Home TRANG CHỦ Thứ 7, ngày 20/04/2024
    Hỏi đáp   Diễn đàn   Sơ đồ site     Liên hệ     English
IMPE-QN
Web Sites & Commerce Giới thiệu
Web Sites & Commerce Tin tức - Sự kiện
Web Sites & Commerce Hoạt động hợp tác
Web Sites & Commerce Hoạt động đào tạo
Finance & Retail Chuyên đề
Dịch tễ học
Côn trùng học
Nghiên cứu lâm sàng & điều trị
Ký sinh trùng sốt rét
Ký sinh trùng
Sinh học phân tử
Sán lá gan
Sốt xuất huyết
Bệnh do véc tơ truyền
Vi khuẩn & Vi rút
Sán
Giun
Nấm-Đơn bào
Web Sites & Commerce Tư vấn sức khỏe
Web Sites & Commerce Tạp chí-Ấn phẩm
Web Sites & Commerce Thư viện điện tử
Web Sites & Commerce Hoạt động Đảng & Đoàn thể
Web Sites & Commerce Bạn trẻ
Web Sites & Commerce Văn bản pháp quy
Số liệu thống kê
Web Sites & Commerce An toàn thực phẩm & hóa chất
Web Sites & Commerce Thầy thuốc và Danh nhân
Web Sites & Commerce Ngành Y-Vinh dự và trách nhiệm
Web Sites & Commerce Trung tâm dịch vụ
Web Sites & Commerce Thông báo-Công khai
Web Sites & Commerce Góc thư giản

Tìm kiếm

Đăng nhập
Tên truy cập
Mật khẩu

WEBLINKS
Website liên kết khác
 
 
Số lượt truy cập:
5 2 4 7 3 9 3 6
Số người đang truy cập
1 3 9
 Chuyên đề Sốt xuất huyết
Cập nhật thông tin về sốt xuất huyết do virus Marburg trên thế giới

Virus Marburg là tác nhân gây bệnh virus Marburg (Marburg virus disease-MVD), một bệnh có tỉ lệ tử vong đến 88%. Sốt xuất huyết Marburg ban đầu được phát hiện vào năm 1967 sau khi các vụ dịch xảy ra đồng thời tại Marburg và Frankfurt ở Đức; và ở Belgrade, Serbia. Cả virus Marburg và Ebola đều là thành viên của họ Filoviridae (filovirus).Mặc dù gây ra bởi các loại virus khác nhau nhưng cả hai bệnh đều giống nhau về mặt lâm sàng. Cả hai bệnh đều hiếm và có khả năng gây ra những đợt bùng phát mạnh với tỷ lệ tử vong cao.

Hai vụ dịch lớn xảy ra đồng thời tại Marburg và Frankfurt ở Đức, và tại Belgrade, Serbia, vào năm 1967, đã dẫn tới sự ghi nhận bệnh này đầu tiên. Các vụ dịch này liên quan đến nghiên cứu trong phòng thí nghiệm bằng việc sử dụng khỉ xanh châu Phi (Cercopithecus aethiops) nhập khẩu từ Uganda. Sau đó, các vụ dich và các ca bệnh rải rác đã được báo cáo ở Angola, Cộng hòa Dân chủ Congo, Kenya, Nam Phi (ở một người có tiền sử gần đây đi đến Zimbabwe) và Uganda. Vào năm 2008, có hai trường hợp độc lập được báo cáo ở những người đi du lịch đã ghé thăm một hang động có sự cư trú của các quần thể dơi Rousettus ở Uganda.

Sự lan truyền

Ban đầu, nhiễm MVD ở người do hậu quả của việc tiếp xúc lâu dài với mỏ hoặc các hang động do các quần thể dơi Rousettus cư trú. Marburg lây lan qua từ người sang người thông qua tiếp xúc trực tiếp (thông qua màng nhầy hoặc da bị rách) với máu, chất tiết, các cơ quan hoặc các dịch khác của người bệnh, và với các bề mặt và vật liệu (ví dụ như giường, quần áo) bị ô nhiễm với các chất dịch này. Nhân viên chăm sóc sức khoẻ thường bị nhiễm bệnh trong khi điều trị bệnh nhân nghi ngờ hoặc xác định MVD. Điều này đã xảy ra thông qua tiếp xúc gần gũi với bệnh nhân khi các biện pháp phòng ngừa nhiễm khuẩn không được thực hiện nghiêm túc. Việc lây truyền qua thiết bị tiêm chích bị ô nhiễm hoặc thông qua chấn thương do bơm kim tiêm có liên quan đến bệnh nặng hơn, suy sụp nhanh chóng, và có thể, có một tỷ lệ tử vong cao hơn.


Hình 1

Các nghi thức mai táng liên quan đến việc tiếp xúc trực tiếp tới thân xác của người quá cố cũng có thể góp phần vào việc lan truyền Marburg. Con người vẫn có thể lây nhiễm khi máu của họ chứa virus.

Lây truyền qua đường tình dục

Việc lây truyền virus Marburg qua tinh dịch nhiễm bệnh đã được ghi nhận tới 7 tuần sau khi hồi phục lâm sàng. Cần có nhiều dữ liệu giám sát và nghiên cứu hơn về nguy cơ lây truyền qua đường tình dục, đặc biệt là sự phổ biến của virus có khả năng tồn tại và lây lan trong tinh dịch theo thời gian. Tạm thời, và dựa trên bằng chứng hiện tại, TCYTTG khuyến cáo rằng:


Hình 2

- Tất cả người sống sót do Marburg và bạn tình của họ nên được tư vấn để đảm bảo thực hành tình dục an toàn hơn cho đến khi tinh dịch của họ đã hai lần xét nghiệm âm tính đối với virus Marburg.

- Những người sống sót nên được cung cấp bao cao su.

- Những người đàn ông còn sống do Marburg nên được tham gia vào các chương trình xét nghiệm tinh dịch khi xuất tinh (bắt đầu khi tư vấn) và xét nghiệm tinh dịch khi sẵn sàng về mặt tinh thần và thể chất trong vòng ba tháng sau khi bệnh khởi phát.

-Những người sống sót do Marburg và bạn tình của họ nên:

+Tránh xa mọi hành vi tình dục, hoặc

+Tuân thủ thực hành hành vi tình dục an toàn hơn thông qua sử dụng bao cao su chính xác và nhất quán cho đến khi tinh dịch của họ đã hai lần xét nghiệm không bị phát hiện ra virus Marburg (âm tính).

-Sau khi xét nghiệm không phát hiện được (âm tính), những người sống sót có thể tiếp tục quan hệ tình dục bình thường một cách an toàn với việc giảm thiểu nguy cơ lây truyền virus Marburg.

-Những người đàn ông sống sót do Marburg nên thực hành thực hành tình dục an toàn và vệ sinh trong vòng 12 tháng kể từ khi khởi phát các triệu chứng hoặc cho đến khi tinh dịch của họ không phát hiện được virus Marburg (âm tính).

Cho đến khi tinh dịch của họ đã được kiểm tra hai lần không phát hiện ra virus Marburg (âm tính),những người sống sót phải thực hành vệ sinh cá nhân bằng cách rửa ngay và rửa bằng xà bông và nước sau khi tiếp xúc với tinh dịch, kể cả sau khi thủ dâm. Trong giai đoạn này, sử dụng bao cao su nên được sử dụng và loại bỏ một cách an toàn để tránh tiếp xúc với tinh dịch.

- Tất cả những người sống sót, bạn tình và gia đình của họ phải được tôn trọng, nhân phẩm và sự cảm thông


Hình 3

Các triệu chứng của bệnh do virus Marburg

Thời kỳ ủ bệnh (khoảng thời gian từ khi bị nhiễm cho đến khi xuất hiện triệu chứng) dao động từ 2 đến 21 ngày.

Bệnh do virus Marburg gây ra sốt cao đột ngột, nhức đầu dữ dội và chứng khó chịu nghiêm trọng.Đau cơ và đau là một đặc điểm phổ biến.Tiêu chảy do mất nước nặng, đau bụng và đau quặn bụng, buồn nôn và nôn có thể bắt đầu vào ngày thứ ba. Tiêu chảy có thể tồn tại trong vòng một tuần. Sự xuất hiện của bệnh nhân ở giai đoạn này đã được miêu tả như là những nét đặc trưng "giống như ma", đôi mắt trũng sâu, khuôn mặt vô cảm và tình trạng hôn mê nặng. Trong vụ dịch năm 1967 ở châu Âu, phát ban không ngứa là một đặc điểm được ghi nhận ở hầu hết các bệnh nhân từ ngày thứ 2 đến 7 ngày sau khi xuất hiện triệu chứng.


Hình 4

Nhiều bệnh nhân xuất hiện các biểu hiện xuất huyết trầm trọng trong khoảng ngày thứ 5 đến 7, và các ca tử vong thường có một số dạng chảy máu, thường là từ nhiều nơi. Máu tươi trong chất ói mửa và phân thường kèm theo chảy máu từ mũi, nướu răng và âm đạo.Chảy máu tự phát ở các vùng chích tĩnh mạch (nơi tiếp cận tĩnh mạch để cho dịch hay lấy mẫu máu) có thể đặc biệt gặp rắc rối.Trong giai đoạn nặng của bệnh, bệnh nhân đã duy trì sốt cao.Sự liên quan của hệ thống thần kinh trung ương có thể dẫn đến sự nhầm lẫn, cáu kỉnh và gây hấn. Chứng viêm tinh hoàn (viêm một hoặc cả hai tinh hoàn) đã được báo cáo đôi khi trong giai đoạn cuối của bệnh (15 ngày).

Trong các trường hợp tử vong, tử vong xảy ra thường xuyên nhất trong khoảng từ ngày thứ 8 đến 9 sau khi khởi phát triệu chứng, thường là do mất máu và shock nặng.
 

Virus tồn tại dai dẳng ở những người sau khi khỏi bệnh do virus Marburg

Virus Marburg được biết vẫn còn tồn tại dai dẳng tại các nơi có đặc quyền miễn dịch ở một số người đã hồi phục từ bệnh do virus Marburg.Những vị trí này bao gồm tinh hoàn và bên trong mắt.

-Ở những phụ nữ bị nhiễm bệnh trong khi đang mang thai, virus vẫn tồn tại trong nhau thai, dịch màng ối và bào thai.

-Ở những phụ nữ bị nhiễm bệnh trong khi cho con bú, virus có thể vẫn còn trong sữa mẹ.

Tái phát-bệnh có các triệu chứng không có tái nhiễm ở người đã hồi phục từ MVD là một hiện tượng hiếm hoi, nhưng đã được ghi lại. Nguyên nhân của hiện tượng này vẫn chưa được hiểu đầy đủ.

Chẩn đoán

Có thể khó phân biệt MVD với các bệnh truyền nhiễm khác như sốt rét, sốt thương hàn, nhiễm shigela, viêm màng não và các bệnh sốt xuất huyết khác do virus. Xác định các triệu chứng do nhiễm virus Marburg được thực hiện bằng các phương pháp chẩn đoán sau đây:
+ Xét nghiệm phát hiện và đo lường kháng thể (ELISA)
+ Xét nghiệm phát hiện kháng nguyên                  
+ Xét nghiệm trung hòa huyết thanh
+ Xét nghiệm chuỗi phản ứng men polymerase đảo ngược (RT-PCR)
+ Kính hiển vi điện tử
+Phân lập virus bằng cách nuôi cấy tế bào.

Các mẫu thu thập được từ bệnh nhân là một nguy cơ sinh học nguy hiểm; xét nghiệm trong phòng thí nghiệm đối với các mẫu hoạt tính nên được tiến hành trong điều kiện kiểm soát sinh học tối đa. Tất cả các mẫu vật sinh học phải được đóng gói bằng cách sử dụng hệ thống đóng gói ba lần khi vận chuyển trong nước và quốc tế.


Hình 4

Thuốc điều trị và vaccine

Chăm sóc hỗ trợ - bù nước bằng đường uống hoặc tiêm truyền tĩnh mạch - và điều trị các triệu chứng đặc hiệu giúp cải thiện sự sống còn. Hiện vẫn chưa có thuốc điều trị được chứng minh là có hiệu quả với MVD. Tuy nhiên, một loạt các phương pháp điều trị tiềm năng bao gồm sản phẩm máu, liệu pháp miễn dịch và điều trị bằng thuốc hiện đang được đánh giá.

Virus Marburg ở động vật

Dơi Rousettus aegyptiacus được coi là vật chủ tự nhiên cho virus Marburg. Không có bệnh rõ ràng trong fruit bats. Do đó, sự phân bố địa lý của virus Marburg có thể chồng lấn với dơi Rousettus. Khỉ xanh châu Phi (Cercopithecus aethiops) nhập khẩu từ Uganda là nguồn lây nhiễm cho con người trong vụ dịch Marburg đầu tiên.

Việc tiêm phòng thực nghiệm ở lợn với các virus Ebola khác nhau đã được báo cáo và cho thấy lợn dễ bị nhiễm filovirus và làm lây lan virus. Do đó lợn nên được xem như là một vât chủ tiềm năng trong các vụ dịch MHF. Mặc dù chưa có động vật nuôi nào được xác nhận là có mối liên hệ với sự bùng nổ của filovirus, như là một biện pháp phòng ngừa chúng nên được coi là các vật chủ làm tăng nguy cơ tiềm năng cho đến khi được chứng minh.

Cần phải có các biện pháp phòng ngừa ở các trang trại lợn tại Châu Phi để tránh lợn bị nhiễm bệnh thông qua tiếp xúc với fruit bats. Nhiễm trùng như vậy có khả năng khuếch đại virus và gây ra hoặc đóng góp vào sự bùng nổ MHF.

Phòng chống

Kiểm soát vụ dịch tốt dựa vào việc áp dụng một loạt các biện pháp can thiệp, cụ thể là xử lý ca bênh, giám sát và theo dõi nguồn tiếp xúc, dịch vụ phòng xét nghiệm tốt, chôn cất an toàn và trang trọng và huy động xã hội.Sự tham gia của cộng đồng là yếu tố then chốt để kiểm soát dịch bệnh thành công. Nâng cao nhận thức về các yếu tố nguy cơ gây nhiễm Marburg và các biện pháp bảo vệ mà cá nhân có thể thực hiện là một cách hiệu quả để giảm sự lây truyền của con người. Thông điệp giảm nguy cơ nên tập trung vào một số yếu tố:

- Giảm nguy cơ lây truyền từ dơi sang người nảy sinh là do phơi nhiễm kéo dài tới các mỏ và các hang động bởi các quần thể fruit bats.Trong các hoạt động hoặc nghiên cứu hay tham quan du lịch trong các hầm mỏ hoặc hang động sinh sống của các quần thể fruit bats, mọi người nên đeo găng tay và quần áo bảo hộ thích hợp khác (bao gồm mặt nạ).Trong các vụ dịch, tất cả các sản phẩm động vật (máu và thịt) phải được nấu chín kỹ trước khi tiêu thụ.

- Giảm nguy cơ lây truyền từ người sang người trong cộng đồng phát sinh từ tiếp xúc trực tiếp hoặc tiếp xúc gần với người bệnh, đặc biệt với chất dịch cơ thể của họ. Phải tránh tiếp xúc gần gũi với người bệnh Marburg. Găng tay và thiết bị bảo hộ cá nhân thích hợp phải được đeo khi chăm sóc bệnh nhân bị bệnh tại nhà. Rửa tay thường xuyên phải được thực hiện sau khi thăm người thân bị ốm nằm trong bệnh viện, cũng như chăm sóc bệnh nhân ở nhà.

- Các cộng đồng bị ảnh hưởng bởi Marburg nên thực hiện các nỗ lực để đảm bảo rằng dân chúng được thông tin đầy đủ, cả về bản chất của bệnh tật và các biện pháp kiềm chế dịch bệnh cần thiết.

- Các biện pháp ngăn chặn dịch bệnh bao gồm việc chôn cất người chết nhanh chóng và an toàn, xác định những người có thể đã tiếp xúc với một ai đó bị nhiễm Marburg và theo dõi sức khoẻ của họ trong 21 ngày, cách ly những người khỏe mạnh với người bệnh để ngăn ngừa lây lan xa hơn và duy trì vệ sinh tốt và nhìn thấy một môi trường trong sạch.

- Giảm nguy cơ lây truyền tình dục có thể.Dựa trên phân tích đang nghiên cứu, TCYTTG khuyến cáo những người đàn ông sống sót sau khi khỏi bệnh Marburg nên thực hiện hành vi tình dục và vệ sinh an toàn trong vòng 12 tháng kể từ khi bắt đầu các triệu chứng hoặc cho đến khi tinh dịch của họ hai lần xét nghiệm âm tính với virus Marburg. Nên tránh tiếp xúc với chất dịch cơ thể và nên rửa bằng xà phòng và nước. TCYTTG không khuyến cáo cách ly các bệnh nhân nam hay nữ hồi phục khi máu của họ đã được xét nghiệm âm tính với virus Marburg.


Hình 5

Kiểm soát nhiễm trùng trong các cơ sở y tế

Nhân viên y tế nên thường xuyên thực hiện các biện pháp phòng ngừa chuẩn khi chăm sóc cho bệnh nhân, bất kể chẩn đoán giả định về họ. Các biện pháp này bao gồm vệ sinh tay cơ bản,vệ sinh hô hấp, sử dụng các thiết bị bảo hộ cá nhân (nhằm ngăn chặn việc bắn tung tóé hoặc tiếp xúc với các vật liệu khác bị nhiễm bệnh), thực hành tiêm chích an toàn và thực hành chôn cất an toàn và trang trọng.

Nhân viên y tế chăm sóc bệnh nhân nghi ngờ hoặc xác định do virus Marburg nên áp dụng các biện pháp kiểm soát nhiễm trùng khác để tránh tiếp xúc với máu hay các chất dịch của bệnh nhân và các bề mặt hoặc vật liệu bị ô nhiễm như quần áo và giường ngủ. Khi tiếp xúc gần (trong vòng 1m) với bệnh nhân bị MVD, nhân viên chăm sóc sức khoẻ nên đeo khấu trang bảo vệ mặt (mặt nạ hoặc khẩu trang y khoa và kính bảo hộ), áo choàng dài tay sạch sẽ, không vô trùng và găng tay (găng tay vô trùng cho một số thủ thuật).

Các nhân viên phòng xét nghiệm cũng có nguy cơ.Các mẫu lấy từ người và động vật để điều tra nhiễm Marburg nên được xử lý bởi nhân viên được đào tạo và được xử lý trong các phòng thí nghiệm được trang bị phù hợp.

Đáp ứng của TCYTTG

TCYTTG nhằm ngăn chặn sự bùng nổ Marburg bằng cách duy trì giám sát bệnh do virus Marburg và hỗ trợ các quốc gia có nguy cơ xây dựng các kế hoạch chuẩn bị sẵn sàng. Khi một vụ dịch được phát hiện WHO đáp ứng bằng cách hỗ trợ giám sát, sự tham gia cộng đồng, xử lý ca bệnh, các dịch vụ xét nghiệm, theo dõi người tiếp xúc, kiểm soát nhiễm khuẩn, hỗ trợ hậu cần và đào tạo và hỗ trợ thực hành chôn cất an toàn.TCYTTG đã phát triển lời khuyên chi tiết về phòng chống và kiểm soát bệnh Marburg.

Bảng: Diễn biến các vụ dịch lớn do virus Marburg qua các năm

Năm

Quốc gia và vùng lãnh thổ

Ca bệnh

Tử vong

Tỷ lệ tử vong ca

2014

Uganda

1

1

100%

2012

Uganda

15

4

27%

2008

Netherland (ex-Uganda)

1

1

100%

2008

United States of America (ex-Uganda)

1

0

0%

2007

Uganda

4

2

50%

2005

Angola

374

329

88%

1998-2000

Côngo

154

128

83%

1987

Kenya

1

1

100%

1980

Kenya

2

1

50%

1975

Nam Phi

3

1

33%

1967

Yugoslavia

2

0

0%

1967

Đức

29

7

24%

 

 

Ngày 09/11/2017
Ths.Bs Lê Thạnh
(Nguồn who.int.com)
 

THÔNG BÁO

   Dịch vụ khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn khám bệnh tất cả các ngày trong tuần (kể cả thứ 7 và chủ nhật)

   THÔNG BÁO: Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn xin trân trọng thông báo thời gian mở cửa hoạt động trở lại vào ngày 20/10/2021.


 LOẠI HÌNH DỊCH VỤ
 CHUYÊN ĐỀ
 PHẦN MỀM LIÊN KẾT
 CÁC VẤN ĐỀ QUAN TÂM
 QUẢNG CÁO

Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005
Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.
Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464
Email: impequynhon.org.vn@gmail.com
Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng
Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích