hàng ngày vào buổi sáng sớm bằng nước xà phòng.... đó cũng là những điều kiện thuận lợi làm lây lan bệnh giun kim trong các tập thể nhỏ, nhà trẻ, mẫu giáo.

Ổ chứa của giun kim

Người là vật chủ tự nhiên duy nhất của giun kim và cho đến gần đây cũng không có một ổ chứa nào xác nhận là ổ chứa của chúng. Tuy nhiên, vào năm 2004, Chan và cộng sự trình bày sự tồn tại giun kim và giun xoắn Trichinella spiralis trên các con gián ở các bệnh viện và trường học ở Hawaii. Trong khi biết gián là các con vật mang vi khuẩn và nấm sinh bệnh ở người, thì mối liên kết giữa gián với các giun sán gây bệnh vẫn chưa được minh chứng làm rõ và đây là báo cáo đầu tiên về nhiễm giun kim xảy ra tự nhiễm trên các con gián.

Năm 2005, Tatfeng và cộng sự đã phân lập được trứng giun kim trên các con gián (Diploptera punctata), cũng như trứng, bào nang, nang trứng và giun trưởng thành của một số ký sinh trùng khác đồng thời. Nhóm tác giả này bắt được 234 con gián từ các vùng quanh nhà ở Ekpoma, châu Phi. Các con gián sau khi bắt được đem để vào trong các hộp chứa dung dịch formol saline, rồi tiếp đó rung mạnh để tách ký sinh trùng ra khỏi côn trùng gián này. Dung dịch sau đó mang đily tâm và soi dưới kính hiển vi. Các thử nghiệm từ cả hai nghiên cứu đã có giá trị rất lớn về mặt y tế công cộng. Gián thì có khắp mọi nơi và cả hai nghiên cứu đã phát hiện giun kim trên gián là một khía cạnh có giá trị trong nghiên cứu về ổ chứa. Nếu đây là một ổ chứa bổ sung ngoài con người, thì việc phòng chống quần thể gián cũng như hạn chế về mặt phơi nhiễm của gián có thể làm giảm thiểu tối đa không chỉ cho quá trình lan rộng của giun kim mà còn nhiều bẹnh nhiễm trùng khác nữa.

Tỷ lệ mắc bệnh, với tỷ lệ nhiễm chung trên thế giới khoảng < 5%, chẳng hạn ở Mỹ tỷ lệ này nhiễm khoảng 5-15% quần thể dân số chung; tuy nhiên, tỷ lệ này đã giảm rõ trong những năm gần đây do chương trình phòng bệnh tốt ở hầu hết các quốc gia. Bên cạnh đó, tỷ lệ nhiễm lại có khả năng tăng cao hơn ở những cá nhân cùng một cơ sở làm việc, trong khu nhà trẻ, nội trú,…

   Gần đây, người ta cũng suy xét chính bản thân giun kim có thể đóng vài trò như một vật chủ trung gian đối với tác nhân Dientamoeba fragilis, một loại đơn bào “bí ẩn” mà vẫn sống chật vật để được công nhận như một tác nhân sinh bệnh ở người tại một số quốc gia. Tuy nhiên, một sự gia tăng các nghiên cứu đang quy trách nhiệm nó như một tác nhân đường ruột chính thông và nó có liên quan đến các hội chứng lâm sàng như đau bụng, tiêu chảy, nôn mửa, buồn nôn và suy nhược cơ thể.

Tuy nhiên, những điều cần biết về loại tác nhân này hiện vẫn còn đang nghiên cứu, kể cả sự lan truyền bệnh. Hầu hết các đơn bào đường ruột lây truyền qua con đường phân miệng thông qua thể nang, thì loài D. fragilis nhìn chung được chấp nhận là không có thể nang này.

Do đó, các nghiên cứu đã quay trở lại với họ hàng gần gũi nó nhất là loài Histomonas meleagridis để so sánh. Loài đơn bào H. meleagridis sở hữu một số đặc tính có thể so sánh với loài D. fragilis và điều thú vị là nó lây truyền thông qua trứng của giun tròn Heterakis gallinae. Burrows và Swerldlow (1956) đề xuất chúng ta nên xem D. fragilis lây truyền thông qua trứng của giun kim dựa trên các phân tích trên 22 ruột thừa đã được phân lập D. fragilis, kết quả phân tích cho thấy rằng tỷ lệ nhiễm giun kim cao gấp 20 lần và các vật thể dạng amip nhỏ có sự tương đồng rất có ý nghĩa với nhân của D. fragilis được phát hiện trong trứng giun kim. Song, dù gì đi nữa có chăng D. fragilis còn liên quan đến các ký sinh trùng đường ruột khác, như giun đũa Ascaris lumbricoides chẳng hạn và thiếu giai đoạn thể nang vẫn chưa thể chứng minh, vì D. fragilis dã được tìm thấy với tỷ lệ cao đồng nhiễm với các vi sinh vật khác cũng lây truyền theo con đường phân miệng.

Sự lan truyền bệnh giun kim

Giun kim lây truyền từ người sang người do ăn phải hoặc nuốt phải trứng giun gia đoạn nhiễm và/ hoặc đi vào con đường hậu môn. Trứng giun có thể chịu đựng và còn sống và gây nhiễm được đến 3 tuần trong môi trường ẩm. Chúng không chịu nhiệt nóng nhưng có thể sống trong nhiệt độ thấp, 2/3 số trứng giun có thể sống sau 18 giờ ở điều kiện nhiệt độ -8°C.

Tất cả các trứng đầu tiên đều đào thải ra (hoặc theo phân) và dính lại vùng gần hậu môn, chúng sẵn sàng lây nhiễm sàng bề mặt khác nếu tiếp xúc với chúng còn có khả năng nhiễm. Bề mặt trứng của chúng dễ dính khi mới đẻ ra, nên dễ dính và gây nhiễm từ vùng quanh hậu môn sang móng tay, bàn tay, quần áo và chăm nệm vào ban đêm. Từ đây, các trứng sẽ tiếp tục lây truyền sang các nguồn khác như thức ăn, thực phẩm, nước, đồ gỗ, đồ chơi trẻ, vật dụng nhà tắm và các vật dụng sinh họat khác. Các vật cưng trong nhà thường mang trứng dính vào trong các lông thú cưng, trong khi đó chúng không thực sự nhiễm. Các đám rác mang trứng có thể lây truyền qua môi trường không khí và có thể phân tán lan rộng khi chúng được đổ ra khỏi bề mặt, ví dụ như khi giũ các quần áo ngủ hoặc mềm màng.


Hình 4

Do vậy, trứng có thể đi vào miệng, mũi thông qua con đường hít và nuốt sau đó. Mặc dù giun kim không thật sự nhân lên trong cơ thể vật chủ người, song một số ấu trùng giun kim có thể đẻ ra ở vùng niêm mạc của hậu môn và di chuyển lên đến ruột và đi vào đường tiêu hóa của vật chủ ban đầu theo một chu trình, gọi là nhiễm trùng ngược dòng (retroinfection). Khi nhiễm trùng ngược dòng xảy ra, nó có thể dẫn đến một tải lượng giun lớn nhiễm nặng và đảm bảo cho quá trình nhiễm giun kim xảy ra tiếp tục hoặc không gây nên bất kỳ triệu chứng lâm sàng có ý nghĩa nào. Mặc dù có giới hạn, tuổi thọ giun kim trung bình là 13 tuần, chu trình tự nhiễm (autoinfection), hoặc nhiễm thông qua con đường hậu môn - miệng hoặc thông qua nhiễm trùng ngược dòng, nên thường là phải điều trị lặp lại với khoảng cách mỗi 2 tuần để loại bỏ nhiễm trùng hoàn toàn.

   Trứng và ấu trùng giun kim có thể khuyếch tán ở mọi nơi (chăn, chiếu, ghế ngồi, móng tay, đủng quần, khăn tay). Loài ký sinh trùng giun kim có tên khoa học là E. vermicularis hoặc thường gọi theo một từ đồng nghĩa thường gọi là pinworm ký sinh trong cơ thể người gây nên. Về sinh lý bệnh và chu kỳ sinh bệnh diễn ra như sau: E. vermicularis là một ký sinh trùng bắt buộc, người là vật chủ tự nhiên duy nhất, đường lây truyền là phân - miệng, thông qua các vật dụng quần áo, đồ chơi và đó cũng chính là các phương thức lây truyền thông thường nhất.

Sau khi nuốt phải, trứng thường đẻ trứng trong tá tràng trong vòng 6 giờ. Giun trưởng thành sau đó khoảng chừng 2 tuần và có tuổi thọ khoảng 2 tháng. Giun trưởng thành thường ký sinh ở đoạn cuối của hổng tràng, hồi tràng, túi ruột thừa và đoạn đầu của đại tràng lên. Những con giun sống tự do trong thành ruột non và hiện nay có rất ít bằng chứng chứng minh có sự xâm nhập của của giun này vào các mô bình thường hoặc mô lành của cơ thể dưới những điều kiện bình thường.

   Giun cái di chuyển đến trực tràng, sau khi giao phối và nếu không bị tống ra theo phân thì sẽ tiếp tục di chuyển đến vùng đáy chậu (thường vào ban đêm), nơi đó chúng có thể đào thải ra khoảng 11.000-16.000 trứng. Trứng trưởng thành có khả năng gây nhiễm trong vòng 6-8 giờ và dưới điều kiện thuận lợi, tối ưu, khả năng gây nhiễm vẫn duy trì trong môi trường kéo dài đến 3 tuần.Vì thời gian ủ bệnh ngắn cho đến khi trứng gây nhiễm, các trứng này đào thải và nếu vô ý bằng cách nào đó chúng di chuyển và nằm dưới kẻ móng tay, từ đó dễ dàng đưa vào miệng hình thành phương thức lan truyền bệnh.


Hình 5

Bệnh giun kim là bệnh giun đường ruột dễ lây, có chu kỳ phát triển không cần qua môi trường đất, không phụ thuộc vào yếu tố địa lý, khí hậu. Bệnh lây truyền chủ yếu qua đường hậu môn - tay - miệng. Bệnh phổ biến ở lứa tuổi nhà trẻ, trường mầm non trong điều kiện sống tập thể với môi trường kém vệ sinh.

Giun kim thuộc ngành giun tròn, sống ký sinh chủ yếu ở manh tràng, đại tràng của người, với tính chất sinh học đặc thù, nhiễm giun kim lây lan trong cộng đồng mạnh hơn các loại giun khác ký sinh đường ruột. Nhiễm giun kim thường gặp ở trẻ em, với tỷ lệ nhiễm cao ở trẻ em độ tuổi đi học, đặc biệt rất cao ở tuổi nhà trẻ mẫu giáo, sống trong môi trường tập thể. Trẻ nhiễm giun kim kéo dài có thể chậm phát triển thể chất và trí tuệ, giảm khả năng học tập, bệnh có thể gây suy dinh dưỡng và nguy hiểm hơn khi giun kim di chuyển lạc chỗ có thể gây ra viêm ruột thừa, viêm cơ quan sinh dục và nhiều biến chứng khác.

Tác nhân gây bệnh

Loài ký sinh trùng giun kim có tên khoa học là Enterobius vermicularis hoặc thường gọi theo một từ đồng nghĩa thường gọi là pinworm ký sinh trong cơ thể người gây nên.

Giun kim trưởng thành có kích thước nhỏ, trong đó kích thước con đực đo được 2-5mm và con cái là 8-13 mm. Giun kim đầu tiên sống trong mạnh tràng. Từ đó, các con cái di chuyển vào ban đêm, đẻ rất nhiều trứng 15.000 trứng trong vùngquanh hay vùng rìa (giữa hậu môn và bộ phận sinh dục).

Trứng có thể lan rộng thông qua con đường phân miệng đến các vật chủ mới. Trứng dính ở vùng quanh rìa hậu môn có thể lây sang người khác ở cùng một nhà, có thể dẫn đến các thành viên trong gia đình nhiễm bệnh.

Trứng đẻ ra trong tá tràng và ấu trùng trưởng thành trong suốt quá trình di chuyển đến đại tràng. May thay, hầu hết các trứng bị khử nước và làm khô trong vòng 72 giờ. Nếu không có quá trình tự nhiễm trên vật chủ, thì quá trình nhiễm trùng thường chỉ kéo dài 4-6 tuần và tự chấm dứt.

Giun trưởng thành

Giun kim tên khoa học E. vermicularis là một loại giun hình ống, kích thước nhỏ, màu trắng đục, phần đầu hơi phình, có hai mép hình lăng trụ chạy dọc hai bên thân như hai nếp gờ, phần đuôi thon, nhọn.

Miệng có ba môi nhỏ, những môi này có thể thụt vào miệng, không có bao miệng. Phần cuối thực quản có ụ phình, đây là đặc điểm quan trọng để nhận biết giun kim. Tiếp theo thực quản là ruột chạy xuống phía đuôi, hậu môn đổ ra gần cuối đuôi.


Hình 6. Cấu tạo các cơ quan trong cơ thể giun kim E. vermicularis

Kích thước giun kim cái khoảng 8-13 x 0,3-0,5 mm, đuôi thẳng, hậu môn cách mút đuôi khoảng 2mm. Cơ quan sinh dục gồm hai buồng trứng nhỏ, hai ống dẫn trứng, hai tử cung chứa đầy trứng chiếm đầy xoang thân của giun, xếp thành hai hàng trước và sau thân, lỗ sinh dục cái nằm ở vị trí 1/3 trước thân.

Giun đực có kích thước nhỏhơn, khoảng 2-5 x 0,1-0,2 mm, đuôi uốn cong về phía bụng, cuối đuôi có gai sinh dục. Bộ máy sinh dục gồm hai tinh hoàn hình ống, ống dẫn tinh.

4.2. Trứng giun kim

Trứng giun kim có hình bầu dục, một mặt phồng, bị lép một góc như đầu bánh mì, một mặt lép. Kích thước trứng khoảng 50-60 x 30 µm. Vỏ mỏng, nhẵn, có hai lớp, không màu, không bắt màu vàng của sắc tố mật có trong phân. Trứng phát triển nhanh nên thường thấy ấu trùng ở bên trong, hoặc ở giai đoạn phôi hình quả dâu.


Hình 7. Hình thể trứng giun kim E. vermicularis

Đặc điểm về sinh thái liên quan đến giun kim

5.1. Dinh dưỡng của giun kim

Giun kim sống ký sinh trong ruột và lấy các chất dinh dưỡng có ở trong ruột. Mức độ tiêu thụ chất dinh dưỡng của giun kim không đáng kể nhưng có tác hại trên niệm mạc ruột, có thể hình thành những rối loạn về tiêu hóa.

5.2. Chu kỳ phát triển của giun kim

- Chu kỳ bình thường

Giun kim là một ký sinh trùng bắt buộc, người là vật chủ tự nhiên duy nhất. Đường lây truyền là hậu môn - tay - miệng, thông qua các vật dụng quần áo, đồ chơi và đó cũng chính là các phương thức lây truyền phổ biến nhất.

Sau khi nuốt phải, trứng, trứng đi tới ruột non nở thành ấu trùng, rồi di chuyển xuống manh tràng. Giun trưởng thành sau đó khoảng chừng hai tuần kể từ khi xâm nhập và có tuổi thọ khoảng hai tháng. Giun trưởng thành thường ký sinh ở đoạn cuối hổng tràng, hồi tràng, túi ruột thừa và đoạn đầu của đại tràng lên. Đầu chúng bám vào màng nhày ruột.

Giun đực sau khi giao phối sẽ chết và bị tống ra ngoài theo phân. Giun cái sau khi giao phối, với tử cung đầy trứng, di chuyển về phía trực tràng, tới hậu môn, rồi ra vùng quanh hậu môn, đẻ trứng ở các nếp nhăn hậu môn. Thường đẻ trứng vào buổi tối.

Một giun cái mỗi tối đẻ 5.000-17.000 trứng, trong khoảng thời gian từ 15-45 phút. Sau khi đẻ giun cái teo lại và chết đi.

Trứng sinh ra có phôi ngay, sau vài giờ có khả năng gây nhiễm và dưới điều kiện thuận lợi, tối ưu, khả năng gây nhiễm vẫn duy trì trong môi trường kéo dài đến ba tuần. Thường không thấy trứng giun kim trong phân, hoặc chỉ thấy ở đầu bãi phân. Người nuốt phải trứng thường qua tay bẩn hoặc đồ vật có nhiễm trứng giun, đưa lên miệng. Trứng qua miệng xuống ruột nở ra ấu trùng, ấu trùng xuống manh tràng, đại tràng, phát triển thành giun trưởng thành.

Giai đoạn ở ngoại cảnh: Trứng giun kim từ hậu môn rơi vãi ra giường chiếu, sàn nhà, gặp nhiệt độ thích hợp (khoảng 300C) sẽ phát triển thành trứng có ấu trùng sau 6 giờ. Vì vậy, người nhiễm giun kim dễ tự tái nhiễm nếu bệnh nhi dùng tay gãi hậu môn, sau đó tay cầm vào những vật dụng hoặc thức ăn, uống. Trứng không phát triển được ở trên 400C hoặc dưới 200C. Trứng bị diệt ở nhiệt độ trên 600C. Các hóa chất diệt được trứng là nước xà phòng nồng độ trên 2%, cồn 900 và dung dịch cresyl 10%.

Người nuốt phải trứng giun kim có ấu trùng sẽ bị nhiễm giun. Vào tới ruột non trứng nở thành ấu trùng rồi di chyển xuống manh tràng để ký sinh. Ấu trùng giun kim không có giai đoạn chu du trong cơ thể. Thời gian hoàn thành chu kỳ là 28 ngày, đời sống của giun kim là 2 tháng.


Hình 8. Chu trình phát triển và tự nhiễm của giun kim E. vermicularis

- Chu kỳ không điển hình

Có những trường hợp, trứng giun kim phát triển thành ấu trùng nở ở ngay nếp kẻ hậu môn của bệnh nhân rồi di chuyển gược lên ống tiêu hóa đến manh tràng để ký sinh và phát triển thành giun kim trưởng thành. Cũng trong chu kỳ bất thường, có thể do ảnh hưởng của các men tiêu hóa, do hàm lượng oxy trong ống tiêu hóa, giun kim cái có thể đẻ ngay ở ruột, ấu trùng phát triển và trở thành tự do ngay ở ruột.

5.3. Đường lây truyển của giun kim

- Lây truyền trực tiếp:

Đường lây truyền chủ yếu của giun kim là từ hậu môn - tay - miệng. Khi trẻ bị nhiễm giun kim, giun cái đẻ trứng tại các nếp nhăn hậu môn vào buổi tối, trứng phát triển thành ấu trùng ngay tại hậu môn của trẻ. Khi đó trẻ có cảm giác ngứa ngáy, ngọ nguậy, rối loạn giấc ngủ. Nếu không được rửa hậu môn cho trẻ thì theo phản xạ trẻ gãi hậu môn, trứng có ấu trùng bám vào tay trẻ. Khi trẻ đưa tay vào miệng hay cầm thức ăn đưa vào miệng, ấu trùng sẽ theo vào đường tiêu hóa và phát triển thành giun trưởng thành.

- Lây truyền gián tiếp:

Đây là con đường lây truyền trứng giun kim qua tay bẩn từ người này sang người khác. Khi trẻ có phản xạ gãi hậu môn, trứng có ấu trùng giun kim được phân tán khắp nơi (chăn, chiếu, mền, đồ chơi của trẻ). Trẻ cầm nắm các vật dụng, đồ chơi, trứng có ấu trùng bám vào tay trẻ.

Nếu trẻ không được rửa tay ngay sau khi cầm đồ chơi, mà đưa tay vào miệng hay cầm nắm thức ăn đưa vào miệng, ấu trùng theo vào đường tiêu hóa và phát triển thành giun trưởng thành. Hoặc ở một môi trường bị nhiễm, bụi lơ lửng trong không khí cũng có thể chứa trứng giun kim và người ta có thể bị nhiễm khi hít phải những phần bụi đó. Thường gặp đường lây truyền này trong các nhà trẻ, trường mầm non.

Sinh lý bệnh học do giun kim

Giun E. vermicularis là một ký sinh trùng bắt buộc; người là vật chủ tự nhiên duy nhất, đường lây truyền là phân-miêng, thông qua các vật dụng quần áo, đồ chơi và đó cũng chính là các phương thức lây truyền thông thường nhất. Sau khi nuốt phải, trứng thường đẻ trứng trong tá tràng trong vòng 6 giờ.

Giun trưởng thành sau đó khoảng chừng 2 tuần và có tuổi thọ khoảng 2 tháng. Giun trưởng thành thường ký sinh ở đoạn cuối của hổng tràng, hồi tràng, túi ruột thừa và đoạn đầu của đại tràng lên. Những con giun sống tự do trong thành ruột non và hiện nay có rất ít bằng chứng chứng minh có sự xâm nhập của của giun này vào các mô bình thường hoặc mô lành của cơ thể dưới những điều kiện bình thường.

  

 Hình 9a. Sinh bệnh học trên cơ thể người do giun kim
E. vermicularis

 Hình 9b. Viêm ruột thừa thứ phát sau nhiễm giun kim
E. vermicularis

Giun cái di chuyển đến trực tràng, sau khi giao phối và nếu không bị tống ra theo phân thì sẽ tiếp tục di chuyển đến vùng đáy chậu (thường vào ban đêm), nơi đó chúng có thể đào thải ra khoảng 11.000 trứng. Trứng trưởng thành có khả năng gây nhiễm trong vòng 6-8 giờ và dưới điều kiện thuận lợi, tối ưu, khả năng gây nhiễm vẫn duy trì trong môi trường kéo dài đến 3 tuần.Vì thời gian ủ bệnh ngắn cho đến khi trứng gây nhiễm, các trứng này đào thải và nếu vô ý bằng cách nào đó chúng di chuyển và nằm dưới kẻ móng tay, từ đó dễ dàng đưa vào miệng hình thành phương thức lan truyền bệnh.

Giun cái có kích thước trung bình 10 mm x 0,7 mm, ngược lại giun đực thì nhỏ hơn. Giun kim đẻ trứng ở nếp kẻ hậu môn, ấu trùng bên trong trứng sẽ phát triển sau 4-6 giờ; người nuốt phải trứng giai đoạn nhiễm; sau đó ấu trùng thoát vỏ trong ruột non; giun kim trưởng thành sống trong ruột già, thời gian từ khi nuốt phải trứng (giai đoạn nhiễm) đến khi phát triển thành con trưởng thành và đẻ trứng mất khoảng 1-2 tháng, ban đêm giun cái có trứng di chuyển đến hậu môn và đẻ trứng ở các nếp nhăn quanh hậu môn (đồng thời lúc phát sinh triệu chứng của trẻ nhiễm và ngứa).


Hình 10. Triệu chứng lâm sàng, đường đi và chu trình tự nhiễm giun kim E. vermicularis

Sự tự nhiễm hoặc bò ngược của ấu trùng mới nở từ quanh vùng da hậu môn lên trực tràng có thể gây bệnh nhưng cơ chế chưa được biết rõ. Khi ở trong ruột, giun kim có thể gây những tổn thương kích thích niêm mạc ruột, làm rối loạn tiêu hóa hoặc gây tình trạng viêm ruột mạn tính, có thể gây nổi mẩn, dị ứng, mày đay, nếu giun kim chui vào ruột thừa có thể gây viêm ruột thừa, đôi khi giun kim chui sang bộ phận sinh dục (nhất là trẻ em nữ) gây viêmsinh dục, âm hộ-âm đạo, rối loạn tiểu tiện và thậm chí rối loạn kinh nguyệt.

   Nhiễm trùng thứ phát do vi khuẩn ở vùng da quanh hậu môn do trẻ ngứa, khó chịu đưa tay vào gãi gây trầy, xướt, loét. Sự tái nhiễm thường xuyên là tất yếu, vì quá trình nhiễm có thể kéo dài khi con giun cái tiếp tục đẻ trứng trong nếp kẻ hậu môn. Rối loạn giấc ngủ ban đêm do ngứa quanh vùng hậu môn. Trẻ em mắc bệnh giun kim kéo dài nhiều năm, tái đi tái lại sẽ ảnh hưởng đến giấc ngủ, phát triển cơ thể trí tuệ, trẻ gầy, xanh, bụng ỏng và kém ăn, cuối cùng suy dinh dưỡng.

Triệu chứng lâm sàng cổ điển

Nhiễm trùng giun kim thường lành tính và 1/3 số người nhiễm giun kim không biểu hiện triệu chứng. Tuy nhiên, nhiễm giun kim không phải luôn luôn vô hại, vì chúng có thể dẫn đến các biến chứng như viêm ruột thừa (với tỷ lệ có thể cao đến 2,39% số ta theo ghi nhận tại các quốc gia đang phát triển), tắc ruột, thủng ruột, viêm đại tràng kiểu lâm sàng như bệnh tiêu chảy Crohn's và viêm hồi - đại tràng tăng bạch cầu ái toan.

- Ngứa hậu môn:

Triệu chứng giun kim thường gặp nhất là ngứa hậu môn, ngứa thường xuất hiện vào buổi tối, vào giờ đi ngủ, vì giun cái đẻ trứng vào thời gian này. Khi đó nhiệt độ giường ấm áp kích thích giun cái đẻ trứng. Ngứa hậu môn hoặc vùng da quanh hậu môn và ngứa thường tăng lên và khó chịu vào ban đêm, doban đêm giun cái di chuyển đến hậu môn để đẻ trứng (đặc biệt chúng thường đưa vào nếp nhăm của vùng rìa quanh hậu môn để thải trứng) và việc gãi ngứa sẽ dẫn đến nhiễm vào ngón tay và sau đó lan rộng nhiễm trùng sang người khác.

Việc gãi trầy xước có thể tổn thương da và nhiễm trùng vi khuẩn thứ phát. Các triệu chứng thứ phát như dẫn đến rối loạn giấc ngủ do ngứa, hay chán ăn và hay bị kích thích.

   

 Hình 11a. Giun kim trong hậu môn

 Hình 11b. Ngứa hậu môn

 Hình 11c. Thu thập giun kim

- Rối loạn tiêu hóa:

Giun kim có thể gây những tổn thương kích thích niêm mạc ruột, làm rối loạn tiêu hóa hoặc gây tình trạng viêm ruột mạn tính, có thể gây nổi mẩn dị ứng. Giun kim có thể chui lên ruột non, chui xuyên thành ruột, thường gặp ở chỗ tiếp giáp với manh tràng. Giun kim làm tổn thương đường ruột có thể gây nên tình trạng chán ăn, trẻ em đôi khi buồn nôn, đau bụng.

- Nhiễm trùng ngoài ruột

Điều này cũng có thể xảy ra và thường xảy ra trên các cơ quan sinh dục nữ và nhiễm trùng ở các vị trí khác cũng có thể xảy ra, như cơ quan hô hấp-phổi, vú, gan và lách.

Các nhiễm trùng ngoài đường tiêu hóa có thể dẫn đến ngứa vùng âm hộ âm đạo, nhiễm trùng đường tiết niệu, xuất huyết sau kinh nguyệt, viêm tinh hoàn, tạo khối giả ở vùng chậu, viêm mạn tính tuyến nước bọt, viêm vòi trứng một bên. Khi trứng và giun chết, lắng đọng tại các vị trí lạc chỗ cũng có thể hình thành tổn thương viêm dạng u hạt hoặc áp xe.

Về lý thuyết, cơ chế nhiễm trùng bộ phận sinh dục nữ là do con giun kim cái có chửa di chuyển từ vùng quanh hậu môn đến vùng âm đạo, ở đó nó có thể đi hướng lên trên thông qua vòi fallop đến vùng phúc mạc. Giả thuyết này được ủng hộ chỉ có giun cái và trứng nhìn thấy được trên các mẫu phết từ cổ tử cung cũng như các u hạt trong khoang phúc mạc. Một giả thuyết khác đặt ra rằng giun kim có thể đi qua vách thành ruột còn nguyên vẹn để hình thành nên các u hạt trong khoang chậu và phúc mạc;

- Rối loạn giấc ngủ và thần kinh

Giun kim đẻ trứng ở hậu môn gây ngứa làm trẻ mất ngủ, quấy khóc về đêm. Trẻ bị nhiễm giun kim nhiều thường có cảm giác bứt rứt, quấy khóc, khó chịu do ngứa hậu môn, suy nhược thần kinh, mất ngủ.


Hình 12. Một mô hình bệnh học trên người do nhiễm ký sinh trùng ở mô mạn tính

Khi bị nhiễm giun, cơ thể tiết ra các cytokines tác động trực tiếp lên não gây những cơn co giật kiểu động kinh, làm giảm cảm giác ngon miệng, tăng tốc độ chuyển hóa, gây suy mòn, chậm lớn da niêm xanh nhợt nhạt, tăng dị hóa mỡ và protein, giảm khả năng hấp thụ các vitamin và khoáng chất.


Tài liệu tham khảo

1.Huỳnh Hồng Quang (2008). Bệnh giun kim dễ phát hiện nhưng không dễ điều trị. http://www.impe-qn.org.vn/impe-qn/

2.Viện sốt rét-KST-CT TƯ (2006). Dự án Quốc gia Phòng chống giun sán, Tài liệu tập huấn các bệnh giun sán thường gặp ở người Việt Nam, Hà Nội, 2006.

3.Số liệu thống kê theo các báo cáo toàn quốc hàng năm của quốc gia;

4.Số liệu trích ra từ các luận văn luận án, đề tài nghiên cứu và hoạt động điều tra ký sinh trùngđường ruột hàng năm

5.Arca MJ, Gates RL et al., (2004). Clinical manifestations of appendiceal pinworms in children: an institutional experience and a review of the literature. Pediatr Surg Int.;20(5):372-5. 

6.American Academy of Pediatrics (2003). Pinworm Infection. Report of the committee o­n infectious disease; 486-7.

7.Kucik CJ, MartinGL et al., (2004). Common Intestinal Parasites.  Am Fam Physician. 69(5):11621-8.

8.Song HJ, Cho CH, Kim JS, et al., (2003). Prevalence and risk factors for enterobiasis among preschool children in a metropolitan city in Korea. Parasitol Res. 91(1):46-50. 

9.Yazgan, S., U. CetinkayaI, Sahin (2015). The Investigation of prevalence of Enterobius vermicularis in primary school age children and its relation to various symptoms. Turkiye Parazitol Derg, 39, 2, 98-102.

10.Boas, H. Tapia, G. Rasmussen, T. Ronningen, K. S. (2014). Enterobius vermicularis and allergic conditions in Norwegian children. Epidemiol Infect, 142, 10, 2114-20.

11.Boas, H. Tapia, G. Sodahl, J. A. Rasmussen, T. Ronningen (2012). Enterobius vermicularis and risk factors in healthy Norwegian children. Pediatr Infect Dis J, 31, 9, 927-30.

12.Celiksoz, A. Acioz, M. Degerli, S. Alim, A. Aygan, C. (2005). Egg positive rate of Enterobius vermicularis and Taenia spp. by cellophane tape method in primary school children in Sivas, Turkey. Korean J Parasitol, 43, 2:61-4.

13.D. Cazorla, M. Acosta, E. García, M. Garvett, A. Ruiz (2002). Enterobius vermicularis infection in preschool and schoolchildren of six rural communities from a semiarid region of Venezuela. Helminthologia, 43, (2), p.81-85.

14.Eleni Efraimidou, Anthia Gatopoulou, Charilaos Stamos (2008). Enterobius vermicularis infection of the appendix as a cause of acute appendicitis in a Greek adolescent: A case report. Cases Journal, 1, p 376.

15.Falebita O.A; Khalid M.S, Cassidy O (2004). Retrospective review of pediatric appendectomy in a general surgical unit. National Institute of Health Sciences Research Bulletin, 3, 3:40-43.

16.Gonçalves, Ml; Araújo A; Ferreira Lf (2003). Human intestinal parasites in the past: new findings and a review". Mem Inst Oswaldo Cruz, Vol. 98, p.103-118.

17.Hong, S. H., Y. I. Jeong, J. H. Lee, S. H. Cho (2012). Prevalence of Enterobius vermicularis among preschool children in Muan-gun, Jeollanam-do, Korea. Korean Journal Parasitol, 50, (3), p. 259-62.

18.J Sadraei, J Jabaraei; F Ghaffarifar; Ah Dalimi (2007). Vitamin B12 and serum mineral levels in children with Enterobius vermicularis infection. Iranian Journal of Parasitology, 2(1):35-38.

19.Kim, Bong Jin, Bo Young Lee, H. K. Chung, Y. S. Lee (2003). Egg positive rate of Enterobius vermicularis of primary school children in Geoje island. The Korean Journal of Parasitology, Vol 41, (1):75-77.

20.Murray, Al (2006). Microbiology and Immunology. University of South Carolina School of Medicine (3rd ed):646-660.

21.Nithikathkul, C., B. Changsap, S. Wannapinyosheep (2001). The prevalence of Enterobius vermicularis among primary school students in Samut Prakan province, Thailand. Southeast Asian J Trop Med Public Health, 2, 133-7.

22.Norhayati, M., M. I. Hayati, P. Oothuman, O. Azizi (1994). Enterobius vermicularis infection among children aged 1-8 years in a rural area in Malaysia. Southeast Asian J Trop Med Public Health, 25, 3, 494-7.

23.Park, J. H., E. T. Han, W. H. Kim, E. H. Shin (2005). A survey of Enterobius vermicularis infection among children o­n western and southern coastal islands of the Republic of Korea". Korean J Parasitol, 43, 4, 129-34.

24.Rim, H. J., J. Y. Chai, D. Y. Min, S. Y. Cho (2003). Prevalence of intestinal parasite infections o­n a national scale among primary schoolchildren in Laos. Parasitol Res, 91, 4:267-72

25.Sodergren, M. H., P. Jethwa, S. WilkinsonR. Kerwat (2009). Presenting features of Enterobius vermicularis in the vermiform appendix. Scand J Gastroenterol, 44, 4, 457-61.

26.Tandan, T., A. J. Pollard, D. M. MoneyD. W. Scheifele (2002). Pelvic inflammatory disease associated with Enterobius vermicularis". Arch Dis Child, 86, 6:439-40.

27.Tukaew, A., T. Chaisalee, S. Nithiuthai, S. Thiamtip (2002). Enterobius vermicularis infection among pre-school children in Karen hilltribe villages in Chiang Mai, Thailand. Southeast Asian J Trop Med Public Health, 3,70-1.

28.WHO (2002). Prevention and control of schistosomiasis and soil transmitted helminthiasis- Report of a WHO Expert Committee. Technical Report Series, Geneva No 912.

29.Young, C., I. Tataryn, K. T. Kowalewska-GrochowskaB (2010). Enterobius vermicularis infection of the fallopian tube in an infertile female. Pathol Res Pract, 206, 6:405-7.

30.Zahariou, A., M. KaramoutiP. Papaioannou (2007). Enterobius vermicularis in the male urinary tract: a case report. J Med Case Rep, 1, 137.

  

 

Ngày 09/08/2017
TS.BS. Huỳnh Hồng Quang  

THÔNG BÁO

   Dịch vụ khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn khám bệnh tất cả các ngày trong tuần (kể cả thứ 7 và chủ nhật)

   THÔNG BÁO: Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn xin trân trọng thông báo thời gian mở cửa hoạt động trở lại vào ngày 20/10/2021.


 LOẠI HÌNH DỊCH VỤ
 CHUYÊN ĐỀ
 PHẦN MỀM LIÊN KẾT
 CÁC VẤN ĐỀ QUAN TÂM
 QUẢNG CÁO

Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005
Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.
Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464
Email: impequynhon.org.vn@gmail.com
Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng
Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích