Home TRANG CHỦ Thứ 6, ngày 19/04/2024
    Hỏi đáp   Diễn đàn   Sơ đồ site     Liên hệ     English
IMPE-QN
Web Sites & Commerce Giới thiệu
Web Sites & Commerce Tin tức - Sự kiện
Web Sites & Commerce Hoạt động hợp tác
Web Sites & Commerce Hoạt động đào tạo
Web Sites & Commerce Chuyên đề
Web Sites & Commerce Tư vấn sức khỏe
Web Sites & Commerce Tạp chí-Ấn phẩm
Finance & Retail Thư viện điện tử
Công trình nghiên cứu về Ký sinh trùng
Công trình nghiên cứu về Sốt rét & SXH
Công trình nghiên cứu về Côn trùng & véc tơ truyền
Đề tài NCKH đã nghiệm thu
Thông tin-Tư liệu NCKH
Web Sites & Commerce Hoạt động Đảng & Đoàn thể
Web Sites & Commerce Bạn trẻ
Web Sites & Commerce Văn bản pháp quy
Số liệu thống kê
Web Sites & Commerce An toàn thực phẩm & hóa chất
Web Sites & Commerce Thầy thuốc và Danh nhân
Web Sites & Commerce Ngành Y-Vinh dự và trách nhiệm
Web Sites & Commerce Trung tâm dịch vụ
Web Sites & Commerce Thông báo-Công khai
Web Sites & Commerce Góc thư giản

Tìm kiếm

Đăng nhập
Tên truy cập
Mật khẩu

WEBLINKS
Website liên kết khác
 
 
Số lượt truy cập:
5 2 4 6 2 4 2 9
Số người đang truy cập
3 8 4
 Thư viện điện tử Công trình nghiên cứu về Ký sinh trùng
Cập nhật thông tin về một số điểm mới trong lâm sàng sốt rét ác tính T

1. Dự án nghiên cứu Blantyre Malaria Project Epilepsy Study (BMPES) về hậu quả thần kinh trên các bệnh nhi sống sót sau SRAT thể não có dấu hiệu bệnh lý võng mạc (+)

              Nhóm tác giả Gretchen L Birbeck, Malcolm E Molyneux, Peter W Kaplan, Karl B Seydel, Yamikani F Chimalizeni, Kondwani Kawaza, Terrie E Taylor cho biết các trường hợp sốt rét ác tính (SRAT) một rối loạn đặc trưng bởi hôn mê, có ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) trong máu và một số triệu chứng khác không phải hôn mê – có lẽ là một thử thách để chẩn đoán xác định sốt rét trong các vùng sốt rét lưu hành có tỷ lệ cao về sốt rét có KSTSR không triệu chứng và dấu hiệu hỗ trợ chẩn đoán thần kinh. Một mô tả gần đây về bệnh lý võng mạc thần kinh trong sốt rét nâng cao tính đặc hiệu trong chẩn đoán. Các nhà khoa học nhằm thiết lập có hay không giữa SRAT thể não có dấu vong mạc (+) là một yếu tố nguy cơ cho động kinh hoặc các khuyết tật thần kinh khác.

  
Giữa năm 2005-2007, một nghiên cứu thần tập tiến cứu trên các bệnh nhân sống sót do SRAT thể não tại Blantyre, Malawi. Các trẻ em bị SRAT thể não được xác định thời điểm nhập viện và yếu tố tuổi đồng thời trên những trẻ không có hôn mê hay nhiễm trùng hệ thống thần kinh. Trước tiên, nghiên cứu có nhóm chứng với tỷ lệ 1:1 nhưng năm 2006, tập hợp các tiêu chuẩn về sống sót sau SRAT thể não và bệnh lý thần kinh với tiêu chuẩn giới hạn và bệnh lý thần kinh có võng mạc qua thăm khám mắt. Đánh giá về mặt lâm sàng khi xuất viện và theo dõi chuẩn y do các điều dưỡng ghi nhận chuẩn sau mỗi 3 tháng để xác định có hay không các trẻ em xuất hiện cơn rỗi loạn động kinh mới hoặc khuyết tật thần kinh. Phân tích Kaplan-Meier tiến hành để đánh giá chỉ số động kinh.

 
132 trẻ em có dấu võng mạc dương tính và 264 trẻ trong nhóm chứng và nhóm có hôn mê được theo dõi trung bình là 495 ngày (IQR 195-819). 12 trong số 132 ca SRATTN sống sót phát triển và có động kinh so với số nhóm chứng 264 ([OR] không xác định; p < 0·0001). 28 trong số 121 ca sống sót sau SRATTN hình thành nên các khiếm khuyết thần kinh mới, đặc trưng bởi các khuyết tật về vận động, cảm giác và ngôn ngữ, so với 253 của nhóm chứng (OR 37·8, 95% CI 8·8-161·8; p < 0·0001).

Các yếu tố nguy cơ động kinh trên trẻ em có SRATTN có nhiệt độ thân thể cao hơn (39·4°C [SD 1·2] vs 38·5°C [1·1]; p = 0·01) và động kinh cấp (11/12 vs 76/120; OR 6·37, 95% CI 1·02-141·2), giới tính nam là một yếu tố nguy cơ cho các khiếm khuyết thần kinh mới (20/28 vs 38/93; OR 3·62, 1·44-9·06). Hầu hết ¾ số ca SRATTN có dấu thần kinh võng mạc dương tính sau sống sót do SRATTN hình thành cơn động kinh hoặc các rối loạn hay di chứng về hành vi thần kinh. Các thử ngthieemj lâm sàng bảo vệ thần kinh nhằm quản lý sốt tăng và khống chế cơn co giật cho chắc chắn.

2. Loại protein Armadillo Pf16 là cần thiết đối với cấu trúc và chức năng flagellar trên các giao tử đực Plasmodium

Nhóm tác giả gồm Malaria Ursula Straschil, Arthur M. Talman, David J. P. Ferguson, Karen A. Bunting, Zhengyao Xu, Elizabeth Bailes, Robert E. Sinden, Anthony A. Holder, Elizabeth F. Smith, Juliet C. Coates, Rita Tewari đang công tác tại Viện di truyền, đại học sinh học của đại học Nottingham, Anh; đơn vị sinh học phân tử và tế bào, đại học hoàng gia London, vương quốc Anh; khoa nghiên cứu lâm sàng Nuffield, đại học Oxford, bệnh viện John Radcliffe, Anh; khoa ký sinh trùng, viện nghiên cứu y học MRC quốc gia, Anh; khoa sinh học khoa học, đại học Dartmouth, Hanover, New Hampshire, Mỹ.

 
Sốt rét gây ra bởi ký sinh trùng Plasmodium, đe dọa 40% dân số thế giới. Lan truyền sốt rét giữa các động vật có xương sống và các vật chủ côn trùng lệ thuộc vào giai đoạn hữu tính của chu kỳ. các giao tử đực của ký sinh trùng sốt rét Plasmodium là một giai đoạn phát triển của loại ký sinh trùng. Rất ít điều biết về xác định hoặc chức năng của protein liên quan đến sinh học của trùng roi này. Các nhà khoa học cho thấy đặc trưng một Plasmodium Pf16 sử dụng các dữ liệu di truyền trên ký sinh trùng chuột Plasmodium berghei. Pf16 là một loại protein điều hòa cấu trúc roi và tính di động của vi sinh vật này. Kết quả cho thấy P. berghei PF16 là trình diện trên các thể giao tử đực, đóng một vai trò chính yếu trong sửa chữa cấu trúc vi ống trong các cơ quan trong cơ thể qua kính hiển vi điện tử.

Kết quả giáng cấp gen của Pf16 trong sự chuyển động bất thường của flagellar và giảm thụ tinh, nhưng không dẫn đến sự khử trùng/tiệt trùng hoàn toàn, không giống như đột biến pf16 trong các vi sinh vật khác. Sử dụng mô hình đồng đẳng, phân tích sinh tin học và nghiên cứu bổ thể trên các Chlamydomonas, cho thấy một số vùng của protein Pf16 có tính bảo tồn cao trên các eukaryotes, ngược lại các vùng khác có thể chức năng đặc hiệu loài. Pf16 là một protein ARM đặc trưng trong ký sinh trùng sốt rét giống Plasmodium và nghiên cứu này mở ra một mô hình lý thuyết mới để phân tích sinh học của của Plasmodium có thể cung cấp các hướng mới trong nghiên cứu các loài ký sinh trùng này.

3. Mô hình lan truyền sốt rét P. knowlesi ở người: ưu thế về vector và tính ưu thế vật chủ.

Nhóm nghiên cứu Yakob L, Bonsall MB, Yan G gần đây có nghiên cứu về loài ký sinh trùng thứ 5 ở người là Plasmodium knowlesi, một loài ký sinh trùng sốt rét thường chỉ nhiễm và gây bệnh trên các khỉ đuôi dài, song gần đây người ta phát hiện chúng cũng có lưu hành trên người tại khu vực Đông Nam Á. Trong khi khả năng vật chủ người đã được mô tả và làm rõ trên mô hình thực nghiệm về vấn đề lây truyền bệnh từ muỗi sang người, thì mô hình ký sinh trùng có thể lan truyền từ người trở lại muỗi trong tự nhiên vẫn chưa biết rõ ràng và thấu đáo.

Sử dụng một mô hình toán học, ảnh hưởng của các khả năng vật chủ người lên lan truyền bệnh đã được đánh giá. Việc thích ứng với một mô hình chuẩn cho quá trình lan truyền bệnh qua vector và sử dụng các phân tích lan tràn tiến hóa, người ta cũng đã khám phá ra làm thế nào khả năng của các vật chủ khác nhau giữa con người và khỉ có thể hỗ trợ làm rõ cho tiến trình dịch tễ học của nhiễm trùng loài P. knowlesi trên các vật chủ khác nhau.

Tiếp sau sự hiểu biết về các con đường tiến hóacủa các ký sinh trùng và vector sốt rét ở người khác, có một sự gia tăng quần thể người với vùng lưu hành P. knowlesi sẽ được lựa chọn các các vector cũng như các loại ký sinh trùng ưa người lan truyền với nhau. Ứng dụng các thích ứng này, các phân tích lan truyền tiến hóa đưa ra một ngưỡng điều kiện mà tại đó bệnh của khỉ này có thể trở thành một vấn đề y tế cộng cộng nghiêm trọng. Ngưỡng điều kiện này đã dduwwjc bàn luận trong bối cảnh cùng tiến hóa giữa vector và ký sinh trùng sốt rét đóng vai trò như một chức năng của các hiệu ứng do con người gây ra “anthropogenic effects”.

Kinh phí nghiên cứu này do Viện sức khỏe quốc gia Mỹ và Wellcome Trust tài trợ.

4. Artesunate so với quinine trong điều trị sốt rét ác tính P. falciparum trên trẻ em châu Phi

 
Một kết quả nghiên cứu vừa đăng tải trên tạp chí The Lancet, Volume 376, Issue 9753, Pages 1647 - 1657, 13 November 2010 cho biết nhóm nghiên cứu gồm
Arjen M Dondorp, Caterina I Fanello, Ilse CE Hendriksen, Ermelinda Gomes, Amir Seni, Kajal D Chhaganlal, Kalifa Bojang, Rasaq Olaosebikan, Nkechinyere Anunobi, Kathryn Maitland, Esther Kivaya, Tsiri Agbenyega, Samuel Blay Nguah, Jennifer Evans, Samwel Gesase, Catherine Kahabuka, George Mtove, Behzad Nadjm, Jacqueline Deen, Juliet Mwanga-Amumpaire, Margaret Nansumba, Corine Karema, Noella Umulisa, Aline Uwimana, Olugbenga A Mokuolu, Olanrewaju T Adedoyin, Wahab BR Johnson Antoinette K Tshefu MD, Marie A o­nyamboko, Tharisara Sakulthaew, Wirichada Pan Ngum, Kamolrat Silamut, Kasia Stepniewska, Charles J Woodrow, Delia Bethell, Bridget Wills, Martina o­neko, Tim E Peto, Lorenz von Seidlein, Nicholas PJ Day, Nicholas J White đồng tiến hành nghiên cứu này cho biết: sốt rét ác tính (SRAT) là một trong những nguyên nhân chính gây tử vong trẻ em và thường là lý do chính khiến trẻ em tại vùng nhiệt đới nhập viện ở khu vực sa mạc Sahara, châu Phi.

Quinine vẫn là lựa chọn điều trị thiết yếu dù bằng chứng tại châu Á cho thấy artesunate có liên quan đến tỷ lệ tử vong thấp hơn. Họ đã so sánh điều trị bằng đường uống giữa artesunate hoặc quinine trên trẻ em sốt rét ác tính tại châu Phi.

Một nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên mở được tiến hành tại 11 trung tâm của 9 quốc gia châu Phi. Trẻ em (<15 tuổi) bị SRAT do P.falciparum được quy nạp ngẫu nhiên cho tiêm thuốc hoặc là artesunate hoặc là quinine. Sự phân bố ngẫu nhiên trong các block gồm 20, với số nghiên cứu tương ứng với sự chỉ định điều trị theo quy trình nghiên cứu chuẩn. Thử nghiệm được mở mã tại mỗi vùng và không có điều tra viên hoặc người nghiên cứu nào biết ngoại trừ các nhà thống kê cho thử nghiệm và đánh giá tóm tắt quá trình cấp thuốc điều trị. Các kết quả ban đầu về tỷ lệ tử vong tại bệnh viện đã được phân tích và thử nghiệm này được đăng ký với mã số ISRCTN50258054.
 

5425 trẻ em được đưa vào nghiên cứu đủ tiêu chuẩn; 2712 được chỉ định artesunate và 2713 chỉ định quinine. Tất cả bệnh nhân đều được phân tích kết quả ban đầu. 230 (8,5%) số bệnh nhân chỉ định bằng artesunate tiêm đã tử vong so với số 297 (10,9%) được chỉ định điều trị bằng quinine (OR 0·75, 95% CI 0·63-0·90; giảm tương đối 22·5%, 95% CI 8·1-36·9; p = 0·0022).

Tần suất các di chứng về thần kinh không khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm nhưngcó phát triển nên hôn mê (65/1832 [3·5%] với artesunate so với 91/1768 [5·1%] với quinine; OR 0·69 95% CI 0·49-0·95; p = 0·0231), co giật (224/2712 [8·3%] so với 273/2713 [10·1%]; OR 0·80, 0·66-0·97; p = 0·0199), và một tình trạng xấu đi có chỉ só hôn mê (166/2712 [6·1%] so với 208/2713 [7·7%]; OR 0·78, 0·64-0·97; p = 0·0245) và các chỉ số cho thấy tần suất ít hơn ở nhóm dùng artesunate so với nhóm dùng quinine.

Hạ đường huyết sau điều trị cũng ít hơn ở những bệnh nhân dùng artesunate so với bệnh nhi dùng quinine (48/2712 [1·8%] so với 75/2713 [2·8%]; OR 0·63, 0·43-0·91; p = 0·0134). Artesunate là thuốc dung nạp tốt, không có các phản ứng phụ nghiêm trọng liên quan đến thuốc.

Artesunate đã thay đổi tỷ lệ tử vong trên trẻ em châu Phi khi bị SRAT. Các dữ liệu này cho thấy cùng với một phân tích meta-analysis trên tất cả thử nghiệm so với artesunate và quinine, cho thấy thuốc artesunate đường tiêm có hiệu quả hơn so với nhóm thuốc quinine dùng cho các trẻ SRAT trên thế giới.

5. Phát hiện ca bệnh đầu tiên P. knowlesi tại Tây Ban Nha bằng Real time PCR trên người đi du lịch đến Đông Nam Á.

Nhóm tác giả Ta TT, Salas A, Ali-Tammam M, Martínez Mdel C, Lanza M, Arroyo E, Rubio JM đang công tác tại la bô bệnh ký sinh trùng đang nổi và sốt rét; khoa ký sinh trùng trung tâm quốc gia về vi trùng, viện Salud Carlos III, Cra, Majadahonda Pozuelo, Madrid, Tây Ban Nha. Trước đây, loài Plasmodium knowlesi chưa được quan tâm như một loài Plasmodium có thể gây sốt rét ở người, mà chỉ đóng vai trò sốt rét trên các khỉ đuôi dài (Macaca fascicularis) và khỉ đuôi heo (Macaca nemestrina) tìm thấy ở Đông Nam Á.

Một bệnh nhân nhiễm P. knowlesi được mô tả trên một người đi du lịch trở về Tây Ban Nha với bieur hiện cơn sốt mỗi ngày sau một tuần đi về. Chuyến du lịch sáu tháng đến ở trong các vùng rừngcủa Đông Nam Á từ 2008-2009. Nhiễm P. knowlesi của anh ta được phát hiện bằng kỹ thuật định lượng multiplex real time quantitative PCR và xác định bằng giải trình tự đoan khuếch đại. Sử dụng kỹ thuật lồng đa mỗi (nested multiplex malaria PCR) và test chẩn đoán nhanh cho kết quả âm tính P.knowlesi. Bệnh nhân này xuất viện và không có triệu chứng khi đó lại có kết quả dương tính với P. knowlesi. Trước ca này, cũng đã có thêm 2 trường hợp được báo cáo trên những người châu Âu đi du lịch bị mắc sốt rét do P.knowlesi, một người đàn ông Phần Lan đi du lịch đến một bán đảo ở Malaysia trong 4 tuần vào tháng 3 năm 2007 và một người Thụy Điển khác có một chuyến thăm ngắn ngày ở Malaysian Borneo vào tháng 10 năm 2006.

Cùng với báo caó này trên một người Tây Ban Nha cũng nhiễm P. knowlesi trở về từ khu vực Đông Nam Á, có lẽ đây là ca thứ 3 được báo cáo tại châu Âu có nhiễm P. knowlesi đã chỉ ra loài ký sinh trùng vỗn dĩ trên loài linh trưởng như khỉ có thể gây nhiễm trên các du khách đến các vùng lưu hành loại KSTSR này ở Đông Nam Á. Ca bệnh cuối cùng thật đáng ngạc nhiên vì đây là một ca nhiễm P. knowlesi có triệu chứng chưa được điều trị, khác với những gì mà chúng ta biết về nhiễm KSTSR P. knowlesi gần đây.

 
Hầu hết các báo cáo trước đây nhiễm P. knowlesi ở người đều là người lớn, thường có triệu chứng và có mật độ ký sinh trùng tương đối cao, đến báo cáo gần đây tại Ninh Thuận, phía nam của miền Trung Việt Nam, chủ yếu có người ở chính là dân tộc thiểu số Raglai, mà trong đó tất cả ca nhiễm P. knowlesi đều không có triệu chứng, đồng nhiễm với P. malariae, mật độc ký sinh trùng thấp và 2/3 ca xác định là trẻ em nhỏ dưới 5 tuổi.

6. Tiếp cận mới trong nghiên cứu cắt đường lan truyền sốt rét

Theo tạp chí ScienceDaily (Dec. 5, 2010) cho biết đại học Illinois tại Chicago, nhà nghiên cứu John Quigley đã mô tả một tiếp cận đầy hứa hẹn đến sự lan truyền của sốt rét trong hội nghị thường niên về huyết học của Mỹ tại Orlando, Fla.

Tác giả Quigley trình bày tóm tắt đề tài nghiên cứu về “Anopheline Orthologs of the Human Erythroid Heme Exporter, FLVCR, Export Heme: Potential Targets to Inhibit Plasmodium Transmission," tại cuộc họp. Các nhà nghiên cứu tạp trung vào đích tiềm năng đến sự ức chế lan truyền của ký sinh trùng Plasmodium đã gây nên sốt rét. Các con muỗi cái tiêu hóa một lượng lớn Hb để đóng vai trò như nguồn thức ăn để phát triển và muỗi đẻ trứng. Khi muỗi tiêu hóa máu, Plasmodium sản sinh trong ruột muỗi. Các tế bào trứng của Plasmodium thụ tinh trong lớp tế bào ruột muỗi và phát triển thành các oocyst. Sau khi trưởng thành, các oocyst sẽ vỡ ra và ly giải hàng ngàn ký sinh trùng và cho phép muỗi lan truyền sốt rét khi chúng đốt một người khác. Các nghiên cưu trước đây đã chỉ ra rằng muỗi có sự gia tăng các stress oxi hóa trong ruột đề kháng với lan truyền Plasmodium. Quigley và cộng sự của ông đặt ra giả thuyết rằng nếu chúng có thể phá vỡ chức năng của các protein vận chuyển màng tế bào gọi là FLVCR (cell-surface transport protein_FLVCR) để bơm thành phần heme ra khỏi tế bào, nó sẽ làm tăng các stress oxy hóa trong ruột muỗi và tăng Plasmodium tại một điểm đặc biệt trong chu kỳ ký sinh trùng.

 
Các nhà nghiên cứu phân lập các gen FLVCR từ các con muỗi lan truyền sốt rét và chỉ ra các gen mã hóa một protein phóng thích heme và bảo vệ các tế bào khỏi các stress oxi hóa. Sử dụng các kỹ thuật “gene-silencing”, họ có thể làm giảm mức độ FLVCR trong ruột muỗi một cách ý nghĩa. "nếu sự gián cấp về mặt chức năng của protein ức chế lan truyền của sốt rét, thì có thể dùng một cách hiệu quả một phần protein như là một kháng nguyến để cố kích thích tạo một vaccine ở người”, Quigley nói, vì thế các kháng thể làm tắc nghẽn FLVCR và tăng stress oxy hóa và giờ đây Plasmodium không thể hoàn thành toàn bộ chu kỳ của chúng, do đó ngăn được lan rộng sốt rét.

Nghiên cứu của Quigley đang tiếp tục và nghiên cứu tương lai sẽ tập trung vào hoặc là các FLVCR ức chế có thể làm tắc nghẽn lan truyền Plasmodium. Các nghiên cứu có thể ứng dụng cho tất cả các loài côn trùng ăn máu gây nhiều loại bệnh khác nhau, như West Nile Virus, sốt xuất huyết và bệnh Leishmaniasis.

7. Artesunate dùng đường hậu môn là một can thiệp đạt mục tiêu “chi phí-hiệu quả” cho SRAT trên nhiều trẻ em

Theo tạp chí ScienceDaily (Nov. 30, 2010) cho biết thuốc artesunate dùng đường hậu môn cho trẻ em bị nghi ngờ SRAT trước khi đưa chúng vào một can thiệp có hiệu quả mà có thể thay thế nâng cao việc quản lý sốt rét ở trẻ em tại các vùng sâu vùng xa của các quốc gia châu Phi, theo một nghiên cứu mới đây dẫn đầu bởi nhà nghiên cứu Yesim Tozan thuộc trường đại học y tế công cộng Boston, kêt quả đăng tải trên trang tin của tạp chí Lancet , dựa trên một nghiên cứu trước đây cho thấy chỉ định liều artesunate đường hậu môn do các nhân viên y tế cộng đồng trên những đứa trẻ nghi ngờ SRAT đã giảm nguy cơ tử vong và khuyết tật thần kinh một cách đáng kể. Ngoài việc cứu lấy mạng sống cho trẻ em nhỏ, SRAT còn liên quan đến sự hình thành nên các khuyết tật về phát triển của trẻ.
 

Artesunate dùng đường trực tràng (RA_rectal artesunate) cắt sự tiến triển của bệnh một cáchnhanh chóng nhờ vào giảm đi mật độ KSTSR, nhưng nên theo dõi sau khi dùng thuốc điều trị sốt rét. Vì điều này, nhóm nghiên cứu do Tozan cho biết thành công của can thiệp này trên cộng đồng lệ thuộc nhiều vào hệ thống y tế chính thống có thể cung cấp các cán bộ y tế tốt khi chỉ định thuốc và các phương tiện y tế khác cần thiết, giám sát thường quy theo quy trình một hệ thống theo dõi sau điều trị cho chặt chẽ. Nhóm nghiên cứu đã đưa ra giả thuyết thuần tập trên 1.000 trẻ sơ sinh qua 5 năm trong vùng sốt rét lan truyền cao. Nhóm nghiên cứu đánh giá chi phí và chi phí-hiệu quả của điều trị artesunate theo sau liên quan đến cơ sở y tế, dưới một loại viễn cảnh can thiệp và hài lòng về các dịch vụ y tế.

Các nhà nghiên cứu ước tính rằng điều trị bằng artesunate đủ liệu trình và hấp thu đầy đủ cũng như hợp tác điều trị tốt với lời khuyên chuyển viện sẽ ngăn chặn được 37 ca tử vong và 967 năm điều chỉnh khuyết tật (disability-adjusted life-years_DALYs). Thông qua tất cả các can thiệp và viễn cảnh phối hợp một cách hài hòa, nghiên cứu đã báo cáo rằng can thiệp có thể thay đổi mỗi mức chi phí DALY từ 77 USD đến 1.173 USD.

"So với can thiệp đánh vào đích của bệnh tật trẻ em chính yếu tại khu vực cận sa mạc Sahara, châu Phi, điều trị bằng artesunate là một trong những biện pháp đạt chi phí-hiệu quả nhất, đặc biệt nếu can thiệp mức độ trung bình hoặc cao hơn. Tại các vùng sâu vùng xa, sự can thiệp bằng thuốc tiêm là một ưu thế, hướng dẫn 2010 của Tổ chức WHO cho điều trị sốt rét khuyến cáo sử dụng artesunate tiêm hoặc artemisinin dạng viên đặt hậu môn trong điều trị cấp cứu những bệnh nhân nghi ngờ SRAT, trước khi chuyển chúng đến một cơ sở y tế khác. Tuy nhiên, việc can thiệp này vẫn còn thấp, một phần vì chi phí điều trị và tính hiệu quả của nó còn cân nhắc.

 
"Nghiên cứu này chỉ ra các thuốc artesunate dùng đường trực tràng có hiệu quả cao trong việc cứu sống các trẻ bệnh do sốt rét không chỉ là đoạn kết mà còn là không có con đường nào sống sót, tác giả Joel G. Breman cho biết. "giờ đây có đầy đủ lý lẽ biện minh cung cấp cho các nhân viên y tế công cộng các thuốc artesunate dùng đường hậu môn, trong việc đào tạo, hướng dẫn cách dùng và theo dõi như một liệu trình thuốc cần thiết, artesunate đường trực tràng như là một kho vũ khí đạn dược cho các bệnh nhi sốt rét thường gặp.

"Trước hết thuốc artesunate dùng đường trực tràng nếu dùng hợp lý tại cộng đồng, sẽ là điều trị lấp đi khoang trống quan trọng trong điều trị do tình trạng yếu của hệ thống chăm sóc y tế tại nhiều quốc gia có lưu hành sốt rét. Các thử nghiệm của nghiên cứu cũng cung cấp một bằng chứng kinh tế mạnh mẽ đối với các nhà làm chính sách để đưa ra các quyết định can thiệp tốt nhất. Thuốc artesunate điều trị có tiềm năng cho chúng ta tác động đúng đích cứu sống trẻ đề ra bởi Liên hiệp quốc và các tổ chức quốc tế khác.

"Một báo cáo năm 2010 của thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hiệp quốc là điều trị hiệu quả và kịp thời” là mục đich hướng đến ngăn ngừa các biến chứng đe dọa tính mạng khỏi sốt rét, đặc biệt trẻ em. Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ đặt ra đích để ngăn chặn và bắt đầu đảo ngược các chỉ số sốt rét vào năm 2015.

Báo cáo lưu ý đến 7 năm trước, nhiều quốc gia chuyển đổi chính sách thuốc quốc gia để thúc đẩy liệu pháp ACTs – một biện pháp điều trị hiệu quả nhưng cũng có giá thành đắt khi đieùe trị sốt rét. Việc triển khai toàn cầu về các thuốc này ngày một gia tăng kể từ năm 2005. Nhưng điều trị sốt rét rộng khắp các quốc gia châu Phi, từ 67% ở một số vùng đến chỉ 1% cho trẻ em < 5 tuổi bị sốt trong vùng chỉ nhận được bất kỳ một liêụ trình điều trị bằng thuốc sốt rét vượt quá 50% trong con số 8/37 quốc gia châu Phi cung cấp dữ liệu từ năm 2005-2009.

Một nửa dân số thế giới đang bị nguy cơ mắc sốt rét, với ước tính đứng đầu với 243 triệu ca sốt rét với gần 863.000 ca tử vong năm 2008. Trong số này, có 767.000 hoặc 89% số ca xảy ra tại châu Phi. Quỹ nghiên cứu cho nghiên cứu mới này do Dự án ưu tiên phòng chống bệnh, Fogarty International Center, Viện nghiên cứu sức khỏe Mỹ và Quỹ Peter Paul Career Development Professorship tại đại học Boston tài trợ.

8. Yếu tố nguy cơ gây khuyết tật thần kinh và giảm nhận thức kéo dài sau SRAT thể não

Nhóm tác giả gồm R Idro1, J A Carter, G Fegan, B G R Neville, C R J C Newton đang công tác tại Trung tâm nghiên cứu y học Kenya, la bô nghiên cứu của Wellcome Trust, Kilifi, Kenya; Trung tâm sức khỏe trẻ em quốc tế, Viện sức khỏe trẻ em ở đại học London, Anh; Đơn vị nghiên cứư dịch tễ học bệnh truyền nhiễm, khoa bệnh nhiệt đới, đại học y khoa London, Anh; đơn vị nghiên cứu khoa học thần kinh, đại học London đồng tiến hành nghiên cứu này.

Kết quả nghiên cứu cho thấy các suy giảm về nhận thức và khiếm khuyết về thần kinh thường xảy ra sau khi bị SRAT thể não. Mặc dù một số yếu tố nguy cơ đối với các khiếm khuyết quan trọng này lúc xuất viện đã được mô tả, một vài nghiên cứu xem xét mối liên quan đến suy giảm tồn tại này. Các yếu tố nguy cơ cho suy giảm sau SRAT thể não được xác định nhờ vào hồ sơ bệnh án tại bệnh viện của 143 trẻ em tuổi từ 6-9 tuổi, nhập viện trước đây vì SRAT thể não, đã được đánh giá và theo dõi ít nhất 20 tháng sau khi xuất viện để phát hiện các bất thường liên quan đến nhận thức, ngôn ngữ, lời nói và khác (trí nhớ, sự chú ý, chức năng không liên quan lời nói),…

 
Tuổi trung bình nhập viện là 30 tháng (IQR 19-42) và thời gian trung bình từ khi xuất viện đến khi đánh giá là 64 tháng (IQR 40-78). 34 trẻ em (23.8%) được xác định có suy giảm và bất thường: 14 (9.8%) về thần kinh vận động, 16 (11.2%) rối loạn về lời nói và ngôn ngữ và 20 (14.0%) các rối loạn chức năng nhận thức.

Các triệu chứng động kinh co giật (OR 5.6, 95% CI 2.0 - 16.0), hôn mê sâu lúc nhập viện (OR= 28.8, 95% CI 3.0-280), các dấu hiệu thần kinh định vị được quan sát trong suốt quá trình nhập viện (OR=4.6, 95% CI 1.1-19.6), các khuyết tật về thần kinh lúc xuất viện (OR=4.5, 95% CI 1.4-13.8) hoàn toàn độc lập với các suy giảm dai dẳng. Ngoài ra, nhiều cơn giật xảy ra liên quan đến suy giảm vận động, tuổi < 3, suy dinh dưỡng nặng, tăng áp sọ não và hạ đường huyết kèm theo suy giảm ngôn ngữ, trong khi hôn mê kéo dài, suy dinh dưỡng nặng, hạ đường huyết liên quan đến suy giảm chức năng nhận thức khác.
 

Các yếu tố nguy cơ cho suy giảm nhận thức và thần kinh sau SRAT thể não gồm những bệnh nhân nhiều cơn co giật, hôn mê sâu hoặc kéo dài, hạ đường huyết, đặc điểm lâm sàng có tăng áp lực nội sọ. Mặc dù có tình trạng chống lắp các chức năng suy giảm và yếu tố nguy cơ, song sự khác biệt các yếu tố nguy cơ đối với các chức năng đặc biệt có thể cho thấy các cơ chế riêng biệt đối với tổn thương thần kinh. Các yếu tố có thể hình thành nên nền tảng của chiến lược dự phòng tương lai đối với các suy giảm khác nhau về mặt chức năng.

9. Báo cáo ca bệnh tử vong do sốt rét Plasmodium knowlesi được giải phẩu tử thi làm rõ

Nhóm tác giả Janet Cox-Singh, Jessie Hiu, Sebastian B Lucas, Paul C Divis, Mohammad Zulkarnaen, Patricia Chandran, Kum T Wong, Patricia Adem, Sherif R Zaki, Balbir Singh, Sanjeev Krishna đang làm việc tại Đơn vị y học tế bào và phân tử, Trung tâm bệnh nhiễm trùng, đại học St George, London, Cranmer Terrace; Trung tâm nghiên cứu sốt rét, đại học Sarawak, Kuching, Malaysia; khoa pháp y, Bệnh viện hoàng gia Queen Elizabeth, Kota Kinabalu, Sabah, Malaysia; khoa giải phẩu bệnh học, đại học y khoa KCL, bệnh viện Thomas, London; khoa bệnh học đại học Malaya, Kuala Lumpur, Malaysia; trung tâm nghiên cứu bệnh học truyền nhiễm, CDC, Atlanta, Mỹ. Kết quả nghiên cứu đăng tải trên Malaria Journal 2010.

Sốt rét truyền từ động vật sang người (zoonotic malaria) gây ra bởi loài ký sinh trùngPlasmodium knowlesi là rất quan trọng, nhưng điều nhận ra gần đây là nó cũng lại là tác nhân gây bệnh cho người quan trọng nữa. Đây có lẽ là lần đầu tiên ca bệnh tử vong ở người nhiễm Plasmodium knowlesi bị tử vong được mổ tử thi và được báo cáo ở đây.

Một người đàn ông hoàn toàn khỏe mạnh trước đây, 40 tuổi đã xuất hiện triệu chứng sau 10 ngày trải qua một thời gian dài trong đảo North Borneo. 4 ngày sau đó, anh ta nhập viện trong tình trạng suy sụp và tử vong trong vòng 2 giờ. Hạ natri máu và tăng ure máu, tăng kali máu, LDH và các men gan. Ngoài ra, anh ta còn có dấu hiệu giảm tiểu cầu và tăng bạch cầu eosin máu. Sốc do sốt Dengue được nghi ngờ và chẩn đoán đầu tiên và sau khi giải phẩu tử thi thực hiện thì xét nghiệm virus dengue âm tính.

Xét nghiệm máu tìm ký sinh trùng sốt rét (KSTSR) cho thấy mật độ KSTSR rất cao và định loài bằng nested-PCR cho kết quả P. knowlesi. Giải phẩu đại thể não và cơ tim cho thấy nhiều chấm xuất huyết dạng chấm, gan và lách trương lớn và phổi lại có biểu hiện như một hội chứng ARDS.

Về mặt vi thể chỉ ra có hiện tượng ẩn cư nhiều tế bào hồng cầu bị ký sinh đóng bên trong mạch máu của não bộ, tim và thận mà không thấy óc bằng chứng phản ứng viêm mạn tính trong não hoặc bất kỳ một cơ quan nào khác được phân tích. Phẩu tích não bộ cho thấy âm tính với phân tử ICAM-1 (intracellular adhesion molecule-1). Lách và gan chứa nhiều hạt pigment và đại thực bào cùng với nhiều hồng cầu nhiễm bị ký sinh. Thận có bằng chứng hoại tử ống thận cấp và có nhiều tế bào nội mô trong phần cắt của cơ tim là rõ ràng nhất.

Người ta kết luận rằng toàn bộ bức tranh của trường hợp tử vong này là một ca nhiễm trùng KSTSR toàn thể phù hợp với phân loại của WHO về sốt rét ác tính. Các kết quả xét nghiệm sau mổ tử thi không thấy tương tự như các trường hợp tử vong do P. falciparum, bao gồm bệnh học về não bộ.

 
Sự khác biệt quan trọng gồm có vắng mặt hôn mê dù có những chấm xuất huyết rất nhiều trong não và ẩn cư đóng quánh của ký sinh trùng trong não bộ. Các kết quả này cho thấy cần nghiên cứu thêm về sốt rét do P. knowlesi, điều đó sẽ hỗ trợ nhiều trong việc phiên giải kết quả và các thông tin xung đột chưa thỏa đáng về cơ chế bệnh sinh của sốt rét ở người.

 

Ngày 04/01/2011
PGS.TS. Triệu Nguyên Trung và Ths. Huỳnh Hồng Quang  

THÔNG BÁO

   Dịch vụ khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn khám bệnh tất cả các ngày trong tuần (kể cả thứ 7 và chủ nhật)

   THÔNG BÁO: Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn xin trân trọng thông báo thời gian mở cửa hoạt động trở lại vào ngày 20/10/2021.


 LOẠI HÌNH DỊCH VỤ
 CHUYÊN ĐỀ
 PHẦN MỀM LIÊN KẾT
 CÁC VẤN ĐỀ QUAN TÂM
 QUẢNG CÁO

Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005
Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.
Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464
Email: impequynhon.org.vn@gmail.com
Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng
Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích