Home TRANG CHỦ Thứ 6, ngày 29/03/2024
    Hỏi đáp   Diễn đàn   Sơ đồ site     Liên hệ     English
IMPE-QN
Web Sites & Commerce Giới thiệu
Web Sites & Commerce Tin tức - Sự kiện
Web Sites & Commerce Hoạt động hợp tác
Web Sites & Commerce Hoạt động đào tạo
Web Sites & Commerce Chuyên đề
Web Sites & Commerce Tư vấn sức khỏe
Web Sites & Commerce Tạp chí-Ấn phẩm
Finance & Retail Thư viện điện tử
Công trình nghiên cứu về Ký sinh trùng
Công trình nghiên cứu về Sốt rét & SXH
Công trình nghiên cứu về Côn trùng & véc tơ truyền
Đề tài NCKH đã nghiệm thu
Thông tin-Tư liệu NCKH
Web Sites & Commerce Hoạt động Đảng & Đoàn thể
Web Sites & Commerce Bạn trẻ
Web Sites & Commerce Văn bản pháp quy
Số liệu thống kê
Web Sites & Commerce An toàn thực phẩm & hóa chất
Web Sites & Commerce Thầy thuốc và Danh nhân
Web Sites & Commerce Ngành Y-Vinh dự và trách nhiệm
Web Sites & Commerce Trung tâm dịch vụ
Web Sites & Commerce Thông báo-Công khai
Web Sites & Commerce Góc thư giản

Tìm kiếm

Đăng nhập
Tên truy cập
Mật khẩu

WEBLINKS
Website liên kết khác
 
 
Số lượt truy cập:
5 2 2 7 7 9 5 3
Số người đang truy cập
3 7 0
 Thư viện điện tử Thông tin-Tư liệu NCKH
Nghiên cứu trường hợp liên quan đến đạo đức và GCPs trong nghiên cứu y sinh học

Nghiên cứu trường hợp 1: Sự thật hay Hậu quả

1. Ngữ cảnh : Julio Cruz và Samantha Bergen đều là nghiên cứu sinh và đang làm việc với Tiến sĩ Mark Chan, một nhà miễn dịch học nổi tiếng. Mặc dù cả hai đều đang học năm thứ tư nhưng họ đều chưa từng có bài báo đăng. Cả hai đang bắt đầu lo lắng rằng nếu họ không có bài báo đăng sớm thì họ sẽ không thể có được vị trí trên tiến sĩ được tốt.

Cuối cùng, dự án của Julio bắt đầu nhìn đầy hứa hẹn. Sau nhiều tháng nỗ lực, anh tin rằng mình đã phân lập và tinh chế được một loại protein virus (RG198) có thể rất hữu ích để gây miễndịch cho các loài linh trưởng không phải con người để chống lại các retrovirus gây bệnh AIDS. Julio hiện đang phải lặp lại quá trình tinh chế để thu được nhiều protein RG198 hơn cho các thử nghiệm tiếp theo và để giải trình tự gien. Tiến sĩ Chan rất vui mừng về sự tiến bộ của Julio, và nói với anh ấy lặp lại thí nghiệm của mình và bắt đầu viết kết quả, vì một số phần trong quá trình phân lập và tinh chế là mới và có thể đăng tải được ở một tạp chí quan trọng, chẳng hạn như tạp chí Nature.

2. Áp lực công bố có thể ảnh hưởng đến việc tiến hành các nghiên cứu như thế nào?

Là nghiên cứu sinh, Julio và Samantha lo lắng rằng họ cần phải đăng một bài báo để giúp họ có được một công việc tốt sau khi tốt nghiệp. Một số nghiên cứu thấy rằng người ta có thể có hành vi sai trái/vi phạm đạo đức nếu họ cảm thấy phải chịu áp lực nghề nghiệp và tin rằng họ có thể đi tắt để có được câu trả lời cho nghiên cứu.

 
Mặc dù chỉ có sẵn một lượng nhỏ protein RG198, Julio và Tiến sĩ Chan đồng ý rằng họ phải thúc đẩy và làm việc một cách nhanh chóng. Để giúp Julio khi anh ấy đang sản xuất nhiều RG198 hơn cho loạt thử nghiệm tiếp theo, Tiến sĩ Chan tuyển Samantha hỗ trợ Julio một số xét nghiệm. Samantha không thành công lắm với dự án của mình, một dự án liên quan đến phân lập và tinh chế của một thụ thể cytokin dưới nhóm tế bào T của người và Tiến sĩ Chan thấy rằng việc thực hiện thử nghiệm này sẽ dạy cho cô một số kỹ năng mà cô có thể áp dụng cho dự án của chính mình. Tiến sĩ Chan hứa để cô ấy là tác giả thứ hai của bài báo nếu các kết quả nghiên cứu phân tích của cô có kết quả tốt. Mặc dù Julio không đánh giá cao Samantha, cho rằng cô cẩu thả, nhưng anh ấy muốn công việc nghiên cứu của mình tiến triển. Anh đã đưa cho cô 2 lô protein RG198 để làm nghiên cứu phân tích.

3. Có phù hợp không khi Tiến sĩ Chan hứa để Samantha là tác giả thứ 2?

Hướng dẫn của Hiệp hội Hóa học Hoa Kỳ năm 2000 cho thực hành đạo đức về quyền tác giả chỉ ra rằng tác giả là một người có đóng góp đáng kể về mặt khoa học cho một bài báo và sẽ cùng chịu trách nhiệm đối với các kết quả. Tất cả những người khác sẽ được liệt kê trong phần Lời cảm ơn. Bạn có nghĩ rằng Samantha đáp ứng được với cácyêu cầu này không? Ngoài ra, bạn có nghĩ rằng Tiến sĩ Chan gây áp lực quá mức đối với Samantha bằng cách dùng quyền tác giả trói buộc cô ấy để cóđược những kết quả nhất định?

4. Julio nên làm gì nếu anh không tin tưởng Samantha?

Nếu Julio không cảm thấy thoải mái khi Samantha thực hiện các thử nghiệm phân tích, có lẽ anh nên nói với Tiến sĩ Chan về những lo ngại của mình. Mặc dù có một số áp lực phải thúc đẩy các thử nghiệm tổng hợp, anh có thể vẫn cứ tự mình thực hiện các thử nghiệm phân tích hoặc quan sát khi Samantha thực hiện để đảm bảo rằng các thử nghiệm này được thực hiện một cách chính xác.

Samantha hoàn thành việc phân tích lô đầu tiên và các kết quả làm cô rất phấn khích, các kết quả xác nhận rằng protein RG198 được cho là có ba trong số bốn nhóm HS-SH. Ở lô thứ hai, Samantha thực hiện một loạtcác thử nghiệm khác, sử dụng một công cụ phân tích khác để xác định vị trí của mối liên kết HS-SH thứ 4. Vào ngày cô đang làm thử nghiệm đầu tiên của lô RG198 thứ hai, cô gọi điện thoại cho Julio từ cơ sở phân tích, cơ sở này nằm cách phòng thí nghiệm chỉ ngang qua đường và hỏi anh rằng liệu hợp chất có thể bị nhiễm không vì hình thái của quang phổ không như những gì người ta mong đợi đối với hợp chất này.

Julio bảo Samantha giữ lại tất cả những vật liệu còn lại của lô thứ hai, nói với cô rằng anh sẽthực hiện vòng phân tích thứ hai. Nhưng khi Samantha trở lại phòng thí nghiệm một vài giờ sau đó, cô không đưa cho anhlượng protein RG198 còn lại. Cô nói với Julio rằng cô thu được kết quả tốt và việc phiên giải nhầm kết quả lúc đầu là do mình mệt mỏi, và rằng do mình đã vô tình tập trung vào một mẫu tham chiếu, không phải là protein RG198. Vì không còn đủ RG198 để chạy lại phản ứng nên Julio không có cách nào để thẩm định được các kết quả của cô ấy. Samantha đã cố gắng cam đoan lại với Julio bằng cách cho anh xem bản ghi biểu đồ mà thiết bị đã vẽ khi chạy phản ứng với lô thứ 2, chỉ ra kết quả của nhóm liên kết HS-SH thứ 4.

5. Julio nên làm gì bây giờ?

Thay vì tiếp tục như thể không có gì đã xảy ra, Julio có lẽ nên nói chuyện với Samantha về những gì có thể đã xảy ra và nói chuyện với tiến sĩ Chan về những mỗi lo ngại của anh đối với những kết quả phát hiện của Samantha.

Tiến sĩ Chan ngây ngất với những phát hiện này, và nói với Julio nhanh chóng viết báo. Julio không muốn buộc tội Samantha về những thao tác đối với các kết quả nghiên cứu, nhưng sau đó vào ngày anh xem lại sổ nhật ký nghiên cứu của cô ấy và thấy một thường quy viết tay và các số liệu của thử nghiệm lô thứ nhất. Ở lô thứ hai, anh thấy cô ấy chỉ để bản ghi vào sổ nhật ký nghiên cứu, và anh thấy nó quá ư sạch sẽ. Ngoài ra, cũng không kèm ghi chép gì cả. Anh phân vân không biết đã xảy ra chuyện gì. Có lẽ cô đã dùng một mẫu tham chiếu và một số thao tác cơ học để làm cho đỉnh của nhóm hóa học thứ 4 trông thật tinh khiết.

6. Vấn đề chính trong cách cô ấy giữ sổ nhật ký nghiên cứu là gì? Ở trường hợp này, các hành vi sai trái/vi phạm đạo đức nằm ở đâu?

Rõ ràng, sau bốn năm là nghiên cứu sinh, cô ấy đã phải biết rằng phải viết sổ nhật ký phòng thí nghiệm những gì mình đã làm trong lần thử nghiệm thứ hai. Luôn ghi sổ nhật ký phòng thí nghiệm, là sổ ghi chép lại cả các quy trình thực hiện và các kết quả, là một phần của việc thực hiện trách nhiệm nghiên cứu. Tuy nhiên, trong trường hợp này, Samantha có lẽ ngại việc đặt bút ghi chép bất cứ thứ gì về kinh nghiệm của mình với thử nghiệm thứ hai, phạm lỗi thiếu sót (không làm được những gì có thể làm và đáng ra phải làm) chứ không phải là lỗi cố tình (biết sai mà vẫn làm).

Julio không chắc chắn về việc liệu anh có thể tin tưởng kết quả của Samantha hay không, nhưng anh vẫn tiến hành viết báo về phân lập và tinh chế protein virus và các phân tích do Samantha thực hiện. Bài viết được đăng ở tạp chí Nature, nhưng sau đó vài tháng, các nhà khoa học khác, những người lặp lại thử nghiệm tổng hợp của anh lại thấy quang phổ khác so với những gì đã được báo cáo trong các thử nghiệm cho lô protein thứ hai của anh.

7. Tại sao có luật liên bang và các quy định chống lại hành vi sai trái/việc vi phạm đạo đức?

Vào những năm 1980, một số trường hợp hồ sơ cá nhân có hành vi sai trái/vi phạm đạo đức đã trở thành đối tượng điều tra của Quốc hội. Vì chính phủ liên bang tài trợ cho các nghiên cứu tại các có sở hàn lâm từ tiền do người dân nộp thuế, nên các cơ quan liên bang thấy rằng họ phải xây dựng các quy định về việc các cơ quan nghiên cứu nên giải quyết các cáo buộc hành vi sai trái/vi phạm đạo đức như thế nào và các đơn vị giám sát trực thuộc các cơ quan liên bang nên theo dõi hoạt động của các đơn vị nghiên cứu như thế nào để điều tra những cáo buộc.

Trong thời gian đó, Julio đã có thể tổng hợp thêm nhiều hơn hợp chất này, và thậm chí thànhcông trong việc gây miễn dịch cho các loài linh trưởng không phải con người tuân thủ theo một thường quy đã được IACUC phê duyệt. Khi anh tiến hành lặp lại các phân tích về các nhóm HS-SH thứ tư trong protein RG198, anh tìm thấy một loại hình quang phổ khác với những gì Samantha đã tìm thấy, cái mà đã được công bố. Anh tin rằng cô ấy đã phải làm gì đó với số liệu.

8. Có vẻ như rõ ràng rằng số liệu của Samantha có vấn đề. Julio nên làm gì bây giờ?

 
Julio có một vài lựa chọn cho việc tiếp tục côngviệc như thế nào. Đầu tiên, anh nên ghi lại mọi cáo buộc anh có thể thu được về những phát hiện của Samantha. Sau đó, anh có thể nên nói ra những quan ngại của mình với tiến sĩ Chan, là người có thể theo dõi cùng với văn phòng đảm bảo tính chính trực nghiên cứu của đơn vị. Các trường đại học nhận được tài trợ liên bang cho nghiên cứu đều có một văn phòng hoặc quản trị viên để giải quyết những cáo buộc về hành vi sai trái/vi phạm đạo đức. Tại hầu hết các đơn vị đều có một ủy ban thường trực. Tiến hành nghiên cứu Khoa học. Các ủy ban này tuân theo hướng dẫn của chính phủ liên bang về các giai đoạn của một cáo buộc hành vi sai trái, bao gồm tiếp nhận, điều tra, và đưa ra quyết định. Xử phạt đối với những người bị quy kết là có hành vi sai trái/vi phạm đạo đức, có thể nhẹ từ khiển trách đến nặng là không được nhận tài trợ nghiên cứu trong một khoảng thời gian. Trong trường hợp này, nếu xác định là có hành vi sai trái/vi phạm đạo đức thì nghiên cứu viên cũng sẽ phải liên hệ với tạp chí để rút lại kết quả sai từ các bài báo đã bố về các nhóm phân tử thứ tư.

Nghiên cứu trường hợp 2: "Chỉnh sửa và Ghi công" - Đạo văn

1. Ngữ cảnh: Lin là một nghiên cứu sinh, đã hoàn thành bằng đại học của mình ở Trung Quốc và bây giờ đang học năm thứ 2 của một chương trình học sau đại học tại Hoa Kỳ. Anh học rất tốt nhưng vẫn còn lo lắng về trình độ viết tiếng Anh của mình. Lin được yêu cầu viết một bài báo về RNA xúc tác cho một khóa học về sinh học phân tử nâng cao. Anh đọc rất nhiều tài liệu và sử dụng một số ngôn từ lấy từ các bài báo nhận xét ​​phản biện mà anh đã đọc. Anh trích dẫn tài liệu tham khảo, nhưng không sử dụng dấu ngoặc kép cho ngôn từ "vay mượn".

  • Tại sao điều này lại sai?

Nếu không có dấu ngoặc kép thì người đọc không thể xác định được thông tin 'vay mượn' bắt đầu và kết thúc ở đâu.

  • Ngữ pháp và cú pháp tiếng Anh chính xác quan trọng như thế nào?

Rất quan trọng!!! Nó rất quan trọng, thông điệp được truyền đạt rõ ràng và chính xác nhất có thể.

  • Nếu quan trọng, làm thế nào một sinh viên hoặc giảng viên nước ngoài có thể đạt được mức độ cần thiết?

Sinh viên nước ngoài phải tận dụng lợi thế nguồn lực của cơ quan bao gồm các biên tập viên và chuyên gia về viết lách.

Một năm sau đó, Lin đang viết một đề cương cho kỳ thi thứ hai của mình. Tuy nhiên, anh lo lắng về vốn tiếng Anh của mình nên nhờ người bạn cùng phòng chỉnh sửa tiếng Anh (không phải là khoa học) cho luận án của mình. Sau khi xem xét đề cương này, một thành viên của Ủy ban cáo buộc anh đã đạo văn.

  • Lin có sai không khi nhờ giúp đỡ chỉnh sửa?

Không, Anh không sai khi yêu cầu giúp đỡ. Anh chỉ nhờ sai người! Anh nên hỏi mộ t người am hiểu trong lĩnh vực này và nói rằng rằng anh đã đặc biệt quan ngại về đạo văn.

  • Trách nhiệm của giảng viên trong trường hợp này là gì?

Giảng viên cố vấn của anh nên nhấn mạnh rằng Lin hiểu rõ đạo văn là như thế nào. Cố vấn nên chỉ ra nguồn trang mạng có thể sử dụng để phát hiện đạo văn.

  • Lin nên làm gì?

Có lẽ cách tốt nhất là giải thích cho ủy ban rằng anh không cố ý đạo văn công trình và xin một cơ hội khác để hoàn thành kỳ thi sau khi anh đã hoàn thành khóa đào tạo RCR và một khóa học về văn phong khoa học. Anh ấy có thể thực hiện được điều này thông qua người biện hộ hoặc người cố vấn của mình. Bạn nghĩ gì về điều này?

2. Ghi công

Tạp chí Sinh học phân tử yêu cầu Rev đọc bài báo và viết đánh giá phản biện. Rev đã làm điều này. Cuối năm đó, trợ lý biên tập viên của tạp chí là nói chuyện với Tiến sĩ Jones, xếp của Rev, về một trong những ý tưởng rất hay trong bài xem xét phản biện. Tiến sĩ Jones không cảm thấy vui khi có được thanh danh nhờ ý tưởng này.

  • Bạn nghĩ gì về điều này?

Rev nên nói chuyện với Tiến sĩ Jones và đăng ký cho những mối quan tâm của mình. Tìm hiểu thêm về cuộc trò chuyện giữa Jones và biên tập viên và xác định xem liệu ý tưởng của Rev có được một trong hai đơn vị theo dõi hay không. Thêm vào đó, Rev có lẽ không nên đặt bất cứ điều gì trong các nhận xét ​​phản biện mà anh muốn có được uy tín.

  • Những ý tưởng nên được ghi nhận trong các tình huống khác nhau như thế nào?

Ghi công ở dưới dạng nhiều hình thức. Quyền tác giả và sự cảm ơn là cách chính thức để ghi công trên xuất bản phẩm. Các ý tưởng có thể được ghi chép lại theo một số cách như trong một quyển sổ có chữ ký và ngày tháng hoặc trong một cuốn nhật ký. Ghi công đúng là thiết yếu trong mọi tình huống. Nếu không thì nó là ĐẠO VĂN.

  • Tại sao ghi công lại quan trọng?

Người ta tranh cãi là 'sản phẩm' của một nhà khoa học hoặc sở hữu trí tuệ là những ý tưởng của một người. Miêu tả sai, xuyên tạc nhữngý tưởng của một ai đó, từ ngữ hoặc chất liệu như thể là của bạn thì không chỉ là không trung thực, mà còn cản trở tác giả thực sự của ý tưởng đó nhận được sự công nhận, ghi công xứng đáng.

Nghiên cứu trường hợp 3: Không có tin tức, không phải là tin tốt lành"

Phân vai:

Tiến sĩ Behg Dehawg, Nghiên cứu viên chính (PI) và là cố vấn nghiên cứu.

Sidney - nghiên cứu sinh 1 có một dự án đang chạy.

Terry - nghiên cứu sinh 2 sẽ giúp Sidney thực hiện dự án

Ngữ cảnh:

 
Tiến sĩ Behg Dehawg, một nhà di truyền học nổi tiếng và là giáo sư hóa sinh tại Viện Nghiên cứu Eastwood, là cố vấn cho hai nghiên cứu sinh Sydney và Terry. Tiến sĩ Dehawg dạy các khóa học bậc sau đại học, cố vấn cho các sinh viên đã tốt nghiệp và "sinh viên trên tiến sỹ", xuất bản công trình của mình, và thường xuyên nói chuyện về công trình của mình. Sinh viên sau đại học của ông tự thấy rằng mình rất may mắn khi là một phần của nhóm ông và tin rằng họ đang được hướng dẫn bởi một trong những giáo sư giỏi nhất trong lĩnh vực sửa chữa ADN.

Sydney đang làm trong một dự án được tài trợ bao gồm xác định đặc điểm của một gen mới, mã hóa cho một loại protein liên quan đến việc nhận dạng các DNA bị phá hủy. Dự án của Terry chưa nhận được tài trợ, dự án này có công việc tương tự nhưng tập trung vào biểu hiện của gen trong các tế bào ung thư.

Dự án của Sydney chạy rất tốt. Tiến sĩ Dehawg xem xét tập số liệu đầu tiên và đề nghị Sydney tiếp tục công việc của mình để giải trình tự gen. Sydney thiết tha làm điều này, nhưng cũng hơi nản lòng bởi thời gian còn quá ít để nộp bản thảo luận án cuối cùng. Ngoài ra, gần đây Sydney đã tham dự một hội nghị và biết rằng một nhóm nghiên cứu tại Đại học Westwood rất quan tâm đến cùng lĩnh vực nghiên cứu và trong thực tế, đã đang phân tích cùng một gene đó hoặc một gen tương tự.

Nếu giải trình tự gen thì kinh phí bổ sung cũng có sẵn và có thể xác định được các yếu tố điều hòa. Tiến sĩ Dehawg làm việc bận rộn với công trình công bố của ông và không dành nhiều thời gian cho những nỗ lực thu thập và phân tích số liệu cho các sinh viên tiến sĩ. Vì vậy, ông gợi ý Sydney nhờ Terry giúp đỡ chạy một số thử nghiệm vàthu thập số liệu. Tiến sĩ Dehawg cũng tin rằng đây chỉ là kinh nghiệm mà Terry cần. Sydney biết rằng các nghiên cứu sinh đã xì xào về vấn đề đạo đức trong công việc của Terry, nhưng vì Tiến sĩ Dehawg đã đề xuất đó, nên cô đã đồng ý hợp tác với Terry.

    • Nếu đạo đức làm việc của Terry có vấn đề, thì liệu việc Sidney đưa anh ấy vào làm việc cho dự án có phải là một ý tưởng tốt hay không?

Rõ ràng là không! Sydney chịu áp lực từ Tiến sỹ Dehawg khi chấp nhận sự giúp đỡ này. Sydney nên thảo luận tình hình với Dehawg và chỉ ra mối quan ngại của mình đối với Terry

    • Sydney phải làm gì trước khi cho phép Terry để tham gia vào dự án?

Sydney nên thảo luận thẳng thắn với Terry và Tiến sĩ Dehawg. Sydney nên khẳng định vai trò lãnh đạo và chắc chắn rằng Terry đã hiểu rõ ràng về dự án và các kỳ vọng của cô.

 
Phương pháp tiếp cận để phân tích ADN của Sydney là một trong những thử nghiệm phải nghĩ rất chu đáo và phải chú ý hết sức cẩn thận đến từng chi tiết. Sydney thậm chí còn yêu cầu một người bạn xem xét các tập số liệu cuối cùng để đảm bảo không có sai số xảy ra do Sydney quá nhiệt tình làm cho dự án. Terry không có cùng một phương cách tiếp cận này. Trên thực tế, Terry tức giận khi bị yêu cầu làm việc cho một dự án khác và lo rằng công việc của Sydney sẽ được đánh giá cao hơn của mình. Dần dần, Terry trở nên kém nhiệt tình với dự án và bị tụt lùi.

    • Thay vì bỏ qua phương pháp tiếp cận thông thường đối với công việc của Terry thì Sydney nên làm gì?

Sydney nên đối mặt với Terry về thói quen trong công việc của cậu ấy. Hơn tất cả, đây là dự án của Sydney và thái độ của Terry đang đặt cho công trình của chị vào nguy hiểm. Sydney nên xây dựng thường quy kiểm soát chất lượng và đảm bảo chất lượng để đảm bảo tính chính trực, toàn vẹn của số liệu.

Giả sử rằng số liệu của Sydney là hợp lệ, Terry sử dụng lặp lại cùng các điểm số liệu, nhưng sửa đổi một số thông tin hỗ trợ. Trong khi đó Tiến sĩ Dehawg giả định rằng không có tin tức là một điều tốt lành và không tổ chức các cuộc họp nhân viên như thông thường với Sydney và Terry. Thời hạn nộp luận án của Sydney đang đến gần và Tiến sĩ Dehawg xem nhanh lại số liệu. Mặc dù Tiến sĩ Dehawg có một cảm giác rằng hình như có một cái gì đó không ổn, ông cho rằng chỉ đơn giản là mình nghĩ quẩn và biết rằng Sydney luôn luôn rất cẩn thận và siêng năng.

  • Terry đã phạm phải loại hành vi sai trái nào trong nghiên cứu?

Bịa đặt? Giả mạo?

  • Tiến sĩ Dehawg có xung đột về cam kết đối với học sinh và công việc của mình. Ông nên làm vì để "quản lý" xung đột đó?

Tiến sĩ Dehawg đã bỏ quên học sinh của mình. Ông nên xác định Terry có phù hợp hay khôngtrước khi giao cho anh ấy tham gia vào dự án của Sydney. Vì ông quá bận rộn, ông có thể chỉ định một nghiên cứu sinh cao cấp hoặc nghiên cứu sinh trên tiến sỹ giám sát công việc của Sydney. Thỉnh thoảng, ông cũng có thể gác công việc của mình sang một bên và hướng dẫn cho Sydney một cách tốt hơn.

  • Tiến sĩ Dehawg nên làm gì nếu có vấn đề liên quan đến tính chính trực, toàn vẹn của số liệu?

Nếu Dehawg có những quy định liên quan đến các số liệu thì ông đã nói chuyện với Sydney và bày tỏ mối quan tâm. Rất có khả năng là hành vi sai trái/vi phạm đạo đức có thể đã được phát hiện nếu Dehawg giúp Sydney nhiều hơn và chú tâm hơn tới những gì mà cô ấy cần.

  • Sydney nên làm gì trước khi số liệu được trình cho Tiến sĩ Dehawg?

Sydney nên nghiêm khắc hơn với số liệu của mình, đặc biệt là khi số liệu đó lại được thu thập bởi một người khác chứ không phải bản thân cô ấy. Nếu Sydney và Tiến sĩ Dehawg không quá lo lắng đến việc ra báo như vậy thì có thể cô ấy đã nghiên cứu vấn đề này nhiều hơn và phát hiện ra được các số liệu giả mạo.


           Sydney
vui mừng xúc động với kết quả của nghiên cứu và bài ​​báo được công bố trong một tạp chí khoa học lớn, Terry là tác giả thứ hai. Nhóm nghiên cứu của một cơ quan/tổ chức khác đánh giá bài viết và ghi chú rằng các số liệu có một cái gì đó có vẻ như hơi quá "sạch sẽ" và họ bắt đầu đặt câu hỏi về tính hợp pháp của nó.

  • Tiến sĩ Dehawg nên làm gì bây giờ?

Trước tiên, Dehawd nên cẩn thận xem xét các số liệu để xác định xem tính chính trực/toàn vẹn của số liệu có bị vi phạm hay không. Vì ông biết ông không gian lận số liệu, nên ông cần bảo vệ chính mình và bảo vệ tất cả các bên tham gia vô tội.

  • Liệu Tiến sĩ Dehawg có nên gọi cho ORI để tiến hành một cuộc điều tra?

Không, chưa nên. Trường đại học có các chính sách và quy trình để điều tra hành vi sai trái/vi phạm đạo đức và phải thực hiện đúng quy trình này trước khi gọi cho ORI.

  • Sydney nên làm gì bây giờ

Sydney biết rằng cô ấy không làm giả hoặc làm sai lệch dữ liệu, nhưng rất quan ngại về danh tiếng và sự nghiệp của mình. Cô sẽ gặp gỡ với Tiến sĩ Dehawg để xem xét các số liệu và cô sẽ hợp tác đầy đủ với mọi cuộc điều tra.

  • Nếu Terry đứng lên và thừa nhận hành vi sai trái, cái gì có thể sẽ xảy ra cho sự nghiệp di truyền học / tiếng nói của anh ấy.

Nếu người ta phát hiện ra Terry bịa và làm sai lệch số liệu, anh ta có thể phải bắt đầu tìm kiếm một công việc khác. Rất có thể anh ta sẽ bị nhóm nghiên cứu của Tiến sỹ Dehawg trừng phạt, hành vi của anh ta sẽ bị báo cáo cho ORI. ORI sau đó có thể cấm anh ta không được tài trợ nghiên cứu của liên bangtrong thời gian 3 năm.

  • Nếu hành vi sai trái được khẳng định, Sydney và Tiến sĩ Dehawg nên làm gì tiếp theo?

Một cách khó khăn nhưng họ sẽ cần phải rút lại bài báo có số liệu sai này. Hành động này có ảnh hưởng tới cả Sydney và Tiến sĩ Dehawg trong nhiều năm tới.

4. Các điểm phản hồi

Thời hạn và áp lực thời gian là những thứ trong đời sống của các cơ quan nghiên cứu. Làm thế nào để người ta quản lý áp lực đó mà vẫn tiến hành được nghiên cứu một cách có đạo đức?

Đi tắt có thể đặt tất cả mọi thứ vào nguy cơ. Chọn cộng tác viên một cách cẩn thận và nói thẳng thắn về những kỳ vọng. Tương tự như vậy, cố vấn có trách nhiệm xem xét và thảo luận về trách nhiệm của cộng tác viên trongmột nhóm nghiên cứu. Cố vấn trong kịch bản này đã không hoàn thành đầy đủ trách nhiệm của mình; thật vậy, ông đã bỏ bê học sinh của mình, đặc biệt là sau khi đã nhận ra rằng có một cái gì đó như là "không ổn" mà vẫn không cùng với các sinh viên theo dõi nó.

Nghiên cứu trường hợp 4: Chia sẻ và Tương tự Chia sẻ ?

1. Bối cảnh:

Jim là một nghiên cứu sinh trong Khoa di truyền học. Đề tài nghiên cứu của luận án của anh là lập bản đồ gen liên quan đến hằng định nội mô của đường máu. Công trình của anh là một phần của một nghiên cứu đa trung tâm lớn hơn về di truyền học của bệnh béo phì. Các nghiên cứu lớn hơn được tiến hành trên hàng ngàn bệnh nhân và bao gồm thông tin chẳng hạn như tầng lớp kinh tế xã hội, tự xác nhận dân tộc, mức độ hoạt động, cân nặng, và các dữ liệu y tế khác. Mẫu máu và ADN được giữ trong phòng thí nghiệm của Jim cùng với một cơ sở dữ liệu mà cơ sở dữ liệu này kết nối các thông tin nhận diện duy nhất - nhưng không phải tên bệnh nhân - với các dữ liệu. Điều phối viên nghiên cứu tại mỗi cơ sở có quyền truy cập vào chìa khóa mã hóa; tuy nhiên, các sinh viên và nghiên cứu viên khác làm việc cho dự án thì không có chìa khóa mã hóa này. Các nghiên cứu viên có thể sử dụng cơ sở dữ liệu để lấy và nhập dữ liệu liên quan đến các mẫu, nhưng họ không thể biết được danh tính của các cá nhân tham gia nghiên cứu.

2. Người ta bảo rằng nghiên cứu này vô danh/ẩn danh. Điều này có nghĩa là gì?

Thông tin di truyền là thông tin rất mang tính cá nhân và riêng tư, và mọi người tham gia nghiên cứu này bởi vì họ hy vọng rằng nó sẽ giúp họ và gia đình của họ, cũng như những người khác có cùng các điều kiện tương tự. Tuy nhiên, nếu bẩm chất của một ai đó đối với một bệnh được tiết lộ cho công ty bảo hiểm y tế hoặc người sử dụng lao động thì có thể xảy ra hiện tượng phân biệt đối xử khủng khiếp. Mọi người sẽ đồng ý tham gia nghiên cứu với điều kiện là các thông tin về sức khỏe của họ được bảo vệ một cách phù hợp.

3. Thỏa thuận tham gia nghiên cứu/Thỏa thuận đồng ý

Các bệnh nhân/đối tượng tham gia nghiên cứu đã được tuyển chọn tại các địa điểm/cơ sở nghiên cứu khác nhau. Ở lần tiếp xúc đầu tiên với một thành viên tham gia nghiên cứu tiềm năng, một chuyên viên tư vấn về di truyền giải thích về nghiên cứu và sắp xếp gặp gỡ để bắt đầu quá trình lấy thỏa thuận tham gia nghiên cứu/Thỏa thuận đồng ý. Trong khi gặp gỡ, những người tham gia nghiên cứu biết về các mục tiêu của dự án, vai trò của họ khi là đối tượng tham gia nghiên cứu, và những rủi ro và lợi ích khi tham gia nghiên cứu. Thỏa thuận tham gia nghiên cứu/thỏa thuận đồng ý nói rằng các mẫu máu và các ADN và các dữ liệu kết quả sẽ ẩn danh/vô danh, rằng đối tượng tham gia có thể rút khỏi nghiên cứu bất cứ lúc nào, và rằng các mẫu sẽ được sử dụng chỉ riêng cho nghiên cứu này. Nếu các mẫu bệnh phẩm của các cá nhân tham gia nghiên cứu sẽ được sử dụng cho một nghiên cứu không liên quan thì người ta phải liên lạc lại với họ và phải thực hiện quá trình lấy thỏa thuận tham gia nghiên cứu lần thứ hai, đặc biệt là với nghiên cứu mới.

4. Thỏa thuận tham gia nghiên cứu/thỏa thuận đồng ý là gì?

 
Một Bản thỏa thuận tham gia nghiên cứu là một tài liệu do luật liên bang yêu cầu, tài liệu này cung cấp cho các đối tượng tham gia nghiên cứu những giải thích về bản chất của nghiên cứu và những rủi ro tiềm ẩn của việc tham gia nghiên cứu. Nó cho phép một đối tượng tham gia nghiên cứu được thông báo một cách phù hợp về việc quyết định tham gia vào một đề cương nghiên cứu. Bản thỏa thuận tham gia nghiên cứu sẽ giải thích về nghiên cứu, thời gian tham gia, các quy trình thử nghiệm, các lợi ích có thể của việc tham gia, đặc tính của việc giữ bí mật các hồ sơ, cho dù có phải tiết lộ hồ sơ và tiết lộ cho ai, địa chỉ liên lạc của dự án nếu một đối tượng tham gia có câu hỏi hoặc khi họ gặp phải một vấn đề nào đó, và quyền được rút khỏi dự án của các cá nhân.Tính chất
và phạm vi nội dung của một bản thỏa thuận tham gia nghiên cứu được Hội đồng xem xét phê duyệt, là hội đồng theo dõi tất cả các nghiên cứu liên quan đến con người tại các trung tâm hàn lâm. Các đơn vị/cơ sở/tổ chức như Đại học Columbia đồng ý tiến hành nghiên cứu trên đối tượng nghiên cứu là con người bằng cách tuân thủ những gì được gọi là Quy tắc thông thường và bảo đảm với chính phủ liên bang rằng tất cả các nghiên cứu đang được tiến hành, được tài trợ bởi liên bang hoặc tư nhân, sẽ tuân thủ các hướng dẫn của liên bang, trong đó bao gồm đối tượng nghiên cứu có quyền được thỏa thuận tham gia nghiên cứu.

5. Có số liệu ẩn danh/vô danh có nghĩa là gì?

Dữ liệu ẩn danh/vô danh là những dữ liệu mà đã loại bỏ những thông tin xác định duy nhất, chẳng hạn như tên hoặc số an sinh xã hội. Luật pháp liên bang đưa ra một danh sách 18 thông tin xác định cá nhân cần phải được loại bỏ khỏi dữ liệu để tránh nhận dạng đối tượng nghiên cứu. Đó là:

1.Tên

2.Số tài khoản

3.Số của bệnh án

4.Số an sinh xã hội

5.Tất cả các yếu tố ngày tháng (ngoại trừ năm) trực tiếp liên quan đến một cá nhân, bao gồm ngày tháng sinh, ngày nhập viện, ngày xuất viện, ngày chết, và mọi lứa tuổi trên 89

6.Số điện thoại

7.Số Fax

8.Tất cả các phân khu địa lý nhỏ hơn mức tiểu bang, bao gồm địa chỉ đường phố, thành phố, hạt, phường, và mã vùng (ngoại trừ ba chữ số đầu tiên nếu dân số vượt quá 20.000)

9.Số thụ hưởng kế hoạch sức khỏe

10.Địa chỉ E-mail

11.Số địa chỉ Internet (địa chỉ IP)

12.Bộ định vị Nguồn tài nguyên Mạng toàn cầu (Web Universal Resource Locators - URLs)

13.Thông tin xác định cho thiết bị, số se-ri

14.Số của Giấy chứng nhận / giấy phép

15.Số xác định của xe cộ, số se-ri

16.Ảnh chụp toàn bộ khuôn mặt và tất cả các hình ảnh tương tự

17.Các thông tin nhận dạng sinh trắc học như dấu vân tay và giọng nói

18.Tất cả mọi thông tin nhận dạng cá nhân khác xác định số lượng, đặc tính, hoặc mã

5. Hãy chia sẻ các mẫu

Dự án của Jim liên quan đến một tập hợp con hàng trăm mẫu từ nghiên cứu về bệnh béo phì. Một ngày, Renee, một trong những nghiên cứu sinh khác làm việc trong phòng thí nghiệm, đến gặp Jim và bắt đầu hỏi về các mẫu anh đang có. Cô giải thích rằng để thực hiện công trình về thiếu máu tế bào hình liềm và đột biến ở một gene hemoglobin ở người Mỹ gốc Phi của mình thì cô cần 50 mẫu chứng để ghép cặp cho đặc tính dân tộc. Vì Jim có quyền truy cập vào tập hợp các mẫu lớn như thế này nên Renee hỏi liệu cô ấy có thể xẻ một lượng nhỏ một số mẫu của nghiên cứu về bệnh béo phì của Jim hay không. Cô nói với Jim rằng cô sẽ không nghiên cứu về bệnh ở những bệnh nhân này và sẽ không tiến hành “nghiên cứu" trên các mẫu này. Cô chỉ cần chúng để làm chứng, và cô thậm chí còn không cần nhiều ADN. Khi hướng đầu về phía tủ đá, Reneehỏi “Các mẫu này nằm ở hộp nào thế?”. Renee đã đứng ở cạnh tủ đá đang mở cửa thì Jim nói, "Renee, tôi sẽ rất vui khi nói cho bạn biết thêm về các mẫu của chúng tôinhưng nếu bạn thực sự muốn sử dụng những mẫu này cho nghiên cứu của mình thì tốt hơn là bạn nên nói chuyện với Jane, điều phối viên của nghiên cứu về việc lấy thỏa thuận đồng ý của các thành viên tham gia nghiên cứu về bệnh béo phì”. Anh tiếp tục, "Hoặc là, một cách khác có thể nhanh hơn là chỉ cần đặt hàng từ một ngân hàng ADN thương mại một tập hợp các mẫu vô danh/ẩn danh. Sẽ thực sự rất mất công, mệt mỏi khi liên lạc lại với tất cả những người này chỉ để dùng mẫu của họ làm chứng."

6. Tại sao không nên để Renee có thể sử dụng các mẫu để làm mẫu chứng?

Không nên để Renee có thể sử dụng các mẫu này bởi vì những người tham gia vào dự án nghiên cứu bệnh béo phì nói rằng họ chỉ tham gia vì mục đích nghiên cứu bệnh béo phì, và không cho các câu hỏi nghiên cứu của cô ấy. Đối tượng tham gia đặc biệt nói rằng nếu mẫu của họ sẽ được sử dụng cho một nghiên cứu khác thì điều tra viên sẽ phải liên lạc lại với họ và phải được sự cho phép và đồng ý của họ cho nghiên cứu mới này. Thỏa thuận đồng ý có nghĩa là đối tượng biết được mức độ mà dữ liệu sẽ được sử dụng. Đơn giản chỉ là lấy mẫu máu từ phòng thí nghiệm, Renee không cung cấp cho các đối tượng thỏa thuận đồng ý về kế hoạch sử dụng dữ liệu của cô ấy như thế nào, những mẫu đó có thể được sử dụng cho một mục đích hoàn toàn khác.

7. Ngoài đặt hàng các mẫu ADN vô danh từ một ngân hàng ADN thương mại, những lựa chọn khác của Renee là gì?

Renee có thể cố gắng để có được một bổ sung sửa đổi đối với dự án nghiên cứu bệnh béo phì và đệ trình đề cương của mình lên Hội đồng Xét duyệt Cơ sở để cân nhắc xem xét. Cô có thể sẽ phải liên hệ với tất cả các đối tượng mà cô muốn sử dụng mẫu của họ để làm chứng và lấy thỏa thuận đồng ý mới. Gợi ý của Jim để có được các mẫu từ một ngân hàng ADN có thể sẽ nhanh chóng hơn.

Nghiên cứu trường hợp 5: Ai sở hữu dữ liệu nghiên cứu?

1. Bối cảnh:

Jessica Banks, một nghiên cứu sinh đang làm việc với Giáo sư Brian Hayward, một nhà miễn dịch học có tiếng, nghiên cứu các chức năng của tiểu quần thể tế bào T trong hoạt động chức năng GVH, gần đây đã bảo vệ luận án của mình và đã sẵn sàng nộp hồ sơ tìm công việc mới. Trong năm thứ hai, khi bắt đầu nghiên cứu với Hayward, Banks chia thời gian của mình cho ba dự án. Sau đó, trong năm thứ ba, sau khi tham khảo ý kiến của Hayward, cô đã quyết định tiếp tục và mở rộng một trong ba hướng nghiên cứu cho luận án của mình. Vào thời điểm đó, đây cũng là dự án liên quan chặt chẽ nhất với dự án của Hayward mà do NIH tài trợ. Sau đó, kế hoạch thử nghiệm và các kết quả ban đầu của Banks đã được đưa vào dự án được cấp mới của Hayward. Hai hướng nghiên cứu đầy hứa hẹn khác của nghiên cứu này bị để lại dở dang. Công việc mới của Banks là một vị trí biên chế vĩnh viễn (cấp cao nhất và đáng thèm muốn nhất trong 3 cấp phân loại của giảng viên đại học tại Hoa Kỳ) trong một trường đại học tư nhân hạng trung trên bờ biển phía Tây.

Ngay trước khi đi, Banks đến văn phòng của Hayward sử dụng phần mềm đặc biệt để sao lưu dữ liệu nghiên cứu mà dữ liệu này chỉ được lưu trữ trên máy tính của Hayward, đây là những dữ liệu cô cũng đã có kế hoạch sao lưu. Mặc dù vị trí giảng viên mới của cô sẽ chủ yếu nặng về giảng dạy nhưng cô cũng đang mong chờ tiếp tục làm một số nghiên cứu. Đặc biệt, cô rất mong mỏi là lấy 2 dự án cô còn để dở dang trước đó ở nơi mà cô sẽ rời đi. Hayward bước vào phòng khi Banaks đang tải tài liệu của mình về, và ông hỏi cô đang làm gì. Cô nói với ông những gì đang làm và sau đó ông nói với cô rằng cô không thể lấy các dữ liệu. "Chúng thuộc về tôi," ông nói. Banks bối rối. "Nhưng tôi đã làm đề tài này, và tôi muốn tiếp tục. Tôi không thể làm được nếu không có những dữ liệu này." Hayward kiên quyết. "Tôi xin lỗi, nhưng bạn nên hiểu điều này. Dự án nghiên cứu của chúng tôi là một dự án chung, và tất cả các công việc bạn đã làm được tài trợ bởi kinh phí do tôi đem lại thông qua tài trợ của NIH, những dữ liệu này không thuộc về bạn cũng không thuộc về tôi, nó thực sự thuộc về trường đại học, và công trình nghiên cứu này sẽ được các sinh viên khác tiếp tục thực hiện. Tôi đã nói với một trong số những sinh viên mới về công việc của những dự án vào mùa thu này." Banks thấy kế hoạch của cô sụp đổ, phản kháng, nhưng Hayward không thay đổi.

2. Ai sở hữu dữ liệu? Banks có quyền sao chép các dữ liệu hay không?

Với nghiên cứu do liên bang tài trợ, trường đại học sở hữu dữ liệu, nhưng cho phép thừa nhận các nghiên cứu viên chính (PI) là người quản lý dữ liệu. PI chịu trách nhiệm thu thập, ghi lại hồ sơ, lưu trữ, giữ lại và loại bỏ dữ liệu. Khi dữ liệu được xuất bản, quyền tác giả thuộc về PI, là người sau đó chỉ định quyền này cho nhà xuất bản
của tạp chí. Nếu các giảng viên thực hiện một dự án nghiên cứu thay mặt cho các trường đại học thì bản quyền các dữ liệu thuộc về trường đại học. Nhưng vì bản thân giảng viên thường thực hiện nghiên cứu của họ nên bản quyền thuộc về họ. Dữ liệu và sổ sách dữ liệu về một dự án nghiên cứu do sinh viên, nghiên cứu sinh tiến sỹ, trên tiến sỹ thu thập thuộc về cơ quan/đơn vị/tổ chức được cấp kinh phí, và sinh viên không nên lấy dữ liệu của họ mặc dù nếu được cho phép thì họ có thể giữ bản sao. Với nghiên cứu nhận được tài trợ từ các ngành công nghiệp thì dữ liệu có thể thuộc về nhà tài trợ.

3. Sao chép dữ liệu

Sau một vài phút, cô hiên ngang bỏ đi. Chiều muộn ngày hôm đó, Banks gặp một bạn học tên là Paul Larson, và cô nói với anh ta về cuộc cãi vã với Hayward. Larson nói "Nhìn đi". "Hayward không có quyền từ chối cậu truy cập vào dữ liệu. Cậu đã làm để có được tất cả các dữ liệu này." Banks nói "Tớ biết!" "Nhưng Hayward sẽ không lắng nghe lý lẽ của tớ." Larson nói sau một lát suy nghĩ: "Đây là gợi ý của tớ". Cậu chỉ cần tới văn phòng của ông ấy và sao chép nó vào một thời điểm nào đó lúc cuối tuần. Tớ tình cờ biết được là Hayward sẽ ra khỏi thành phố nên ông ấy sẽ không bao giờ biết. Đó là một việc làm công bằng. Banks có vẻ không chắc chắn, nhưng cô nói rằng cô sẽ suy nghĩ về gợi ý của Larson và sẽ đưa ra quyết định trước cuối tuần.

4. Sao chép dữ liệu cần phải được thực hiện trong những điều kiện nào?

Nếu Banks biết sở hữu các dữ liệu như thế nào, cô có thể đã hỏi Giáo sư Hayward cho phép mình sao chép các dữ liệu và phần mềm và thảo luận về khả năng cộng tác với ông ta khi cô bắt đầu vị trí mới của mình. Có lẽ không nghi ngờ gì rằng Banks thích tiếp tục công việc mà cô đã bắt đầu và duy trì mối quan hệ tốt với người thầy cũ của mình, người có lẽ đã giới thiệu cô cho công việc trong tương lai. Ăn cắp dữ liệu sẽ không là cách tốt nhất để bắt đầu một mối quan hệ nghề nghiệp.

Nghiên cứu trường hợp 6: "Người mới quản lý dữ liệu lâm sàng"

Nghiên cứu viên chính (PI) của một dự án quy mô lớn chỉ định một người mới làm Giám đốc quản lý dữ liệu (DM) mà không phải là nhân viên dự án có kinh nghiệm để xử lý các khía cạnh khác nhau về quản lý của dự án. DM nhận ra rằng các nhân viên dự án tham gia vào các hoạt động quản lý dữ liệu đã không được đào tạo chính thức tý nào để có thể thực hiện được nhiệm vụ của mình.

1. "Đào tạo? Họ không cần đào tạo tý nào!"

DM thảo luận với PI về sự cần thiết phải đào tạo chính thống và nhất quán cho tất cả những người tham gia vào các hoạt động liên quan đến dữ liệu, nhưng PI nói với DM rằng các hoạt động của dự án đã được IRB phê duyệt mà không có bất kỳ yêu cầu bổ sung nào về đào tạo nhân viên. PI cũng chỉ ra rằng thời gian còn lại của dự án không đủ để cùng đưa tất cả các cán bộ dự án đi đào tạo. Ông giải thích cho DM rằng các nhân viên có thể học từ công việc vì các cán bộ dự án đã tham gia thực hiện các dự án khác.

2. Mọi thứ đang suôn xẻ, làm việc đầy nhiệt tình!

PI cũng nhấn mạnh rằng cho đến giờ phút này các nhân viên dự án đã không làm điều gì sai trái trong phạm vi trách nhiệm của mình, và do đó, "nếu không bị hỏng hóc gì thì không cần thiết phải sửa chữa”, đặc biệt là ở giai đoạn này của dự án khi mà đảm bảo thời hạn dự án là quan trọng hơn. DM hiểu rằng nhân viên dự án đã không phạm phải bất kỳ sai lầm nào và cũng không chắc chắn là các nhân viên dự án sẽ phản ứng như thế nào với một người mới vào làm lại nói với họ rằng họ cần được đào tạo trong khi họ có thâm niên làm việc cho dự án lâu năm hơn nhiều.

Vì vậy, DM phân vân về các phản ứng và hậu quả của chúng.

Bạn sẽ làm gì? Dưới đây là một số giải pháp rõ ràng.

  1. Không lo lắng về sự cần thiết phải đào tạo cho các cán bộ dự án tham gia vào hoạt động liên quan đến dữ liệu như PI đã đề xuất và không làm gì cả? (Xin xem các khả năng có thể dưới đây)

DM không lo lắng về sự cần thiết phải đào tạo cho các cán bộ dự án tham gia vào các hoạt động liên quan đến dữ liệu như là PI đã đề xuất và hiện không làm gì cả.

Đây là một số khả năng có thể xảy ra:

Dự án chạy trôi chảy và không có lỗi nào của các hoạt động dự án liên quan đến dữ liệu.

§  Dự án chạy trôi chảy và không có sai sót nào xảy ra với các hoạt động dự án liên quan đến dữ liệu, và các hành động của PI được tăng cường, và khả năng đào tạo cán bộ của các dự án trong tương lai bị giảm đi. hoặc

§  PI gián tiếp dạy cho DM về các phương pháp tiếp cận không đúng để quản lý dữ liệu. Trong khi hàm ý này kết luận nhánh cây quyết định này, thì điều này không có nghĩa là mất hết tất cả các khả năng. Bạn có các khả năng khác không?

Những lỗi liên quan đến dữ liệu xảy ra do thiếu đào tạo cán bộ dự án.

Dưới đây là hai khả năng có thể xảy ra khi lựa chọn mục này:

§  Nhầm lẫn, lỗi được báo cáo cho DM, và sau đó là báo cáo lên PI; sai lầm được khắc phục, dự án bị chậm lại. PI nhận thấy sự cần thiết phải đào tạo cho các cán bộ nghiên cứu. Hoặc

§  Khó để có thể khắc phục được các nhầm lẫn, dự án bị đe dọa nghiêm trọng. PI nhận thấy sự cần thiết phải đào tạo cho các cán bộ nghiên cứu.

§  Trong khi hàm ý này kết luận nhánh cây quyết định này, thì điều này không có nghĩa là mất hết tất cả các khả năng. Bạn có các khả năng khác không?

  1. Thảo luận tình hình với các nhân viên dự án tham gia vào các hoạt động quản lý dữ liệu, xây dựng một chương trình đào tạo không chính thống, và giúp để các nhân viên dự án được đào tạo? (Xin xem các khả năng có thể dưới đây)

DM thảo luận tình hình với các nhân viên dự án tham gia vào các hoạt động quản lý dữ liệu, xây dựng một chương trình đào tạo không chính thống, và giúp để các nhân viên dự án được đào tạo.

Đây là một số khả năng có thể xảy ra:

Cán bộ dự án không chắc chắn về
việc DM mới yêu cầu họ làm một cái gì đó PI không yêu cầu.

§ Nhân viên dự án phàn nàn với PI, và DM bị PI gọi vào để chấn vấn. Không có đào tạo gì và DM không lo lắng về sự cần thiết phải đào tạo cho cán bộ dự án tham gia vào các hoạt động liên quan đến dữ liệu như PI đã đề xuất và DM không làm gì cả. Khả năng này không phải tối ưu. Hoặc

§ Nhân viên dự án ủng hộ DM và được đào tạo. PI phát hiện ra điều này và không hài lòng về việc DM yêu cầu nhân viên dự án dành thời gian của họ cho đào tạo. Hoàn thành nhiệm vụ, nhưng không phải không có căng thẳng và kịch tính.

§ Trong khi hàm ý này kết luận nhánh cây quyết định này, thì điều này không có nghĩa là mất hết tất cả các khả năng. Bạn có các khả năng khác không?

Cán bộ dự án, với tư cách là một nhóm, chắc chắn về những phản hồi của họ đối với yêu cầu của DM mới về đào tạo bổ sung.

§ Cán bộ dự án, với tư cách là một nhóm, đồng ý với DM rằng đào tạo không chính thống là cần thiết để đảm bảo tính chính trực, toàn vẹn của dữ liệu đang được thu thập. Rõ ràng đây là một kết quả tốt.

NHƯNG,

§ Các cán bộ dự án, với tư cách là một nhóm, có thể cảm thấy rằng không cần thiết phải được đào tạo không chính thống. Những thảo luận sau đó của nhân viên với PI tạo ra một tình huống gay gắt giữa DM và nhân viên. Đây là một khả năng không phải tối ưu để giải quyết vấn đề này.

     Trong khi hàm ý này kết luận nhánh cây quyết định này, thì điều này không có nghĩa là mất hết tất cả các khả năng. Bạn có các khả năng khác không?

Thảo luận tình hình với các nhân viên IRB? (Xin xem các khả năng có thể dưới đây)

Thành viên thuộc IRB đề nghị DM thảo luậnvới PI về nhu cầu đào tạo IRB đã phê duyệt dự án. Tuy nhiên, DM không thể thảo luận một lần nữa với PIvề vấn đề đào tạo.

§ Thành viên thuộc IRB đề nghị DM thảo luậnvới PI về nhu cầu đào tạo IRB đã phê duyệt dự án. Tuy nhiên, DM không thể thảo luận một lần nữa với PIvề vấn đề đào tạo.

§ DM không lo lắng về sự cần thiết phải đào tạo cho cán bộ dự án tham gia vào các hoạt động liên quan đến dữ liệu như là PI đã đề xuất vàkhông làm gì cả. Rõ ràng đây là một kết quả ít thuận lợi hơn nếu như đào tạo thực sự là thực sự cần thiết.

§ Trong khi hàm ý này kết luận nhánh cây quyết định này, thì điều này không có nghĩa là mất hết tất cả các khả năng. Bạn có các khả năng khác không?

Thành viên IRB công nhận sự cần thiết phải đào tạo và liên hệ với PI về vấn đề này.

§ Thành viên IRB giải thích cho PI sự ​​cần thiết phải đào tạo, PI đồng ý đào tạo nhưng không hài lòng về việc DM liên hệ với thành viên IRB. Một khả năng tốt, DM đã làm được việc này, nhưng, PI có thể hơi bực mình với DM. Hoặc

§ Thành viên của IRB giải thích cho PI sự ​​cần thiết phải đào tạo, PI đồng ý đào tạo và chân thành công nhận nỗ lực của DM để thực hiện các hoạt động quản lý dữ liệu một cách có trách nhiệm. Đây là khả năng tốt nhất! Trong khi hàm ý này kết luận nhánh cây quyết định này, thì điều này không có nghĩa là mất hết tất cả các khả năng. Bạn có các khả năng khác không?

Nghiên cứu trường hợp 7: Trách nhiệm Tác quyền - Chủ tịch là một tác giả

Chủ tịch là tác giả (APPE Vol 6)

1. Phân vai

  • Tiến sĩ Killinger, PI, Cố vấn Nghiên cứu
  • David Tonkyn, sinh viên trên tiến sĩ tại phòng thí nghiệm của Killinger
  • Haruko Tomonaga, một kỹ thuật viên trong phòng thí nghiệm của Killinger
  • Benson Zophar là một nghiên cứu sinh năm thứ nhất

2. Ngữ cảnh

Tiến sĩ Killinger là một nhà sinh học tế bào nổi tiếng tại trường Đại học Westwood. Ông có một chính sách về quyền tác giả mà ông thảo luận với mỗi thành viên mới tham gia học tập làm việc tại phòng thí nghiệm của ông. Ông nói rằng chỉ có những người đã đóng góp trí tuệ đáng kể cho một thử nghiệm mới được có tên trong bài báo. Ông cũng nói rằng ông là người có quyền cao nhất về việc xác định đóng góp trí tuệ đáng kể là gì, nếu có phát sinh bất đồng. Ông nói thêm rằng ông sẽ là tác giả cuối cùng của mọi bài báo có kết quả nghiên cứu được thực hiện tại phòng thí nghiệm của mình.

David Tonkyn là một nghiên cứu sinh trên tiến sĩ tại phòng thí nghiệm của Killenger và đang làm việc về tìm hiểu đặc điểm của một bào quan mới đã được xác định ở bào ký sinh trùng đơn bào Entamoeba histolytica. Dựa trên các nghiên cứu sinh hóa của bào quan tinh khiết, David nghi ngờ rằng nó có thể là một ty thể không xác định ở tác nhân này.

Haruko Tomonaga, một kỹ thuật viên tại phòng thí nghiệm của Killinger, đã làm việc rất nhiều với David về các nghiên cứu sinh hóa liên quan đến bào quan này. Cô đã giải quyết hầu hết các vấn đề và tối ưu hóa cho các thử nghiệm. Cô cũng xây dựng một phương pháp mới để phân lập được các bào quan của tác nhân này.

Benson Zophar là một nghiên cứu sinh năm thứ nhất, là người hiện đang quay vòng công việc cứ 6 tuần 1 lần tại phòng thí nghiệm của Killinger. Benson tham gia thử nghiệm cuối cùng của dự án này, và thử nghiệm cuối chỉ ra rằng một loại protein thường hướng đến ty thể ở sinh vật nhân chuẩn khác thì thường hướng đến bào quan mới này ở Entamoeba. Những dữ liệu này gợi ý rằng bào quan mới này có thể là một ty thể thực sự.

Killinger khuyến khích David gửi dữ liệu để xuất bản càng nhanh càng tốt. David đã viết, đưa bài báo cho Haruko để xem xét, và sau đó trình bày các dữ liệu tại cuộc họp của phòng thí nghiệm vào tuần tiếp theo. Sau cuộc họp, Killinger, David, Haruko và Benson thảo luận về quyền tác giả của bài báo. David đưa ra một điểm rằng Haruko cung cấp ý tưởng mới cho dự án và giúp đỡ giải quyết khi có sự cố và là người nhận xét ​​bài báo, cô ấy nên được là tác giả thứ hai. Anh cũng lập luận rằng mặc dù Benson hỗ trợ cho thử nghiệm cuối cùng của dự án, nhưng anh đã không đóng góp trí tuệ và do đó không nên để tên Benson là một tác giả. David nói rằng nên để tên Benson trong Lời cảm ơn vì những đóng góp của anh cho dự án. Cuối cùng, David nói rằng nên để Killinger là tác giả cuối cùng của bài báo vì công trình này đã được thực hiện tại phòng thí nghiệm của ông và đề tài/công trình này đã nhận được tài trợ từ kinh phí tài trợ của ông. Hiện tất cả đồng ý với quyết định của David, và bài ​​báo được gửi đăng.

Đây là những gì chúng tôi nghĩ.

· Bỏ qua Benson là một tác giả.

Không phải là câu trả lời tốt nhất. Chúng ta không biết nhiều về đóng góp của anh, vì vậy có thể phù hợp nhất là cảm ơn anh và không ghi công anh là tác giả.

· Để Haruko là tác giả thứ hai.

Không phải là câu trả lời tốt nhất. Thật vậy, để cô ấy là tác giả thứ hai có thể là quyết định thích hợp nhất, với bao nhiêu thông tin chúng ta có.

· Để Killinger là tác giả cuối cùng.

Đúng. Trong khi Killinger đã đúng khi nói rằng "chỉ những người đã đóng góp trí tuệ đáng kể cho thử nghiệm sẽ được có tên trong bài báo",ông mâu thuẫn với chính mình khi nhấn mạnh rằng ông là tác giả cuối cùng "của mọi bài báo có kết quả nghiên cứu được thực hiện tại phòng thí nghiệm của mình"." đóng góp trí tuệ " không có nghĩa là" viết xin tài trợ " hoặc" quản lý phòng thí nghiệm."

· Để David là tác giả đầu tiên.

Không, trên thực tế, từ những gì chúng ta biết ở đây, có vẻ như là David là tác giả đầu tiên là hợp lý nhất.

Ủy Ban Quốc tế các Biên tập viên Tạp chí Y học nói rằng "Xin kinh phí, thu thập dữ liệu, hoặc chỉ giám sát chung nhóm nghiên cứu, đơn thuần không phải là lý do để có quyền tác giả."

Cách thích hợp nhất để trao quyền tác giả cho nghiên cứu sinh là những người thu thập dữ liệu là gì?

• Đưa các nghiên cứu sinh vào dự án để họ tham gia thiết kế công trình và soạn thảo bài viết và phê duyệt cuối cùng của bản thảo. Có nghĩa là, giúp họ có nhiều cơ hội để là tác giả đầu tiên.

• Tạo thêm một hàng tên tác giả, "tác giả là các nghiên cứu sinh", và liệt kê tên của họ ở đây.

• Yêu cầu tác giả chính hoặc đơn vị chủ quản một "quyết định ngoại lệ đặc biệt" (SER).

• Đặt dấu mũ sao (*) sau tên của nghiên cứu sinh trong hàng tên tác giả và giải thích rằng họ là người đã thu thập dữ liệu.

Đây là những gì chúng tôi nghĩ.

Ủy Ban Quốc tế các Biên tập viên Tạp chí Y học nói rằng "Xin kinh phí, thu thập dữ liệu, hoặc chỉ giám sát chung nhóm nghiên cứu, đơn thuần không phải là lý do để có quyền tác giả." Cách thích hợp nhất để trao quyền tác giả cho nghiên cứu sinh là những người thu thập dữ liệu là gì?

  1. Đưa các nghiên cứu sinh vào dự án để họ tham gia thiết kế công trình và soạn thảo bài viết và phê duyệt cuối cùng của bản thảo. Có nghĩa là, giúp họ có nhiều cơ hội để là tác giả đầu tiên. Đúng , chính xác. Điều này giúp họ có thêm kinh nghiệm, họ được đào tạo thêm và đáp ứng các tiêu chuẩn của ICMJE. 
  2. Tạo thêm một hàng tên tác giả, "tác giả là các nghiên cứu sinh", và liệt kê tên của họ ở đây. Không. Không có tiền lệ cho hoạt động như vậy, và trong mọi trường hợp, việc "cảm ơn" đã ghi công cho những người thu thập dữ liệu. Gọi họ là "tác giả" dưới một tiêu đề đặc biệt chỉ làm lầm lẫn như thể liệt kê họ như là các tác giả "bình thường".
  3. Yêu cầu tác giả chính hoặc đơn vị chủ quản một "quyết định ngoại lệ đặc biệt" (SER). Không. Không có điều này, và thậm chí nếu tác giả đầu tiên hoặc phụ trách đơn vị có chấp thuận mẹo này đi nữa thì nó vẫn sẽ không thích hợp. 
  4. Đặt dấu mũ sao (*) sau tên của nghiên cứu sinh trong hàng tên tác giả và giải thích rằng họ là người đã thu thập dữ liệu. Không. Trong khi điều này làm giảm sự lừa dối "vai trò thực sự của họ đã được xác định ở ấn phẩm" đó không phải là câu trả lời tốt nhất. Hàng tên tác giả được dành riêng cho những người đóng góp trí tuệ. Bất kỳ sửa đổi nào hàng tên tác giả này gây nguy cơ nhầm lẫn các tiêu chuẩn, làm giảm giá trị bản thân tác giả và dựa trên một giải pháp đặc biệt có chủ đích thay vì một tiêu chuẩn cơ bản.

Nghiên cứu Trường hợp 8: Tác Quyền và Ấn phẩm-Tác giả do chịu ơn

1. Phân vai

• Tiến sĩ IB Good , một trợ lý giáo sư lâm sàng trẻ tuổi

• Tiến sĩ I.S. Fine, một giáo sư trong cùng một Khoa.

• Tiến sĩ IM Desperate là giáo sư và là Trưởng khoa

2. Ngữ cảnh

Tiến sĩ IB Good, một trợ lý giáo sư lâm sàng trẻ tuổi tại một trường y có tiếng, đã tìm ra một lý thuyết liên quan đến cơ chế phân tử là cơ sở của một bệnh thần kinh quan trọng, dựa trên đánh giá rộng lớn của ông về các công trình, tài liệu có liên quan và các quan sát lâm sàng của chính ông. Trong vài tháng, ông đã thảo luận ý tưởng của mình với một trong số các đồng nghiệp, Tiến sĩ IS Fine, một giáo sư trong cùng khoa và một nhà hóa sinh và sinh học tế bào có tiếng. Một vài tháng sau đó, Tiến sĩ Fine đã ngạc nhiên khi tìm thấy một bản sao đầu tiên của một bản thảo bài báo trong hộp thư của mình, mô tả lý thuyết mà Tiến sĩ Good đã xây dựng, cùng với các tác giả được liệt kê như IB Good, I.S. Fine, và I.M. Desperate. Tiến sĩ Desperate là một giáo sư và là Trưởng khoa nơi cả 2 Tiến sĩ Good và Fine đang làm việc. Tiến sĩ Fine không biết tý nào về những đóng góp đáng kể của Tiến sĩ Desperate cho bài báo chủ yếu mang tính lý thuyết này.

Tiến sĩ Fine đến gặp Tiến sĩ Good, nói rằng bà cảm thấy đóng góp của mình (giới hạn chỉ đơn thuần là một loạt các cuộc thảo luận ngắn gọn) nhiều lắm cũng chỉ ở mức tối thiểu, và yêu cầu bỏ tên bà khỏi danh sách tác giả. Bà gợi ý rằng sẽ là thích hợp hơn khi chỉ cần cảm ơn bà ở cuối bài báo. Tiến sĩ Fine tiếp tục hỏi Tiến sĩ Goodvề vai trò của Tiến sĩ Desperate đối với bài báo này, nói rằng tên của ông không bao giờ có trong tất cả các cuộc thảo luận trước đó của họ. Tiến sĩ Goodgiải thích rằng Tiến sĩ Desperate là Trưởng khoa. Ông nói thêm rằng Tiến sĩ Desperate là một nhà lâm sàng học hàn lâm có uy tín và đáng được tôn trọng, và rằng ông (Tiến sĩ Good ) và Tiến sĩ Desperate đã thảo luận ngắn gọn về khả năng tiến hành một số nghiên cứu để kiểm tra lý thuyết đã được nêu ra trong bài báo.

Tiến sĩ Fine sau đó gặp trực tiếp Tiến sĩ Desperate về việc ông ấy là một đồng tác giả của bài báo. Tiến sĩ Desperate mạnh mẽ bảo vệ quyền được làm đồng tác giả của mình, nói rằng ông và Tiến sĩ Good đã có một số thảo luận về việc tiến hành một số nghiên cứu trong tương lai cùng với các nhánh nghiên cứu của Tiến sĩ Good . Tiến sĩ Desperate khuyên Tiến sĩ Fine "Hãy chú ý đến công việc của chính bà."

3. Câu hỏi để cho bạn suy nghĩ về:

Tiến sĩ Good có đúng không khi thêm 2 Tiến sĩ Fine và Desperate làm đồng tác giả?

Cả Tiến sĩ Fine và Tiến sĩ Desperate đều không hội đủ điều kiện để là đồng tác giả, tiêuchuẩn của ICMJE quy định trong các yêu cầu thống nhất về bản thảo trình cho các Tạp chí Y sinh: Viết và chỉnh sửa cho xuất bản Y Sinh. Tất cả ba tiêu chí sau đây phải được đáp ứng: 1) đóng góp đáng kể về kháiniệm và thiết kế, hoặc thu được dữ liệu, hoặc phân tích và giải thích biện luận dữ liệu; 2) soạn thảo các bài báo hoặc sửa đổi đáng kể cho các nội dung trí tuệ quan trọng, và 3) duyệt lần cuối cùng bản được công bố. Các tác giả phải đáp ứng các điều kiện 1,2 và 3.

Phải có những gì trích dẫn gì, nếu có, về “những đóng góp” của Tiến sĩ Fine hoặc Tiến sĩ Desperate?

Không giống như quyền tác giả, các quy định về tiêu chuẩn để "cảm ơn" không rõ ràng. Theo ICMJE, "Tất cả những ai có đóng góp nhưng không đáp ứng các tiêu chí để được ghi công là tác giả thì được liệt kê trong phần cảm ơn.

Ví dụ về những người có thể được cảm ơn bao gồm một người nào đó chỉ hoàn toàn đơn thuần trợ giúp về mặt kỹ thuật, hỗ trợ viết, hoặc trưởng đơn vị, là người chỉ giúp đỡ chung chung. "Tiến sĩ Desperate đã hầu như không làm gì để thậm chí được nhận cảm ơn. Mặt khác, có lý do để tin rằng đóng góp của Tiến sĩ Fine là đáng kể để được cảm ơn.

Trong trường hợp này, hành động của Tiến sĩ Fine có đúng không? Tại sao đúng và tại sao không đúng?

Có, hành động của Tiến sĩ Fine là thích hợp. Bất kỳ người nào khi không muốn là một đồng tác giả, thậm chí nếu họ có hội đủ điều kiện để làm đồng tác giả đi nữa thì vẫn có thể yêu cầu không để tên của họ trong danh sách tác giả. Tiến sĩ Fine nhận thấy rằng sự đóng góp của bà là chưa đủ để có thể là một tác giả nên bà là xử sự đúng khi yêu cầu bỏ tên của mình ra khỏi danh sách tác giả. Hơn nữa, khi nghe lý do tầm thường tại sao Tiến sĩ Goodmuốn đưaTiến sĩ Desperate làm một đồng tác giả của bài báo, Tiến sĩ Fine đã đúng khi khuyến cáo cũng nên bỏ tên của Tiến sĩ Desperate khỏi danh sách tác giả. Ngoài ra, bằng cách thay mặt cho Tiến sĩ Tiến sĩ Good làm trung gian hòa giải và không thừa nhận Desperate là một đồng tác giả, Tiến sĩ Fine là người có lương tâm đạo đức tốt và để những lợi ích tốt nhất cho đồng nghiệp cấp dưới của mình (và thay vì nhờ đồng nghiệp)

Có phải sự ép buộc là một yếu tố có thể (ngầm hay rõ ràng) trong tình huống này không?

Có, sự ép buộc là một yếu tố có thể! Người đứng đầu có quyền lực đáng kể đối với nhân viên có vị trí thấp hoặc không có một vị trí vĩnh viễn (biên chế), ví dụ như ảnh hưởng về thăng tiến trong con đường học vấn, hợp đồng vĩnh viễn, phân bổ nguồn lực của khoa, vv, cũng như ảnh hưởng tới các giảng viên khác. Thực tế đó là lý do chính mà Tiến sĩ Good nêu ra để đưa tên Tiến sĩ Desperates là một đồng tác giả là bởi vì ông ấy (Tiến sĩ Desperate) là người đứng đầu của khoa, điều này gợi ý bóng gió có thể có sự ép buộc, hoặc về phía Tiến sĩ Good thì sợ hãi, cho dù với lý do chính đáng hoặc không. Hơn nữa, trên thực tế, Tiến sĩ Desperate, khi nhận được yêu cầu của Tiến sĩ Fine, đã nói với bà rằng "Hãy chú ý đến công việc của chính bà", điều này gợi ý rằng Tiến sĩ Desperate có thể không giấu giếm là sử dụng quyền lực của mình để ép buộc Tiến sĩ Good đưa tên mình làm một đồng tác giả.

Nếu có hành động thì Tiến sĩ Fine nên có hành động gì nếu sau đó phát hiện ra rằng bản thảo đã được gửi đăng mà không có thay đổi danh sách tác giả?

Tiến sĩ Fine nên liên lạc với biên tập viên của tạp chí nơi bản thảo đã được gửi tới và yêu cầu bỏ tên bà khỏi danh sách tác giả, đưa ra cho biên tập viên lý do chính đáng của mình.

Bất kỳ người nào khi không muốn là một đồng tác giả, thậm chí nếu họ có hội đủ điều kiện để làm đồng tác giả đi nữa thì vẫn có thể yêu cầu không để tên của họ trong danh sách tác giả. Nếu, ngay cả sau khi yêu cầu cụ thể bỏ tên bà ra khỏi danh sách đồng tác giả, Tiến sĩ Fine phát hiện ra rằng danh sách tác giả đã không được sửa chữa, thì bà nên liên lạc với biên tập viên của tạp chí để yêu cầu bỏ tên của mình khỏi bản thảo, giải thích chi tiết lý do tại sao. Bà cũng có lý do đề nghị biên tập viên rằng cần phải đặt câu hỏi khi Tiến sĩ Desperate là đồng tác giả của bản thảo này.

Đây là những gì chúng tôi nghĩ về tác giả do chịu ơn

-      Tiến sĩ Goodcó đúng không khi đưa các Tiến sĩ Fine và Desperate làm đồng tác giả?

Không. Cả Tiến sĩ Fine và Tiến sĩ Desperate đều không hội đủ điều kiện để là đồng tác giả, theo tiêu chuẩn của ICMJE quy định trong các yêu cầu thống nhất về bản thảo trình cho các Tạp chí Y sinh: Viết và chỉnh sửa cho xuất bản Y Sinh. Tất cả ba tiêu chí sau đây phải được đáp ứng: 1) đóng góp đáng kể về kháiniệm và thiết kế, hoặc thu được dữ liệu, hoặc phân tích và giải thích biện luận dữ liệu; 2) soạn thảo các bài báo hoặc sửa đổi đáng kể cho các nội dung trí tuệ quan trọng, và 3) duyệt lần cuối cùng bản được công bố. Các tác giả phải đáp ứng các điều kiện 1,2 và 3.

-      Phải có những trích dẫn gì, nếu có, về “những đóng góp” của Tiến sĩ Fine hoặc Tiến sĩ Desperate?

  • Có thể là phù hợp, nhưng không hoàn toàn cần thiết, rằng tên của Tiến sĩ Fine sẽ được liệt kê trong phần "cảm ơn", nhưng không phải là Tiến sĩ Desperate. Không giống như quyền tác giả, các quy định về tiêu chuẩn để "cảm ơn" không rõ ràng. Theo ICMJE, "Tất cả những ai có đóng góp nhưng không đáp ứng các tiêu chí để được ghi công là tác giả thì được liệt kê trong phần cảm ơn. Ví dụ về những người có thể được cảm ơn bao gồm một người nào đó chỉ hoàn toàn đơn thuần trợ giúp về mặt kỹ thuật, hỗ trợ viết, hoặc trưởng đơn vị, là người chỉ giúp đỡ chung chung. Tuy nhiên, Tiến sĩ Desperate đã hầu như không làm gì để thậm chí được cảm ơn. Theo giải thích của Tiến sĩ Good , hiển nhiên lý do chính tại sao ông đã để tên Tiến sĩ Desperate ở tất cả các bản thảo vì vị trí và quyền lực của Tiến sĩ Desperate, không phải vì bất kỳ đóng góp đáng kể gì cho nội dung. Mặt khác, có nhiều lý do hơn để tin rằng với đóng góp đáng kể của Tiến sĩ Fine thì ghi công cảm ơn bà là xứng đáng và thật lịch sự.

-      Trong trường hợp này, hành động của Tiến sĩ Fine có đúng không? Tại sao đúng và tại sao không đúng?

  • Có. Hành động của Tiến sĩ Fine là thích hợp. Bất kỳ người nào khi không muốn là một đồng tác giả, thậm chí nếu họ có hội đủ điều kiện để làm đồng tác giả đi nữa thì có thể yêu cầu không để tên của họ trong danh sách tác giả. Tiến sĩ Fine nhận thấy rằng sự đóng góp của bà là chưa đủ để có thể là một tác giả nên bà là xử sự đúng khi yêu cầu bỏ tên của mình ra khỏi danh sách tác giả. Hơn nữa, khi nghe lý do tầm thường tại sao Tiến sĩ Goodmuốn đưaTiến sĩ Desperate làm một đồng tác giả của bài báo, Tiến sĩ Fine đã đúng khi khuyến cáo cũng nên bỏ tên của Tiến sĩ Desperate khỏi danh sách tác giả. Ngoài ra, bằng cách thay mặt cho Tiến sĩ Tiến sĩ Good làm trung gian hòa giải và không thừa nhận Desperate là một đồng tác giả, Tiến sĩ Fine là người có lương tâm đạo đức tốt và để những lợi ích tốt nhất cho đồng nghiệp cấp dưới của mình (và thay vì nhờ đồng nghiệp).


Có phải sự ép buộc là một yếu tố có thể (ngầm hay rõ ràng) trong tình huống này không?

  • Có, sự ép buộc là một yếu tố có thể! Người đứng đầu có quyền lực đáng kể đối với nhân viên có vị trí thấp hoặc không có một vị trí vĩnh viễn (biên chế), ví dụ như ảnh hưởng về thăng tiến trong con đường học vấn, hợp đồng vĩnh viễn, phân bổ nguồn lực của khoa, vv, cũng như ảnh hưởng tới các giảng viên khác. Thực tế đó là lý do chính mà Tiến sĩ Good nêu ra để đưa tên Tiến sĩ Desperates là một đồng tác giả là bởi vì ông ấy (Tiến sĩ Desperate) là người đứng đầu của khoa, điều này gợi ý bóng gió có thể có sự ép buộc, hoặc về phía Tiến sĩ Good thì sợ hãi, cho dù với lý do chính đáng hoặc không. Hơn nữa, trên thực tế, Tiến sĩ Desperate, khi nhận được yêu cầu của Tiến sĩ Fine, đã nói với bà rằng "Hãy chú ý đến công việc của chính bà", điều này gợi ý rằng Tiến sĩ Desperate có thể không giấu giếm là sử dụng quyền lực của mình để ép buộc Tiến sĩ Good đưa tên mình làm một đồng tác giả.

Nếu có hành động thì Tiến sĩ Fine nên có hành động gì nếu sau đó phát hiện ra rằng bản thảo đã được gửi đăng mà không có thay đổi danh sách tác giả?

  • Tiến sĩ Fine nên liên lạc với biên tập viên của tạp chí nơi bản thảo đã được gửi tới và yêu cầu bỏ tên bà khỏi danh sách tác giả, đưa ra cho biên tập viên lý do chính đáng của mình. Bất kỳ người nào khi không muốn là một đồng tác giả, thậm chí nếu họ có hội đủ điều kiện để làm đồng tác giả đi nữa thì có thể yêu cầu không để tên của họ trong danh sách tác giả. Nếu, ngay cả sau khi yêu cầu cụ thể bỏ tên bà ra khỏi danh sách đồng tác giả, Tiến sĩ Fine phát hiện ra rằng danh sách tác giả đã không được sửa chữa, thì bà nên liên lạc với biên tập viên của tạp chí để yêu cầu bỏ tên của mình khỏi bản thảo, giải thích chi tiết lý do tại sao. Bà cũng có lý do đề nghị biên tập viên rằng cần phải đặt câu hỏi khi Tiến sĩ Desperate là đồng tác giả của bản thảo này.

Nghiên cứu Trường hợp 9: Phản biện có trách nhiệm gì?

1. Phân vai

  • Tiến sĩ Mark Morris - Tác giả của một bài báo gửi cho chuyên gia phản biện.
  • Tiến sĩ John Leonard – Người xem xét phản biện
  • Melissa Zane – Nghiên cứu sinh của Tiến sĩ Leonard.

2. Ngữ cảnh

Tiến sĩ John Leonard là một trong rất ít các nhà sinh học phân tử làm việc trong một lĩnh vực chuyên sâu. Tiến sĩ Leonard nhận được một bài báo để xem xét phản biện, về một loại protein có tên là Survivin, loại protein mà ông và nghiên cứu sinh của phòng thí nghiệm của ông đang nghiên cứu. Bài viết đã được Tiến sĩ Mark Morris gửi tới tạo chí Tương tác Protein (Protein Interactions), một tạp chí có Chỉ số điểm ở mức vừa phải, và biên tập viên yêu cầu Tiến sĩ Leonard và hai chuyên gia khác trong lĩnh vực này xem xét phản biện bài báo. Bài viết cho thấy một sự tương tác mới giữa Survivin và protein GFX và cung cấp bằng chứng cho ý tưởng rằng cả hai protein là cần thiết cho toàn bộ chức năng khởi động – tồn tại của Survivin trong một tế bào. Bài viết này cũng tuyên bố, nếu có quá nhiều Survivin bên trong tế bào, thì chúng sẽ chết.

3. Những loại xung đột lợi ích gì có thể phát sinh khi một người nào đó được yêu cầu xem xét phản biện một bài báo hoặc một ứng dụng?

Các nhà xem xét phản biện có thể hưởng lợi hoặc bị ảnh hưởng về tài chính từ những phát hiện trong bài báo hoặc ứng dụng; có thể là quá thân với tác giả hoặc người gửi đệ trình; có thể không thích tác giả hoặc người gửi đệ trình; có thể không đồng ý về phương pháp luận hoặc về mặt khoa học của tác giả hoặc người gửi đệ trình; có thể là cạnh tranh rất rõ ràng và trực tiếp với tác giả hoặc người gửi đệ trình, hoặc có thể có quan điểm tôn giáo hay triết học mâu thuẫn với những nghiên cứu của tác giả hoặc người gửi đệ trình.

Nhưng bài báo có rất nhiều vấn đề: chứng chạy kém, số liệu ở các hình không nhất quán, và không xem xét đến các cách giải thích khác, tuyên bố bị phóng đại. Tiến sĩ Leonard đưa bài báo cho nghiên cứu sinh của mình là Melissa Zane xem, cô là người đưa ra những phê bình chi tiết và đề nghị sửa đổi đáng kể. Zane trước đó chưa từng xem xét phản biện một bài báo nào cả, và Tiến sĩ Leonard nghĩ rằng làm như vậy sẽ là một kinh nghiệm rất tốt để giáo dục đào tạo cô. Zane ghi chú lại các phát hiện của Morris rằng quá nhiều Survivin gây độc tế bào, cô đã có một vấn đề về giữ cho các tế bào của sống được, nhưng đã không cân nhắc đến chức năng về nồng độ protein. Cô thảo luận với Tiến sĩ Leonard. Cả hai đồng ý rằng họ nên giảm liều lượngSurvivin trong các thử nghiệm của mình, các tế bào thực sự sống được trong vòng một tuần, lâu hơn trước kia, và sau đó thì chúng chết.

4. Có bao giờ là phù hợp không khi một người xem xét phản biện lại đưa bài báo cho nghiên cứu sinh của mình xem xét? Nếu là phù hợp thì người xem xét phản biện nên làm như thế nào?

Xem xét phản biện nên là một quá trình bí mật, trong đó người xem xét phản biện sẽ xem xét đến các vật liệu trong bài báo hoặc ứng dụng mà đây là các thông tin độc quyền. Nếu người xem xét phản biện muốn có sự hỗ trợ của các bên khác trong việc xem xét một bài báo thì họ nên hỏi ý kiến của biên tập viên.

5. Có phù hợp không khi một người xem xét phản biện sử dụng những ý tưởng của một bài báo mà mình xem xét để ngừng những nghiên cứu không hiệu quả của phòng thí nghiệm của người xem xét phản biện?

Theo các hướng dẫn của Hiệp hội Khoa học thần kinh và các tổ chức khác, dừng các nghiên cứu không thành công như vậy là phù hợp. Các hướng dẫn nói rằng: "Nếu thông tin thu được trong khi đánh giá phản biện một bản thảo chỉ ra rằng một số nghiên cứu của chính người xem xét đánh giá phản biện không thành công, thì dừng các nghiên cứu này được cho là đạo đức đối với người xem xét phản biện." Mặc dù người ta khuyến cáo người xem xét phản biện nói cho tác giả về các hoạt động của mình.

Tiến sĩ Leonard trình lên biên tập viên những nhận xét của ông và của Zane về nghiên cứu, gợi ý rằng chỉ sau khi làm thêm một số các thử nghiệm khác để thẩm định một vài kết luận thì bài báo mới có thể được chấp nhận để đăng. Một trong những người xem xét phản biện khác cũng có ý kiến ​​tương tự như ý kiến của Tiến sĩ của Leonard, và biên tập viên yêu cầu Tiến sĩ Morris, tác giả bài báo, xem xét lại trước khi Tạp chí chấp nhận bài báo của anh.

Nhưng sau đó vài tuần, sự tương tác giữa GFX và Survivin, cái mà đã được thảo luận trong bài báo, vẫn còn trong tâm trí của Tiến sĩ Leonard. GFX không phải là một nhánh nghiên cứu mà Tiến sĩ Leonard và Zane đang theo đuổi trong nghiên cứu của họ. Họ đang tập trung vào các protein kích thích khác, nhưng không thành công. Tiến sĩ Leonard gợi ý cho Zane rằng cô nên thêm một hợp chất vào hệ thống nuôi cấy tế bào để kích thích các tế bào sản xuất ra GFX của chính chúng, một phương pháp hơi khác so với những gì có trong bài báo của Tiến sĩ Morris đang được xem xét phản biện. Tiến sĩ Leonard biết điều này là nguy hiểm vì thử nghiệm của ông đã xuất phát từ việc xem xét các dữ liệu bảo mật. Công trình sử dụng phương pháp tăng cường này chạy tốt. Các tế bào sống được một tháng.

6. Có bao giờ là thích hợp không khi một người xem xét phản biện sử dụng các ý tưởng của một bài báo đang được xem xét, ngay cả khi các phương pháp của người xem xét phản biện sử dụng để có được một kết quả là khác so với phương pháp được sử dụng trong bài báo? Nếu có phù hợp thì người xem xét phản biện nên tiến hành như thế nào?

Nếu một người xem xét phản biện cảm thấy rằng họ phải sử dụng các thông tin trong một bài báo hoặc ứng dụng, thì họ có thể liên hệ với tác giả hoặc người nộp đệ trình và cố gắng thiết lập một mối quan hệ để có thể xây dựng được hợp tác. Nếu không, đây là hành vi sai trái khi đạo ý tưởng được mô tả trong một bài báo hoặc ứng dụng đang được xem xét.

Zane và Tiến sĩ Leonard dự thảo một bài báo dựa trên các kết quả, trong đó bao gồm các mẫu chứng phù hợp. Tạo chí Khoa học (Science), một tạp chí có uy tín, chấp nhận bài báo này. Vài tháng sau, tạp chí Protein Interactions xuất bản bài báo đã được sửa đổi của phòng thí nghiệm Tiến sĩ Morris. Nhưng sau khi Tiến sĩ Morris đọc bài báo trên tạp chí Science, anh nghi ngờ rằng Tiến sĩ Leonard, một người xem xét đánh giá phản biện vô danh đang có tên trong bài báo này, có thể đã lấy một số ý tưởng từ bài báo của mình khi xem xét phản biện để sử dụng cho bài báo đăng trên tạp chí Science.

7. Một số những thách thức trong quá trình xem xét phản biện hiện tại là gì, trong đó người nhận xét phản biện là vô danh nhưng tác giả thì biết người xem xét phản biện?

Một số người nói rằng người xem xét phản biện ẩn danh có thể lạm dụng vị trí của họ bằng cách kìm giữ quá trình xem xét để kết thúc công việc của họ, bằng cách chiếm đoạt thông tin, hoặc bằng cách cho ý kiến ​​đánh giá kém đối với các đồng nghiệp mà mình không thích – những hành động mà tác giả có thể có khả năng phát hiện nếu họ biết người xem xét phản biện là ai. Một cách tiếp cận mới cho xem xét phản biện là làm cho tác giả vô danh đối với người xem xét phản biện. Một cách khác là cả hai tác giả và người xem xét phản biện biết những thông tin xác định về nhau.

Tiến sĩ Morris biết rằng tiến sĩ Leonard không làm về GFX bởi vì tinh sạch protein này rất khó, và Morris luận ra rằng Leonard sử dụng vật liệu trong bản thảo chưa được xuất bản để giải quyết vấn đề liên quan đến sự tồn tại của tế bào trong nuôi cấy của ông ấy. Đương nhiên, Tiến sĩ Morris thất vọng và lo ngại rằng quá trình xem xét thẩm định đã không có lợi cho mình.

Nếu Tiến sĩ Morris nghi ngờ rằng những ý tưởng của mình đã bị ăn cắp, có cánh nào giúp anh ấy không?

Nếu ai đó cảm thấy công trình của mình đã bị chiếm đoạt trong quá trình xem xét phản biện thìtác giả (hoặc người nộp đơn xin tài trợ) có thể có một cách để giải quyết trực tiếp với người bị cáo buộc phạm tội. Tuy nhiên, nếu việc chiếm dụng có vẻ nghiêm trọng, tác giả hoặc người nộp đệ trình có thể tìm kiếm đại diện pháp lý và / hoặc liên hệ với cơ quan, tổ chức nơi người xem xét phản biện làm việc. Các cơ quan, tổ chức sẽ có một văn phòng giải quyết các hành vi sai trái bị cáo buộc. Đồng thời, cũng liên hệ với các tạp chí hoặc cơ quan cấp tài trợ có thể được xem xét. 

 

Ngày 08/08/2012
PGS.TS. Triệu Nguyên Trung & Ths.Bs. Huỳnh Hồng Quang  

THÔNG BÁO

   Dịch vụ khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn khám bệnh tất cả các ngày trong tuần (kể cả thứ 7 và chủ nhật)

   THÔNG BÁO: Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn xin trân trọng thông báo thời gian mở cửa hoạt động trở lại vào ngày 20/10/2021.


 LOẠI HÌNH DỊCH VỤ
 CHUYÊN ĐỀ
 PHẦN MỀM LIÊN KẾT
 CÁC VẤN ĐỀ QUAN TÂM
 QUẢNG CÁO

Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005
Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.
Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464
Email: impequynhon.org.vn@gmail.com
Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng
Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích