Home TRANG CHỦ Thứ 6, ngày 19/04/2024
    Hỏi đáp   Diễn đàn   Sơ đồ site     Liên hệ     English
IMPE-QN
Web Sites & Commerce Giới thiệu
Web Sites & Commerce Tin tức - Sự kiện
Web Sites & Commerce Hoạt động hợp tác
Web Sites & Commerce Hoạt động đào tạo
Finance & Retail Chuyên đề
Dịch tễ học
Côn trùng học
Nghiên cứu lâm sàng & điều trị
Ký sinh trùng sốt rét
Ký sinh trùng
Sinh học phân tử
Sán lá gan
Sốt xuất huyết
Bệnh do véc tơ truyền
Vi khuẩn & Vi rút
Sán
Giun
Nấm-Đơn bào
Web Sites & Commerce Tư vấn sức khỏe
Web Sites & Commerce Tạp chí-Ấn phẩm
Web Sites & Commerce Thư viện điện tử
Web Sites & Commerce Hoạt động Đảng & Đoàn thể
Web Sites & Commerce Bạn trẻ
Web Sites & Commerce Văn bản pháp quy
Số liệu thống kê
Web Sites & Commerce An toàn thực phẩm & hóa chất
Web Sites & Commerce Thầy thuốc và Danh nhân
Web Sites & Commerce Ngành Y-Vinh dự và trách nhiệm
Web Sites & Commerce Trung tâm dịch vụ
Web Sites & Commerce Thông báo-Công khai
Web Sites & Commerce Góc thư giản

Tìm kiếm

Đăng nhập
Tên truy cập
Mật khẩu

WEBLINKS
Website liên kết khác
 
 
Số lượt truy cập:
5 2 4 6 5 0 1 0
Số người đang truy cập
2 5 1
 Chuyên đề Bệnh do véc tơ truyền
Thông tin cập nhật của WHO về bệnh Chikungunya

Chikungunya là bệnh lây truyền do muỗi bị nhiễm virus thường xảy ra ở châu Phi, châu Á và tiểu lục địa Ấn Độ; những năm gần đây đã lan sang cả châu Âu và châu Mỹ, đặc biệt năm 2007 báo cáo đầu tiên về một ổ dịch Chikungunya tại địa phương ở đông bắc nước Ý là mối quan tâm trong kiểm soát dịch bệnh toàn cầu.

Những dữ liệu quan trọng đáng quan tâm

·       Chikungunya là bệnh do virus lây truyền từ người bệnh sang người lành thông qua muỗi bị nhiễm virus. Bệnh gây ra sốt và đau khớp trầm trọng, các triệu chứng khác bao gồm đau cơ, nhức đầu, buồn nôn, mệt mỏi và phát ban;

·        Bệnh có một số dấu hiệu lâm sàng giống với bệnh sốt xuất huyết, vì vậy có thể bị chẩn đoán nhầm ở những nơi có bệnh sốt xuất huyết lưu hành phổ biến đồng thời;

·         Bệnh không có thuốc điều trị đặc hiệu. Do vậy, điều trị bệnh chỉ tập trung vào việc làm giảm các triệu chứng lâm sàng;

·         Những nơi sinh sản của muỗi gần gũi với con người, do vậy đây là một yếu tố nguy cơ quan trọng đối với bệnh với Chikungunya.

·        Từ năm 2004, sốt chikungunya đã đạt tới mức đại dịch, với tỷ lệ mắc bệnh và gây ra gánh nặng đáng kể.

·         Bệnh xảy ra ở châu Phi, châu Á và tiểu lục địa Ấn Độ. Trong những thập kỷ gần đây muỗi truyền bệnh Chikungunya đã lan sang cả châu Âu và châu Mỹ. Trong năm 2007, sự lây truyền bệnh đã được báo cáo lần đầu tiên trong một ổ dịch địa phương ở đông bắc nước Ý.

 

 Bản đồ phần bố muỗi Aedes (Stegomyia) albopictus

Chikungunya là bệnh virus do muỗi truyền với tác nhân gây bệnh là virus và được mô tả lần đầu tiên trong một ổ dịch ở miền nam Tanzania vào năm 1952. Nó là một virus ARN thuộc về chi alphavirus, họ Togaviridae. Tên “Chikungunya” xuất phát từ một từ trong ngôn ngữ Kimakonde, có nghĩa là "để trở thành méo mó" và mô tả sự xuất hiện của người bệnh với biểu hiện đau khớp.

Điểm đặc biệt trong dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng

Chikungunya biểu hiện đặc trưng bởi một sự khởi đầu sốt đột ngột, thường kèm theo đau khớp. Các dấu hiệu và biểu hiện lâm sàng phổ biến khác như đau cơ, nhức đầu, buồn nôn, mệt mỏi và phát ban. Đau khớp thường là rất nghiêm trọng, mệt mỏi kéo dài trong một vài ngày hoặc có thể kéo dài đến vài tuần.

Thời gian ủ bệnh của Chikungunya dao động từ 1 đến 12 ngày, thường là 2 - 3 ngày. Triệu chứng có thể sốt cao đến 40°C, có ban dạng chấm xuất huyết hoặc mảng xuất huyết trên thân mình và đôi khi trên các chi, đau khớp, viêm khớp ảnh hưởng đến rất nhiều khớp. Các triệu chứng không đặc hiệu khác có thể gồm có đau đầu, buồn nôn, nôn mửa, viêm kết mạc, sợ ánh sàng nhẹ và mất cảm giác vị giác một phần. Viêm mắt do bệnh Chikungunya có thể dạng viêm mống mắt thể mi cũng như tổn thương võng mạc. Phù chân có thể nhìn thấy trên một số bệnh nhân, nguyên nhân vấn đề này vẫn chưa rõ ràng và không liên quan đến các bất thường chức năng tim mạch, thận và gan.

Điển hình, sốt có thể kéo dài đến 2 ngày và rồi giảm kết thúc đột ngột. Tuy nhiên, các triệu chứng khác như đau khớp, nhức đầu nghiêm trọng, mất ngủ và mệt lử thường kéo dài thời gian khác nhau, thường khoảng 5-7 ngày. Các bệnh nhân có khai đau khớp kéo dài thời gian hơn, đôi khi kéo dài đến 2 năm, lệ thuộc vào tuổi của bệnh nhân.

Sự phục hồi bệnh thay đổi theo tuổi. Các bệnh nhân tuổi trẻ hơn hồi phục trong vòng 5 - 15 ngày, các bệnh nhân tuổi trung bình hồi phục trong vòng 1 - 2 tháng. Sự phục hồi có thể kéo dài trên các người già.

Độ nghiêm trọng của bệnh cũng như thời gian thời gian của nó ít hơn trên các bệnh nhân trẻ tuổi và phục nữ có thai. Trên các bệnh nhân là phụ nữ mang thai, không thấy tác dụng không mong muốn sau khi nhiễm trùng.

Hầu hết bệnh nhân hồi phục hoàn toàn, nhưng trong một số trường hợp đau khớp có thể kéo dài trong vài tháng hoặc thậm chí nhiều năm. Thỉnh thoảng một số ca biến chứng liên quan đến mẳt, thần kinh và tim đã được báo cáo, cũng như biến chứng liên quan đến hệ tiêu hóa.

Biến chứng nghiêm trọng là không phổ biến, nhưng ở người lớn tuổi, bệnh có thể đóng góp vào nguyên nhân gây tử vong. Thông thường, các triệu chứng ở những người bị nhiễm bệnh đều nhẹ và có thể không có triệu chứng nên không được các thầy thuốc lâm sàng nhận ra, từ đó dẫn đến chẩn đoán nhầm ở những nơi có bệnh sốt xuất huyết xảy ra đồng thời.

Bệnh diễn biến mạn tính:

Các quan sát trong suốt thời gian vụ dịch xảy ra cho thấy bệnh Chikungunya có thể gây nên các triệu chứng kéo dài sau khi nhiễm trùng cấp tính. Sau khi vụ dịch xảy ra tại La Reunion vào năm 2006, hơn 50% số bệnh nhân trên 45 ca được báo cáo có đau cơ xương khớp kéo dài đến 60% số bệnh nhân báo cáo có đau khớp kéo dài thời gian 3 năm sau khi nhiễm trùng đầu tiên.

Một nghiên cứu về các ca nhập khẩu tại Pháp báo cáo cho biết có đến 59% số bệnh nhân vẫn còn chịu cơn đau khớp 2 năm sau khi nhiễm trùng cấp tính. Sau khi vụ dịch địa phương xảy ra của Chikungunya tại Ý, 66% số bệnh nhân có báo cáo đau cơ, suy nhược cơ và đau khớp 1 năm sau nhiễm trùng cấp. Các triệu chứng kéo dài không phải hoàn toàn theo một quan sát gần đây với triệu chứng viêm khớp kéo dài sau vụ dịch 1979.

Các yếu tố tiên đoán thường gặp là triệu chứng tăng theo tuổi và có bệnh lý thấp khớp trước đó. Nguyên nhân của các triệu chứng mạn tính này hiện vẫn chưa biết cơ chế. Các chỉ điểm về bệnh lý tự miễnhay bệnh thấp chưa tìm thấy trên các bệnh nhân có triệu chứng mạn tính. Tuy nhiên, Một số bằng chứng từ bệnh nhân và trên mô hình động vật cho thấy rằng bệnh Chikungunya có thể thiết lập diễn biến nhiễm trùng mạn tính trong cơ thể vật chủ. Kháng nguyên virus được phát hiện trên mẫu sinh thiết cơ cuqar một bệnh nhân mắc các đợt tái phát 3 tháng sau khi nhiễm trùng đầu tiên.

Ngoài ra, kháng nguyên virus và RNA được tìm thấy trong các đại thực bào bao hoạt dịch của một bệnh nhân trong một đợt tái phát của bệnh lý hệ cơ xương 18 tháng sau nhiễm trùng đầu tiên. Một số mô hình động vật cũng cho thấy rằng virus Chikungunya có thể dẫn đến nhiễm trùng mạn tính. Trên mô hình chuột virus RNA được phát hiện rõ ràng trên mô liên quan đến khớp trong ít nhất 16 tuần sau khi nhiễm và có liên quan đến viêm bao hoạt dịch mạn tính. Tương tự, một nghiên cứu khác báo cáo sự phát hiện gen vận chuyển virus trong mô khớp vài tuần sau nhiễm. Trong một mô hình linh trưởng, virus Chikungunya được phát hiện tồn tại trong lách đến ít nhất 6 tuần.

Dịch tễ học và lan truyền bệnh

Chikungunya đã được xác định ở gần 40 quốc gia thuộc châu Á, châu Phi, châu Âu và cả ở châu Mỹ.

 Hình 3. Bản đồ phân bố bệnh Chikungunya

Bệnh lây truyền từ người sang người do muỗi cái bị nhiễm virus đốt. Véc tơ trung gian truyền bệnh là muỗi Aedes aegyptiAedes albopictus. Đây là hai loài muỗi cũng có khả năng truyền nhiều bệnh do virus khác bao gồm cả sốt xuất huyết. Muỗi hoạt động đốt người suốt ngày, đỉnh đốt mồi vào lúc sáng sớm và chiều tối. Cả hai loài này đều tìm thấy đốt mồi ngoài nhà, nhưng riêng đối với loài Ae . aegypti đốt mồi trong nhà là chủ yếu.

Bùng phát dịch bệnh

Bệnh Chikungunya đã xảy ra dịch xảy ra ở châu Phi, châu Á và tiểu lục địa Ấn Độ. Riêng ở châu Phi, một số năm số ca mắc bệnh tương đối thấp nhưng đến năm 2009 - 2000 đã có một vụ dịch lớn xảy ra ở Cộng hòa DC Congo, và năm 2007 có một đợt bùng phát dịch ở Gabon.

Bắt đầu vào tháng 2 năm 2005, một ổ dịch lớn bệnh Chikungunya xảy ra ở quần đảo của Ấn Độ Dương. Một số lượng lớn các ca bệnh nhập khẩu vào châu Âu có liên quan với đợt dịch này, chủ yếu là vào năm 2006 khi dịch bùng phát ở Ấn Độ Dương đang ở vào đỉnh cao. Một đợt dịch bùng phát lớn bệnh chikungunya ở Ấn Độ xảy ra trong năm 2006 và 2007.

Một số quốc gia khác ở Đông Nam Á cũng bị ảnh hưởng. Kể từ năm 2005, Ấn Độ, Indonesia, Thái Lan, Maldives và Myanmar đã báo cáo hơn 1,9 triệu trường hợp mắc bệnh. Trong năm 2007 lan truyền Chikungunya đã được báo cáo lần đầu tiên ở châu Âu, trong một vụ dịch địa phương ở đông bắc nước Ý. Có 197 ca bệnh được ghi nhận trong đợt dịch này và đã xác định rằng dịch xảy ra ở châu Âu nguyên nhân do loài muỗi Ae . albopictus.

Những vụ dịch bùng phát lớn bệnh Chikungunya đều liên quan đến cả hai loài muỗi Ae . aegyptiAe . albopictus. Trong khi loài Ae . aegypti được giới hạn trong các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, thì loài muỗi Ae . albopictus cũng xảy ra ở các vùng ôn đới và thậm chí ở những nơi có khí hậu lạnh. Trong những thập kỷ gần đây Ae. albopictus đã lan rộng từ châu Á đến các khu vực ở châu Phi, châu Âu và châu Mỹ.

Muỗi Ae. albopictus phạm vi phát triển mạnh hơn ở những dụng cụ chứa nước so với loài Ae. aegypti bao gồm cả vỏ dừa, vỏ quả ca cao, gốc tre, lỗ cây và hồ đá, ngoài ra còn có các dụng cụ chứa nhân tạo như lốp xe và đĩa bên dưới chậu cây. Sự đa dạng về môi trường sống giải thích sự phong phú của muỗi Ae. albopictus ở nông thôn cũng như các khu vực ven đô thị và các công viên thành phố có nhiều bóng râm. Ae. aegypti có liên quan chặt chẽ hơn với hoạt động sống của con người và sử dụng những vị trí trong nhà để sinh sản bao gồm cả bình hoa, bình chứa nước, bể nước bằng bê tông trong phòng tắm, cũng như môi trường sống nhân tạo ngoài nhà giống như loài muỗi Ae. albopictus.

 
Ở châu Phi một số loài muỗi khác cũng liên quan đến quá trình lan truyền bệnh bao gồm nhóm loài A. furcifer-taylori A. Luteocephalus. Có bằng chứng cho thấy một số loài động vật không phải là linh trưởng, các loài gặm nhấm, chim và động vật có vú nhỏ có thể hoạt động như các ổ chứa nguồn bệnh.

Một nghiên cứu mới đây cho thấy bệnh do virus Chikungunya lan rộng sang nhiều đảo Caribbe (Mark Johanson và cs., 2014). Những gì xảy ra chỉ mới có 10 ca xác định virus Chikungunya trên phía Pháp của St. Martin có hình dạng xoắn ốc nhanh chóng thành vụ dịch lớn với gần 300 ca trên toàn vùng Caribbe từ Martinique đến đảo British Virgin.

Với hơn 200 ca nghi ngờ hoặc xác định St. Martin vẫn là tâm điểm của vụ dịch, mặc dù có hơn 50 ca nữa phía Martinique và hơn 20 ca khác ở Saint Barts, theo Trung tâm Phòng chống bệnh dịch châu Âu (ECDC_European Centre for Disease Prevention and Control) cho biết.

Các nhân viên y tế tại Dominica, Guadeloupe và French Guiana cũng báo cáo các ca Chikungunya, có thể dẫn đến đau khớp nặng, sốt và nhức đầu. Các ca tại French Guiana là mối quan tâm đặc biệt vì điều này có thể virus sẽ lan đến vùng đất Nam Mỹ.

Hơn 100 ca xác định dựa vào xét nghiệm la bô với bệnh Chikungunya tại Mỹ giữa năm1995 - 2009, nhưng không có ca nào nhiễm tại Tây bán cầu. Tất cả 3 trong số cac ca xảy ra từ 2006-2009 với các đối tượng đi du lịch đến Ấn Độ và các đảo Ấn Độ Dương, nơi mà có các vụ dịch lớn từng xảy ra. Trong thời gian vụ dịch Chikungunya xảy ra khắp châu Phi, châu Âu, châu Á và Thái Bình Dương, các ca bệnh vùng Caribbean đánh dấu thời gian đầu tiên bệnh được báo cáo trong số những người đi du lịch tại Tây Bán cầu, Trung tâm CDC lưu ý. Bệnh đã ảnh hưởng đến các dân cư vùng St. Martin không có du lịch đi xa trong thời gian gần đây, cho thấy rằng virus Chikungunya có mặt ở quần thể muỗi trên đảo và lan rộng tại chỗ.

“Biết rằng vi trùng là không biên giới và sự xuất hiện virus Chikungunya trong phần Tây bán cầu biểu hiện cho một mối đe dọa khác đến an ninh sức khỏe – Đó là những gì giám đốc CDC Tom Frieden trình bày. Các chuyên gia CDC tiên đoán và chuẩn bị đến trong vài năm qua và có hệ thống giám sát đúng chỗ để giúp chúng ta truy tìm dấu vết. Để bảo vệ châu Mỹ, chúng ta phải hỗ trợ và duy trì năng lực phát hiện và đối phó với sự xuất hiện của các virus mới.

Trung tâm CDC đã và đang làm việc kể từ năm 2006 với tổ chức PAHO (Pan American Health Organization) để chuẩn bị cho việc bệnh Chikungunya đi vào châu Mỹ và tiến hành một hội thảo xây dựng kế hoạch cho 22 quốc gia vùng Caribbe để tăng cao kiến thức/ ý thức về căn bệnh này.

Người ta lưu ý rằng trong thời điểm không có vaccine và điều trị đặc hiệu cho bệnh, Chikungunya hiếm khi gây tử vong và cho rằng những ai tồn tại là có miễn dịch kéo dài với bệnh. Chikungunya tương tự với các virus gây bệnh sốt Dengue về mặt lịch sử lại có vấn đề lớn hơn ở tại vùng Carribbe. Tổ chức Y tế thế giới trình bày khoảng 79.000 ca sốt xuất huyết mỗi năm, gồm có 141 ca tử vong (hầu hết xảy ra tại cộng hòa Dominican).

Muỗi truyền bệnh cho sốt Dengue cũng tương tự mang Chikungunya, đó là Aedes aegypti và Aedes albopictus, các muỗi này được tìm thấy khắp vùng Caribbe, vùng nhiệt đới và một phần ở nam nước Mỹ. Tượng tự sốt xuất huyết, các triệu chứng bệnh Chikungunya gồm sốt, đau khớp và cơ, nhức đầu và phát ban. Tất cả triệu chứng kéo dài khoảng 1 tuần và bắt đầu giữa khoảng thời gian từ ngày thứ 4 - 7 sau khi bị muỗi nhiễm mầm bệnh đốt. Trong một số ca hiếm, một số bệnh nhân sẽ có biểu hiện đa khớp kéo dài. Trung tâm CDC khuyên bất kỳ ai trở về từ vùng Caribbe với các triệu chứng như thế để nhận tư vấn sớm từ bác sĩ của bạn.

Vùng Caribbe là một trong những vùng du lịch nổi tiếng trên thế giới, đã giảm du khách một cách đáng kể do hậu quả này mà giảm đi kinh tế lớn. Trong khi các nhân viên ở châu Âu, Mỹ và Nam Mỹ đã đặt ra vấn đề cảnh báo đối với các virus. Đúng hơn là các nhân viên y tế khuyên các du khách đến vùng Caribbe cần có một số bước để bảo vệ bản thân họ chống lại muỗi đốt, như mặc quần áo dài tay, quần dài, mưa các thuốc xua muỗi và sử dụng điều hòa và rèm cửa để tránh muỗi.

Phát hiện và Chẩn đoán

Một số phương pháp có thể được sử dụng để chẩn đoán bệnh cùng với phổ lâm sàng đa dạng của bệnh lý do virus như kiểm tra huyết thanh học, chẳng hạn như xét nghiệm ELISA, có thể xác nhận sự hiện diện của kháng thể kháng Chikungunya loại IgM và IgG. Mức độ kháng thể IgM cao nhất có thể kéo dài 3 - 5 tuần sau khi khởi phát bệnh và kéo dài khoảng 2 tháng.

Mẫu thu thập trong tuần đầu tiên sau khi khởi phát triệu chứng cần được kiểm tra bằng hai phương pháp là kiểm tra huyết thanh và chẩn đoán bằng phương pháp sinh học phân tử (RT - PCR).

Virus gây bệnh này có thể được phân lập từ mẫu máu bệnh nhân trong những ngày đầu tiên bị nhiễm bệnh. Phương pháp RT - PCR để xác định virus là có sẵn nhưng độ nhạy cảm có thể thay đổi. Một số thông số xét nghiệm cận lâm sàng phù hợp với chẩn đoán lâm sàng. Sản phẩm RT - PCR từ các mẫu bệnh phẩm cũng có thể được sử dụng để xác định kiểu gen của virus, cho phép so sánh với các mẫu virus từ các nguồn vùng địa lý khác nhau.

Một số xét nghiệm thông thường để kiểm tra bệnh Chikungunya gồm RT - PCR, phân lập virus và các test huyết thanh miễn dịch.

  • Phân lập virus cung cấp chẩn đoán xác định nhất, nhưng mất nhiều thời gian 1-2
    tuần mới hoàn thành và phải tiến hành trong la bô an toàn sinh học cấp III. Các kỹ thuật liên quan đến dòng tế bào đặc hiệu phơi nhiễm từ máu toàn phần và xác định đáp ứng đặc hiệu với virus Chikungunya;
  • RT - PCR sử dụng mồi nested primer để khuyếch đại một số gen đặc hiệu Chikungunya từ mẫu máu toàn phần. Các kết quả có thể xác định trong vòng 1 - 2 ngày;
  • Chẩn đoán huyết thanh học đòi hỏi một lượng lớn máu hơn các phương pháp khác và sử dụng ELISA để đánh giá nồng độ kháng thể IgM đặc hiệu Chikungunya virus. Các kết quả đòi hỏi 2-3 ngày và dữ liệu dương tính giả có thể xảy ra với nhiễm trùng thộng qua một só loại virus khác liên quan, như O'nyong'nyong virus Semliki Forest virus.

Việc chẩn đoán phân biệt, có thể dựa vào các triệu chứng sốt và đau khớp để định hướng chẩn đoán cho đúng và có thái độ xử trí kịp thời theo bảng dưới đây:

Thái độ xử trí và quản lý ca bệnh

  • Hiện nay không có thuốc kháng virus đặc hiệu để điều trị bệnh Chikungunya.
  • Điều trị bệnh chủ yếu là làm giảm các triệu chứng như đau khớp, hạ sốt sử dụng thuốc hạ sốt, thuốc giảm đau tối ưu.
  • Hiện không có vaccine thương mại để phòng bệnh Chikungunya.

Phòng chống và kiểm soát bệnh.

Hiện chưa có một loại vaccine nào được chấp thuận chính thức. Một nghiên cứu vaccine phase II sử dụng virus sống giảm độc lực, phát triển đã cho thấy kháng virus trong 98% số trường hợp thử sau 28 ngày và 85% vẫn cho thấy đề kháng sau 1 năm. Tuy nhiên, 8% số người báo cáo có đau khớp thoáng qua và mệt mỏi do chỉ 2 đột biến trong E2 glycoprotein. Chiến lược vaccine thay thế đã được phát triển và cho thấy hiệu quả trên mô hình chuột nhưng chưa thử nghiệm lâm sàng.

 
Nơi sinh sản của muỗi gần gũi với môi trường sống của con người, đây được xem là yếu tố nguy có chính đối với bệnh Chikungunya cũng như các bệnh khác do muỗi này truyền. Phòng chống và kiểm soát véc tơ chủ yếu dựa vào việc giảm dụng cụ chứa nước tự nhiên và nhân tạo bởi vì đây là môi trường lý tưởng cho muỗi đẻ.

Để làm được điều này đòi hỏi vận động cả cộng đồng có nguy cơ cùng tham gia.

Trong thời gian dịch xảy ra, hóa chất diệt côn trùng có thể phun để diệt muỗi trưởng thành, áp dụng đối với các bề mặt trong và xung quanh các dụng cụ chứa nước nơi muỗi đậu, cư trú và sử dụng để xử lý nước trong các dụng cụ chứa để tiêu diệt ấu trùng chưa trưởng thành.

Để bảo vệ cá nhân trong thời gian dịch bệnh Chikungunya xảy ra, thì việc mặc quần áo để giảm thiểu việc tiếp xúc giữa da và véc tơ trong thời gian ban ngày là biện pháp được đưa ra. Hóa chất chống côn trùng có thể được áp dụng cho tiếp xúc da hay quần áo theo đúng hướng dẫn của từng sản phẩm.

Các loại thuốc xua đuổi côn trùng để hạn chế phơi nhiễm vào da hoặc quần áo, các hóa chất xua này chứa DEET (N, Ndiethyl3-methylbenzamide), IR3535 (3-[NacetylN-butyl]- aminopropionic axit ethyl ester) hoặc icaridin (acid 1-piperidinecarboxylic, 2-(2- hydroxyethyl ) –1-methylpropylester).

Đối với những người ngủ ban ngày, đặc biệt là trẻ em hoặc người bị ốm hoặc người già thì màn tẩm hóa chất diệt côn trùng có khả năng bảo vệ tốt. Nhang cuộn chống muỗi hoặc bình xịt hóa chất diệt côn trùng có thể cũng được sử dụng để giảm muỗi đốt trong nhà. Biện pháp phòng ngừa cơ bản nên được thực hiện cho những người đi du lịch đến các vùng nguy cơ và những biện pháp phòng ngừa bao gồm sử dụng thuốc xua đuổi côn trùng, mặc áo dài tay và quần dài và đảm bảo các phòng đều được trang rèm để ngăn chặn muỗi vào phòng.

Về khía cạnh virus học

Virus Chikungunya là loại alphavirus với sense single-stranded RNA genome dương tính khoảng 11.6kb. Chúng là một thành viên của phức hợp virus Semliki Forest virus và có liên quan chặt chẽ với Ross River Virus, O’Nyong Nyong virus và Semliki Forest Virus.

Tại Mỹ, người ta phân loại như một tác nhân ưu tiên theo phân loại C (Category C priority pathogen) và thực hành cần tuân thủ quy trình an toàn sinh học cấp III.

Các tế bào nội mô, biểu mô và fibroblasts và các đại thực bào tiết xuất từ monocyte là được chấp nhận đối với virus Chikungunya in vitro và sự sao chép virus cytopathic cao nhưng nhạy với type I và II interferon. In vivo virus Chikungunya dương như sao chép trong các tế bào hệ cơ xương fibroblasts và sợi cơ.

Type 1 interferon

Lệ thuộc vào nhiễm trùng Chikungunya, các nguyên bào sợi vật chủ sẽ sinh type 1 (alpha và beta) interferon. Chuột thiếu interferon alpha receptor chết trong 2-3 ngày lệ thuộc vào tiếp xúc với 102 Chikungunya PFU, trong khi chuột type hoang dại vẫn còn sống ngay cả khi phơi nhiễm với một lượng lớn đến 102 PFU virus. Cùng thời điểm, chuột thiếu type 1 một phần (IFN α/β +/−) bị ảnh hưởng một phần và có các triệu chứng như yếu cơ và trạng thái ngủ lịm hoặc hôn mê. Partidos và cộng sự (2011) thấy các kết quả tương tự với chủng sống giảm độc lực CHIKV181/25. Tuy nhiên, đúng hơn là chết, chuột type 1 interferon thiếu (IFN α/β −/−) sẽ bị khuyết tật tạm thời và chuột thiếu type 1 interferon một phần không hề có vấn đề gì.

Một số nghiên cứu đã nổ lực tìm ra các thành phần upstream của con đường type 1 interferon liên quan đến đáp ứng vật chủ đối với bệnh Chikungunya. Từ lâu, không ai biết bệnh sinh đặc biệt về Chikungunya liên quan đến mô hình phân tử. Tuy nhiên, IPS-1 cũng được biết như Cardif, MAVS, VISA đã tìm thấy như một yếu tố quan trọng.

Trong năm 2011, White và cộng sự cho thấy khi có sự can thiệp IPS-1 làm giảm sự phosphoryl hóa của yếu tố điều hòa interferon 3 (regulatory factor 3_IRF3) và quá trình sinh IFN-β. Các nghiên cứu khác cho thấy rằng IRF3IRF7 là quan trọng trong phương thức lệ thuộc vào tuổi. Các con chuột trưởng thành thiếu cả hai yếu tố điều hòa này chết do nhiễm trùng Chikungunya. Ngược lại, các trẻ sơ sinh ngừng chống lại virus nếu chúng thiếu một trong các yếu tố này.

Chikungunya chống lại đáp ứng type I interferon nhờ vào sinh NS2, một loại protein phi cấu trúc giáng hóa Rpb và làm tắt chức khả năng của các tế bào vật chủ để sao chép DNA. NS2 gây cản trở với con đừơng tín hiệu JAK-STAT và ngăn STAT khỏi quá trình phosphorylate hóa.

Đáp ứng từ Tổ chức Y tế thế giới đối với bệnh Chikungunya

-     Xây dựng kế hoạch quản lý ổ dịch dựa trên bằng chứng;

-     Cung cấp hỗ trợ kỹ thuật, hướng dẫn các quốc gia cho việc quản lý hiệu quả ca bệnh và các vụ dịch bùng phát;

-     Hỗ trợ các nước cải thiện hệ thống báo cáo;

-     Cung cấp đào tạo về quản lý lâm sàng, chẩn đoán và kiểm soát véc tơ ở cấp độ khu vực với một số trung tâm phối hợp;

-     Xuất bản hướng dẫn và cuốn sổ tay để quản lý ca bệnh, kiểm soát véc tơ đối với các quốc gia thành viên.

Tài liệu tham khảo

1.Lahariya C, Pradhan SK (December 2006). "Emergence of chikungunya virus in Indian subcontinent after 32 years: A review". J Vector Borne Dis 43 (4): 151–60.

2.Powers AM, Logue CH (September 2007). "Changing patterns of chikungunya virus: re-emergence of a zoonotic arbovirus". J. Gen. Virol. 88 (Pt 9): 2363–77.

3.Sourisseau M, Schilte C, Casartelli N, et al. (June 2007). "Characterization of reemerging chikungunya virus". PLoS Pathog. 3 (6): e89.

4.Caglioti, C; Lalle, E; Castilletti, C; Carletti, F; Capobianchi, MR; Bordi, L (2013 Jul). "Chikungunya virus infection: an overview.". The new microbiologica 36 (3): 211–27.

5.Chhabra M, Mittal V, Bhattacharya D, Rana U, Lal S (2008). "Chikungunya fever: a re-emerging viral infection". Indian J Med Microbiol 26 (1): 5–12.

6.Vatsal Anand (2011). "After effects of Chikungunya Fever". Retrieved 2012-06-29.

7.Mahendradas P, Ranganna SK, Shetty R, et al. (February 2008). "Ocular manifestations associated with chikungunya". Ophthalmology 115 (2): 287–91.

8.Parola P, Grandadam M, et al. (May 2007). "Chikungunya infection: an emerging rheumatism among travelers returned from Indian Ocean islands. Report of 47 cases". Medicine 86 (3): 123–37.

9.Taubitz W, Cramer JP, Kapaun A, et al. (July 2007). "Chikungunya fever in travelers: clinical presentation and course". Clin. Infect. Dis. 45 (1): e1–4.

10.Gérardin, P; Fianu, A; Michault, A; Mussard, C; Boussaïd, K; Rollot, O; Grivard, P; Kassab, S; Bouquillard, E; Borgherini, G; Gaüzère, BA; Malvy, D; Bréart, G; Favier, F (Jan 9, 2013). "Predictors of Chikungunya rheumatism: a prognostic survey ancillary to the TELECHIK cohort study.". Arthritis research & therapy 15 (1): R9.

11.Schilte, C; Staikowsky, F; Couderc, T; Madec, Y; Carpentier, F; Kassab, S; Albert, ML; Lecuit, M; Michault, A (2013). "Chikungunya virus-associated long-term arthralgia: a 36-month prospective longitudinal study.". PLoS neglected tropical diseases 7 (3): e2137.

12.Larrieu, S; Pouderoux, N; Pistone, T; Filleul, L; Receveur, MC; Sissoko, D; Ezzedine, K; Malvy, D (2010). "Factors associated with persistence of arthralgia among Chikungunya virus-infected travellers: report of 42 French cases.". Journal of clinical virology : the official publication of the Pan American Society for Clinical Virology 47 (1): 85–8.

13.Moro, ML; Grilli, E; Corvetta, A; Silvi, G; Angelini, R; Mascella, F; Miserocchi, F; Sambo, P; Finarelli, AC; Sambri, V; Gagliotti, C; Massimiliani, E; Mattivi, A; Pierro, AM; Macini, P; Study Group “Infezioni da Chikungunya in, Emilia-Romagna” (2012). "Long-term chikungunya infection clinical manifestations after an outbreak in Italy: a prognostic cohort study.". The Journal of infection 65 (2): 165–72.

14.Fourie, ED; Morrison, JG (1979). "Rheumatoid arthritic syndrome after chikungunya fever.". South African medical journal 56 (4): 130–2.

15.Gérardin, P; Fianu, A; Michault, A; Mussard, C; Boussaïd, K; Rollot, O; Grivard, P; Kassab, S; Bouquillard, E; Borgherini, G; Gaüzère, BA; Malvy, D; Bréart, G; Favier, F (Jan 9, 2013). "Predictors of Chikungunya rheumatism: a prognostic survey ancillary to the TELECHIK cohort study.". Arthritis research & therapy 15 (1): R9.

16.Jump up ^ Moro, ML; Grilli, E; Corvetta, A; Silvi, G; Angelini, R; Mascella, F; Miserocchi, F; Sambo, P; Finarelli, AC; Sambri, V; Gagliotti, C; Massimiliani, E; Mattivi, A; Pierro, AM; Macini, P; Study Group “Infezioni da Chikungunya in, Emilia-Romagna” (Aug 2012). "Long-term chikungunya infection clinical manifestations after an outbreak in Italy: a prognostic cohort study.". The Journal of infection 65 (2): 165–72.

17.Schilte, C; Staikowsky, F; Couderc, T; Madec, Y; Carpentier, F; Kassab, S; Albert, ML; Lecuit, M; Michault, A (2013). "Chikungunya virus-associated long-term arthralgia: a 36-month prospective longitudinal study.". PLoS neglected tropical diseases 7 (3): e2137. PMID 23556021.

18.Sissoko, D; Malvy, D; Ezzedine, K; Renault, P; Moscetti, F; Ledrans, M; Pierre, V (2009). "Post-epidemic Chikungunya disease o­n Reunion Island: course of rheumatic manifestations and associated factors over a 15-month period.". PLoS neglected tropical diseases 3 (3): e389.

19.Manimunda, SP; Vijayachari, P; Uppoor, R; Sugunan, AP; Singh, SS; Rai, SK; Sudeep, AB; Muruganandam, N; Chaitanya, IK; Guruprasad, DR (2010). "Clinical progression of chikungunya fever during acute and chronic arthritic stages and the changes in joint morphology as revealed by imaging.". Transactions of the Royal Society of Tropical Medicine and Hygiene 104 (6): 392–9

20.Schilte, C; Staikowsky, F; Couderc, T; Madec, Y; Carpentier, F; Kassab, S; Albert, ML; Lecuit, M; Michault, A (2013). "Chikungunya virus-associated long-term arthralgia: a 36-month prospective longitudinal study.". PLoS neglected tropical diseases 7 (3): e2137.

21.Ozden, S; Huerre, M; Riviere, JP; Coffey, LL; Afonso, PV; Mouly, V; de Monredon, J; Roger, JC; El Amrani, M; Yvin, JL; Jaffar, MC; Frenkiel, MP; Sourisseau, M; Schwartz, O; Butler-Browne, G; Desprès, P; Gessain, A; Ceccaldi, PE (2007). "Human muscle satellite cells as targets of Chikungunya virus infection.". PloS o­ne 2 (6): e527.

22.Hoarau, JJ; Jaffar Bandjee, MC; Krejbich Trotot, P; Das, T; Li-Pat-Yuen, G; Dassa, B; Denizot, M; Guichard, E; Ribera, A; Henni, T; Tallet, F; Moiton, MP; Gauzère, BA; Bruniquet, S; Jaffar Bandjee, Z; Morbidelli, P; Martigny, G; Jolivet, M; Gay, F; Grandadam, M; Tolou, H; Vieillard, V; Debré, P; Autran, B; Gasque, P (2010). "Persistent chronic inflammation and infection by Chikungunya arthritogenic alphavirus in spite of a robust host immune response.". Journal of immunology (Baltimore, Md. : 1950) 184 (10): 5914–27.

23.Hawman, DW; Stoermer, KA; Montgomery, SA; Pal, P; Oko, L; Diamond, MS; Morrison, TE (Dec 2013). "Chronic joint disease caused by persistent chikungunya virus infection is controlled by the adaptive immune response.". Journal of virology 87 (24): 13878–88.

24.Teo, TH; Lum, FM; Claser, C; Lulla, V; Lulla, A; Merits, A; Rénia, L; Ng, LF (2013). "A pathogenic role for CD4+ T cells during Chikungunya virus infection in mice.". Journal of immunology (Baltimore, Md. : 1950) 190 (1): 259–69.

25.Labadie, K; Larcher, T; Joubert, C; Mannioui, A; Delache, B; Brochard, P; Guigand, L; Dubreil, L; Lebon, P; Verrier, B; de Lamballerie, X; Suhrbier, A; Cherel, Y; Le Grand, R; Roques, P (2010). "Chikungunya disease in nonhuman primates involves long-term viral persistence in macrophages.". The Journal of clinical investigation 120 (3): 894–906.

26.Sun, S.; Xiang, Y.; Akahata, W.; Holdaway, H.; Pal, P.; Zhang, X.; Diamond, M. S.; Nabel, G. J.; Rossmann, M. G. (2013). "Structural analyses at pseudo atomic resolution of Chikungunya virus and antibodies show mechanisms of neutralization". ELife 2: e00435.

27.Powers, AM; Brault, AC; Shirako, Y; Strauss, EG; Kang, W; Strauss, JH; Weaver, SC (Nov 2001). "Evolutionary relationships and systematics of the alphaviruses.". Journal of virology 75 (21): 10118–31.

28.Sourisseau, M; Schilte, C; Casartelli, N; Trouillet, C; Guivel-Benhassine, F; Rudnicka, D; Sol-Foulon, N; Le Roux, K; Prevost, MC; Fsihi, H; Frenkiel, MP; Blanchet, F; Afonso, PV; Ceccaldi, PE; Ozden, S; Gessain, A; Schuffenecker, I; Verhasselt, B; Zamborlini, A; Saïb, A; Rey, FA; Arenzana-Seisdedos, F; Desprès, P; Michault, A; Albert, ML; Schwartz, O (2007). "Characterization of reemerging chikungunya virus.". PLoS pathogens 3 (6): e89.

29.Schilte, C; Couderc, T; Chretien, F; Sourisseau, M; Gangneux, N; Guivel-Benhassine, F; Kraxner, A; Tschopp, J; Higgs, S; Michault, A; Arenzana-Seisdedos, F; Colonna, M; Peduto, L; Schwartz, O; Lecuit, M; Albert, ML (2010). "Type I IFN controls chikungunya virus via its action o­n nonhematopoietic cells.". The Journal of experimental medicine 207 (2): 429–42.

30.Ozden, S; Huerre, M; Riviere, JP; Coffey, LL; Afonso, PV; Mouly, V; de Monredon, J; Roger, JC; El Amrani, M; Yvin, JL; Jaffar, MC; Frenkiel, MP; Sourisseau, M; Schwartz, O; Butler-Browne, G; Desprès, P; Gessain, A; Ceccaldi, PE (2007). "Human muscle satellite cells as targets of Chikungunya virus infection.". PloS o­ne 2 (6): e527.

31.Rohatgi, A; Corbo, JC; Monte, K; Higgs, S; Vanlandingham, DL; Kardon, G; Lenschow, DJ (Dec 11, 2013). "Infection of myofibers contributes to the increased pathogenicity during infection with an epidemic strain of Chikungunya Virus.". Journal of virology.

32.Schilte C, Couderc T, Chretien F, et al. (2010). "Type I IFN controls chikungunya virus via its action o­n nonhematopoietic cells". J. Exp. Med. 207 (2): 429–42.

33.Couderc T, Chrétien F, Schilte C, et al. (2008). "A mouse model for Chikungunya: young age and inefficient type-I interferon signaling are risk factors for severe disease". PLoS Pathog. 4 (2): e29. doi:10.1371/journal.ppat.0040029. PMC 2242832. PMID 18282093.

34.Jump up ^ Partidos CD, Weger J, Brewoo J, et al. (April 2011). "Probing the attenuation and protective efficacy of a candidate chikungunya virus vaccine in mice with compromised interferon (IFN) signaling". Vaccine 29 (16): 3067–73.

35.White LK, Sali T, Alvarado D, et al. (2011). "Chikungunya virus induces IPS-1-dependent innate immune activation and protein kinase R-independent translational shutoff". J. Virol. 85 (1): 606–20.

36.Rudd PA, Wilson J, Gardner J, et al. (2012). "Interferon response factors 3 and 7 protect against Chikungunya virus hemorrhagic fever and shock". J. Virol. 86 (18): 9888–98.

37.Schilte C, Buckwalter MR, Laird ME, Diamond MS, Schwartz O, Albert ML (2012). "Cutting edge: independent roles for IRF-3 and IRF-7 in hematopoietic and nonhematopoietic cells during host response to Chikungunya infection". J. Immunol. 188 (7): 2967–71.

38.Akhrymuk I, Kulemzin SV, Frolova EI (2012). "Evasion of the innate immune response: the Old World alphavirus nsP2 protein induces rapid degradation of Rpb1, a catalytic subunit of RNA polymerase II". J. Virol. 86 (13): 7180–91.

39.Fros JJ, Liu WJ, Prow NA, et al. (October 2010). "Chikungunya virus nonstructural protein 2 inhibits type I/II interferon-stimulated JAK-STAT signaling". J. Virol. 84 (20): 10877–87.

40."Laboratory Diagnosis of Chikungunya Fevers". World Health Organization. Archived from the original o­n September 8, 2012.

41.Edelman R, Tacket CO, Wasserman SS, Bodison SA, Perry JG, Mangiafico JA (June 2000). "Phase II safety and immunogenicity study of live chikungunya virus vaccine TSI-GSD-218". Am. J. Trop. Med. Hyg. 62 (6): 681–5.

42.Gorchakov, R; Wang, E; Leal, G; Forrester, NL; Plante, K; Rossi, SL; Partidos, CD; Adams, AP; Seymour, RL; Weger, J; Borland, EM; Sherman, MB; Powers, AM; Osorio, JE; Weaver, SC (Jun 2012). "Attenuation of Chikungunya virus vaccine strain 181/clone 25 is determined by two amino acid substitutions in the E2 envelope glycoprotein.". Journal of virology 86 (11): 6084–96.

43.Plante, K; Wang, E; Partidos, CD; Weger, J; Gorchakov, R; Tsetsarkin, K; Borland, EM; Powers, AM; Seymour, R; Stinchcomb, DT; Osorio, JE; Frolov, I; Weaver, SC (2011). "Novel chikungunya vaccine candidate with an IRES-based attenuation and host range alteration mechanism.". PLoS pathogens 7 (7): e1002142.

44.Aallengärd, D; Kakoulidou, M; Lulla, A; Kümmerer, BM; Johansson, DX; Mutso, M; Lulla, V; Fazakerley, JK; Roques, P; Le Grand, R; Merits, A; Liljeström, P (2013). "Novel attenuated Chikungunya vaccine candidates elicit protective immunity in C57BL/6 mice.". Journal of virology.

45."Chikungunya-Fact sheet". European Centre for Disease Prevention and Control (ECDC). Retrieved 2013-12-17.

46.Vanlandingham DL, Hong C, Klingler K, et al. (2005). "Differential infectivities of o'nyong-nyong and chikungunya virus isolates in Anopheles gambiae and Aedes aegypti mosquitoes". Am. J. Trop. Med. Hyg. 72 (5): 616–21.

47.Enserink M (2007). "Infectious diseases. Chikungunya: no longer a third world disease". Science 318 (5858): 1860–1.

48.Powers AM, Brault AC, Tesh RB, Weaver SC (2000). "Re-emergence of Chikungunya and O'nyong-nyong viruses: evidence for distinct geographical lineages and distant evolutionary relationships". J. Gen. Virol. 81 (Pt 2): 471–9.

49.Martin E (2007). "EPIDEMIOLOGY: Tropical Disease Follows Mosquitoes to Europe". Science 317 (5844): 1485..

50.Tsetsarkin KA, Vanlandingham DL, McGee CE, Higgs S (2007). "A Single Mutation in Chikungunya Virus Affects Vector Specificity and Epidemic Potential". PLoS Pathog 3 (12): e201.

51.ProMED-mail (2007) Chikungunya virus: genetic change. Archive Number 20071209.3973

52.European Centers for Disease Control Report Chikungunya in Italy.

53.T Rath (2009). Trang hospital found Chikungunya transmitted from a mother to her foetus, 28 May 2009. Accessed: 29 May 2009.

54.Centers for Disease Control and Prevention (2006). "Chikungunya fever diagnosed among international travelers—United States, 2005–2006". MMWR Morb. Mortal. Wkly. Rep. 55 (38): 1040–2. PMID 17008866.

55.Robinson MC (1955). "An epidemic of virus disease in Southern Province, Tanganyika Territory, in 1952-53. I. Clinical features". Trans. R. Soc. Trop. Med. Hyg. 49 (1): 28–32.

56.Lumsden WH (1955). "An epidemic of virus disease in Southern Province, Tanganyika Territory, in 1952–53. II. General description and epidemiology". Trans. R. Soc. Trop. Med. Hyg. 49 (1): 33–57.

57.Carey DE (1971). "Chikungunya and dengue: a case of mistaken identity?". J Hist Med Allied Sci 26 (3): 243–62.

58.Cherian SS, Walimbe AM, Jadhav SM, et al. (January 2009). "Evolutionary rates and timescale comparison of Chikungunya viruses inferred from the whole genome/E1 gene with special reference to the 2005-07 outbreak in the Indian subcontinent". Infect. Genet. Evol. 9 (1): 16–23.

59."Chemical and Biological Weapons: Possession and Programs Past and Present", James Martin Center for Nonproliferation Studies, Middlebury College, 9 April 2002, accessed 14 November 2008.

Ngày 27/01/2014
PGS.TS. Triệu Nguyên Trung,
ThS. Đỗ Văn Nguyên và Ths.Bs. Huỳnh Hồng Quang
 

THÔNG BÁO

   Dịch vụ khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn khám bệnh tất cả các ngày trong tuần (kể cả thứ 7 và chủ nhật)

   THÔNG BÁO: Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn xin trân trọng thông báo thời gian mở cửa hoạt động trở lại vào ngày 20/10/2021.


 LOẠI HÌNH DỊCH VỤ
 CHUYÊN ĐỀ
 PHẦN MỀM LIÊN KẾT
 CÁC VẤN ĐỀ QUAN TÂM
 QUẢNG CÁO

Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005
Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.
Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464
Email: impequynhon.org.vn@gmail.com
Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng
Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích